13 May 2021

LÀNG BÁO SÀI GÒN THIẾU CHÂN CHẠY - Lê Thiệp

Khi Nguyễn Huỳnh bị động viên vào Thủ Đức ắc ê, Huỳnh nhờ chúng tôi coi nhà hộ. Một hôm buổi trưa nóng nắng giữa khu Bàn Cờ, tôi và một lô bằng hữu đang ở trần ôm bia băm ba nghe nhạc Khánh Ly thì có tiếng gõ cửa, dù cửa không đóng.

Một ông cụ trông hiền lành đứng đó hỏi :

-Thưa các ông, đây có phải nhà của thằng Huỳnh không ạ?

Tụi tôi nhanh như chớp bật dậy, vì biết ngay ông cụ là thân sinh của Huỳnh từ Đà Nẵng vào thăm con. Sau khi mời cụ ngồi, đứa thì lo thu dọn chiến trường la de, băng nhạc, sách báo, đứa thì lo rót nước hầu chuyện cụ. Sau một hồi, ông cụ chỉ từng đứa “Thế ông này làm gì? Ông kia làm gì?” Chúng tôi khai cả lũ từ Ngô Đình Vận đến Du con, Nguyễn Bá Quyền đều làm báo cả, ông cụ trầm ngâm :

-Thế ra các ông đều là nhà báo. Ờ, lúc thằng Huỳnh nó đỗ xong tú tài, tôi bảo nó học sư phạm, học y khoa, nó lắc đầu, đi học văn khoa, văn khiếc gì đó. Cử nhân văn khoa là cử nhân gì vậy các ông? Học xong thì làm gì để sống? Đã vậy học xong nó lại đi làm báo với các ông mới khổ chứ. Thế hàng xóm họ hỏi tôi, tôi trả lời làm sao? Không lẽ lại bảo tôi nuôi con tôi khổ cực cho nó đi ăn học để rồi làm ông nhật trình à? Mà nó có sung sướng gì đâu. Nhà này tôi gửi tiền vào mua cho nó. Tháng tháng tôi vẫn phải chu cấp thêm. Thế tại sao các ông cũng làm báo vậy?

Giọng cụ đều và trầm, rõ từng tiếng một. Cả lũ ú ớ kể cả những tên già mồm lớn miệng nhất. Ông cụ nhìn lên tường thấy phó bản của viện bảo tàng Louvre in bức họa nổi tiếng Mona Lisa, bỗng thở dài :

- Tôi thật không hiểu các ông. Nhà tôi đạo Phật mà nó lại đem hình Đức Mẹ to thế kia về treo giữa phòng khách. Chúng tôi lâm vào ngõ bí, vội vàng thu vén, đưa chìa khoá nhà cho cụ rồi dọt mất.

Nguyễn Huỳnh tử nạn ngay vài ngày sau 30/4 và cái chết mờ ám của anh đã gây một mối đau lòng không chỉ cho người thân trong gia đình. Bằng hữu làm báo của anh còn lại ở Sài Gòn hôm đó đã tề tựu đủ để tiễn anh. Nguyễn Huỳnh cũng như đa số người làm báo trẻ tuổi lúc đó đã phải vượt nhiều khó khăn để lao vào một nghề luôn bị nhìn bằng con mắt dè bỉu và bằng những lời dị nghị.

Giống như Nguyễn Huỳnh, tôi và những bạn đồng lứa bỗng như bị đẩy vào thực tại của cuộc chiến sau một thời gian êm ấm của Đệ Nhất Cộng Hoà. Suốt từ hiệp định Geneva đến khoảng 1960, miền Nam tương đối có một không khí thanh bình. Thiên hạ nửa đêm vẫn có thể lái xe từ Sài Gòn ra Vũng Tàu không sợ bị mìn, bị đắp mô. Xe đò chạy liên tục 24/24 từ thủ đô lên mạn ngược như Kontum, Ban Mê Thuột và ra Trung như Đà Nẵng, Huế, hoặc xuôi xuống miệt đồng bằng Cửu Long. Không khí yên lành đó thực ra chỉ là cơn lặng trước khi có giông bão. Nhưng ở tuổi học đường, chúng tôi chưa để ý đến những vấn đề lớn của quốc gia cho đến khi anh em tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại.

Cả một lớp thanh niên sinh viên như chợt tỉnh ngủ, lao vào cuộc sống chung với tất cả sự đa dạng của thời cuộc. Thời ông Diệm, Tổng Hội Sinh Viên hoặc nói rộng ra thanh niên sinh viên chỉ có một hoạt động "nổi tiếng" là vụ biểu tình trước khách sạn Majestic phản đối Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Sau 1963, chúng tôi có quá nhiều đoàn thể, hội đoàn và đủ thể loại sinh hoạt. Từ những cuộc bầu cử phân khoa cho Tổng Hội Sinh Viên, từ Chương Trình Hè, CPS, Thanh Sinh Công, Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, Thanh Niên Chí Nguyện, Thanh Niên Thiện Chí… cho đến một số các tổ chức có màu sắc chính trị hơn nữa như Sinh Viên Tự Do. Chúng tôi chóng mặt, say sưa lao vào cuộc sống trong cái ám ảnh của cuộc chiến đang mỗi lúc một lan rộng và cường độ cũng mỗi lúc một tăng.

Rồi cuộc chiến được quốc tế hoá – nói một cách văn vẻ – hoặc Mỹ hoá với một đạo quân 500 ngàn lính Mỹ tham chiến. Xã Hội Việt Nam vào những năm sau 1963 quả đã chịu những cơn lốc khốc liệt nhất. Báo chí Việt Nam tất nhiên cũng bị cuốn theo.

*

Hình ảnh trước 1963 của báo chí Việt Nam cũng giống như đời sống của thanh niên sinh viên. Nó phẳng lặng như cái thanh bình giả tạo đang có. Mọi công việc đã có văn phòng Nghiên Cứu Chính Trị của bác sĩ Tuyến, có bộ Thông Tin của ông Trần Chánh Thành, ông Ngô Trọng Hiếu lo. Báo chí phần nào chỉ là cánh tay nối dài của chính sách và đường lối của chính phủ. Những tin lớn nhất trong giai đoạn này còn được nhớ là vụ án cô Gần ở Rạch Dừa, vụ Khỉ Cà Mau của tờ Sài Gòn Mới, vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át xít… Số báo xuất bản cũng khá giới hạn, chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nổi bật nhất có lẽ là các tờ Tự Do, Ngôn Luận, Tiếng Chuông, Dân Đen, Sài Gòn Mới, Thần Chung, Tia Sáng.

Những người làm báo đa số đã già, đã quen với nếp yên ổn do chính quyền vạch ra. Nhưng khi sợi dây trói bị đứt tung, làng báo Việt Nam như mất định hướng. Điển hình và phản ánh rõ nhất có lẽ là lời “thú nhận” của ba nhà báo nổi tiếng Hiếu Chân, Chu Tử và Từ Chung khi ba vị này công khai thú rằng họ đã không đảm đương đúng vai trò nhà báo suốt thời Đệ Nhất Cộng Hoà. Trong bối cảnh đó, báo chí Việt Nam còn bị choáng ngợp vì đạo quân báo chí quốc tế đổ vào Việt Nam và lượng tin tức dồi dào liên quan đến chiến cuộc. Tin tức Việt Nam lúc đó luôn luôn xuất hiện trên trang nhất củabáo chí thế giới.

Nhìn lại lớp ký giả kỳ cựu của Miền Nam có thể tạm phân ra :

• Hàng đầu là những nhà trí thức, học vấn uyên thâm như các ông Từ Chung, Trần Tấn Quốc, Nguyễn Kỳ Nam, Chu Tử, Như Phong, Hiếu Chân ...

• Một loại nhà báo khác có mặt là những người đấu tranh, những phần tử đảng phái từng lăn lộn suốt quá trình từ tiền chiến – tức trước 1945. Điển hình có thể là các ông Thái Lân, Thái Linh, Ngọa Long, Trần Việt Sơn, Cao Dao ....

Những người nêu trên đã xông vào nghề báo vì họ chọn báo chí như phương tiện đấu tranh cho quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy mà đa số bài viết của những vị ký giả nổi tiếng trên là những bài quan điểm, bình luận thời cuộc, tham luận chính trị. Những nhà báo đáng kính đó vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh bằng ngòi bút cho đến cuối đời. Có những kết thúc ngạo nghễ như của Từ Chung. Có những kết thúc vô lý như của Chu Tử. Có những kết thúc âm thầm, lặng lẽ như của Ngọa Long, Hiếu Chân, Trần Việt Sơn… nhưng họ đã để lại những tấm gương cho lớp trẻ nhìn vào.

Nhưng báo chí có một nhiệm vụ quan trọng là thông tin. Đây có lẽ là lỗ hổng lớn nhất của báo chí miền Nam. Những ký giả săn tin và viết tin hiếm hoi vì Việt Nam chưa có trường đào luyện và hơn nữa, dưới chế độ của tổng thống Ngô Đình Diệm, báo chí không thấy có nhu cầu cần đến loại ký giả này.

Nhìn lại, chúng ta có các ông Phan Nghị, Trực Ngôn, Hoàng Hải Thủy, Trần Việt Hoài ... Tất cả những vị trên sau 1963 vẫn hiện diện và nổi tiếng trong làng báo, nhưng không trên lãnh vực săn tin, viết tin. Ông Hoàng Hải Thủy trở thành nhà văn ăn khách nhất với hàng chục tác phẩm đủ thể loại. Ông Trần Việt Hoài được nhớ vì vở kịch thơ Tro Tàn Điện Ngọc. Ông Phan Nghị sau loạt bài Vượt Trường Sơn đã bị nghi dính líu vào các hoạt động ngoài phạm vi báo chí, nhất là sau khi ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân Dân.

Điều đáng để ý nữa là nhiều ký giả săn tin đều đã “trọng” tuổi và họ vào nghề báo với nhiều nhiệm vụ khác nhau, cần gì làm đó nên khả năng săn và viết tin của họ chỉ là một phần nhỏ, đôi khi rất nhỏ trong nghiệp báo. Cái lỗ hổng của làng báo Việt Nam đó cần được trám bằng những người trẻ tuổi hơn.

Ký giả, nhà báo là tiếng khá chung chung để chỉ người viết báo. Nhưng, như trong mọi ngành nghề, ký giả cũng được phân biệt tùy theo lãnh vực chuyên biệt. Ông Sức Mấy Đinh Từ Thức là một ký giả nổi tiếng nhưng chỉ viết một mục thường trực có màu sắc nhất định và không bao giờ đi săn tin. Làng báo Việt Nam phải ghi nhận rất nhiều vị ký mục gia (columnist) hoặc như tiếng chúng tôi gọi là những vị viết film (film du jour) như Chu Tử với Ao Thả Vịt, Hiếu Chân với Nói hay Đừng. Có những vị vừa là văn sĩ, vừa là ký giả mà những Hoàng Hải Thủy, Dương Hùng Cường, Nguyễn Đình Thiều, Lê Tất Điều… là những khuôn mặt điển hình. Ông Lê Tất Điều không bao giờ viết một bản tin nào trong cái nghĩa tin tức báo chí. Ông Trần Tấn Quốc, ông Cao Dao, ông Trần Việt Sơn nổi danh vì các bài nhận định, phân tích thời sự, nhưng các ông này không theo binh sĩ ra mặt trận hay mò mẫm để truy ra đầu mối một tin đồn, tìm hiểu, phối kiểm xem đúng hay sai… Họ không thuộc loại ký giả săn và viết tin. Ông Phan Lạc Phúc có bút hiệu ký giả Lô Răng là một khuôn mặt đáng kính trong làng báo, nhưng nhất định ông không bao giờ là phóng viên cả. Cái thiếu của làng báo Việt Nam chính là vai trò phóng viên.

Săn tin và viết tin có kỹ thuật riêng, cần các kiến thức chuyên biệt. Viết nhận định, người viết đưa ra ý kiến riêng. Viết ký mục hàng ngày không cần đến yếu tố khách quan. Nhưng viết tin tức thì bắt buộc cần những qui luật báo chí như tính chính xác, sự viện dẫn nguồn tin và tất nhiên cần khách quan trình bày sự việc đúng như đã xảy ra. Tin tức phải nêu rõ các yếu tố căn bản như thời gian, nơi chốn, sự việc diễn ra như thế nào, tại sao... Người phóng viên không thể tự tung tự tác bịa chuyện, đưa nhận xét chủ quan, viện dẫn chứng cớ mơ hồ và tin vào các nguồn tin vô căn cứ. Cách viết một bản in cũng có những qui luật rõ rệt như mở đầu (lead) thế nào, khai thác, mở rộng chi tiết sao cho gãy gọn, mạch lạc và kết thúc bản tin theo khuôn mẫu nào. Bản tin báo chí có thể cắt bỏ một hay nhiều phần mà vẫn giữ đủ tính chất thông tin về các tình tiết chủ yếu.

Ký giả săn và viết tin – xin được dùng chữ phóng viên – cần có đức tính cần cù, nhẫn nại, nhưng xông xáo, biết ngửi tin, biết phải hỏi nơi đâu, gõ cửa nào để có tin tức xác thực và phải nhanh – yếu tố quan trọng của tin tức. Một yếu tố lớn để tồn tại trong nghề nghiệp phóng viên là phải biết tự giới hạn khi khai thác tin tức. Bất cứ ai muốn trở thành phóng viên đều hiểu các yếu tố căn bản của nghề nghiệp mà những điều nêu trên phản ảnh một phần rất nhỏ. Sự kiện đáng chú ý là làng báo Việt Nam thiếu phóng viên, thiếu trầm trọng. Lỗ hổng này kéo dài cho đến khi miền Nam sụp đổ.

*

Tất nhiên có cầu thì có cung. Trước đòi hỏi cấp thiết của làng báo Việt Nam liên quan đến việc săn tin và viết tin, một số giải quyết cấp thời đã được thực hiện mà đa số là từ phía chính quyền.

Viện Đại Học Sài Gòn không có phân khoa báo chí. Đại Học Văn Khoa – với chữ Văn Khoa cần được nhấn mạnh – không có một chứng chỉ nào liên quan đến báo chí. Mãi sau này viện Đại Học Vạn Hạnh với phân khoa Báo Chí, và viện Đại Học Đà Lạt có trường Chính Trị Kinh Doanh với một phân ngành báo chí. Những cơ sở đào luyện lâu dài, có giáo trình, có giáo sư đủ khả năng ở cấp Đại Học không có, nên chỉ thấy một số khoá đào luyện cấp tốc được thực hiện, đáng chú ý nhất là các khoá đào luyện của Đài Phát Thanh Sài Gòn và Việt Nam Thông Tấn Xã.

Để lọt vào được các khoá học này, thí sinh ít nhất phải có bằng tú tài và bài thi còn nhấn mạnh đến khả năng sinh ngữ. Hai khoá học này thu hút một số rất đông người dự tuyển và đa số đều có trình độ đại học. Lúc đó áp lực động viên đè nặng trên tất cả thanh niên sinh viên và hơn nữa tốt nghiệp xong các phân khoa nhân văn như Luật, Văn Khoa, các ông cử cũng khó kiếm được việc làm. Nghề báo xem ra có phần hấp dẫn, nhất là có tin đồn rằng họ có thể được chuyển sang ngoại giao để làm “tùy viên báo chí.” Nghe thật lôi cuốn. Cả hai khoá này đều được Asia Foundation tài trợ và có giáo sư ngoại quốc giảng dạy cùng một số ký giả lão thành của Việt Nam. Xin ghi nhận nơi đây nỗ lực của hai ông Nguyễn Ngọc Linh và Nguyễn Ngọc Phách trong cố gắng đào tạo lớp người làm báo trẻ lúc đó. Ông Nguyễn Ngọc Linh là giám đốc Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam rồi sau đó là Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã.

Phía quân đội cũng có một khoá huấn luyện nhưng thiên về truyền hình. Một số cameraman đã từ khoá này xuất thân và về sau là một lực lượng rất lớn trong công tác ghi lại hình ảnh chiến cuộc. Các đài truyền hình quốc tế đã tận lực khai thác nguồn nhân lực này.

Nghiệp Đoàn Ký Giả Nam Việt cũng tổ chức một khoá tu nghiệp với sự yểm trợ của Liên Đoàn Ký Giả Quốc Tế. Vì là khoá tu nghiệp – tức chỉ dành cho những ký giả hành nghề – và lại quá tổng quát nên không gây ấn tượng sâu trong làng báo Việt Nam.

Các khoá học của Đài Phát Thanh và VTX thực ra chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của hai cơ quan này, nhưng đã gián tiếp cung ứng một phần nhân lực phóng viên khá hữu hiệu cho cả báo chí tư nhân. (1) Những phóng viên của hai cơ quan này vừa làm cho cơ quan chính phủ, vừa làm thêm cho các báo tư nhân. Đây là một giải pháp có tính cách thoả hiệp. Các cơ quan chính phủ đều biết lương bổng của phóng viên rất thấp – bắt đầu là 6000 đồng một tháng. Họ cần thêm lợi tức và được nhắm mắt làm ngơ, để nuôi thân và nuôi gia đình. Phía báo tư nhân thì nguồn nhân lực có học vấn và được huấn luyện này đáp ứng đúng sự thiếu vắng trong nghề nghiệp nên đã hoan nghênh các ký giả nhà nước về cộng tác. Về lập trường chính trị, chính quyền yên tâm vì những người trên dù viết báo tư nhân cũng không bao giờ quên được gốc gác nhà nước của mình. Báo tư nhân cũng yên tâm vì nguồn tin của những phóng viên này thường rất chính xác, phát xuất từ nhà nước.

Nhưng cái lỗ hổng của làng báo Việt Nam vẫn rất lớn. Số ký giả được huấn luyện từ phía chính quyền không đông đảo lắm, chỉ khoảng trên dưới 50 người. Một giải pháp được đa số báo áp dụng là tuyển phóng viên từ những cộng sự viên, những người thỉnh thoảng viết bài, viết tin nhất là tin địa phương. Cả hai phương cách này cung cấp cho làng báo Việt Nam một số phóng viên đáng đồng tiền bát gạo. Từ các khoá của chính quyền, có những Trần Công Sung, Dương Phục, Vũ Ánh, Phan Thanh Tâm, Bích Thu, Lê Hùng... Từ phía quân đội có những Ngô Đình Vận, Nguyễn Thế Tuấn Hải ...Từ phía các toà báo đào luyện có những Trần Quang, Huyền Anh, Nguyễn Hoàng Đoan, Đường Thiên Lý... Từ phiá trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt có Trần Trọng Thức, Trần Đại, Anh Điển...

Làng báo Việt Nam có những lúc lên đến hai, ba chục tờ với đủ mọi màu sắc khuynh hướng từ đảng phái tôn giáo cho đến tả, hữu và cả trung lập. Đáp ứng nhu cầu lập trường và khuynh hướng này thuộc phần vụ của người viết bình luận, phân tích thời cuộc.

Báo chí còn có một nhiệm vụ khác nữa : giải trí. Nhiệm vụ này khiến hình thành đội ngũ các nhà viết phơi-ơ-tông, có truyện ma quái, kiếm hiệp, phóng sự tiểu thuyết, có truyện trinh thám, truyện dịch từ các tác phẩm ngoại quốc… Lực lượng này khá đông để đáp ứng đòi hỏi. Nhưng nhu cầu tin tức thì quả thiếu nhân lực.

Điều này phản ảnh rất rõ ngay trên mặt báo. Vào giữa thời điểm cao độ nhất của cuộc chiến và những rối rắm về lãnh đạo, về chính sách đường lối của miền Nam, độc giả chờ đợi các tin tức nhanh, chính xác. Nhưng làng báo Việt Nam lại dựa vào tin tức của các hãng thông tấn và đài phát thanh ngoại quốc. Hiện tượng này có thể được giải thích theo nhiều khía cạnh khác nhau. Làng báo Việt Nam và độc giả vẫn “tin” vào các nguồn tin ngoại quốc, cho rằng họ có thẩm quyền hơn, có khả năng hơn. Một cách nữa là chính chính quyền và các nguồn tin chính trị nghĩ rằng tin tức được báo chí ngoại quốc đăng tải sẽ có ảnh hưởng sâu rộng hơn. Ngoài ra, do áp lực của chính sách thông tin, báo chí Việt Nam có thể bị đưa ra toà, bị đóng cửa, tác giả bài báo có thể gặp rắc rối đến bản thân khiến chính các toà soạn thích xử dụng nguồn tin ngoại quốc.

Đến bây giờ thì tất cả đều rõ ảnh hưởng tai hại của dư luận quốc tế và hậu quả đối với sinh mạng của miền Nam. Nhưng vấn đề ngoài mục tiêu của bài viết này. Một hiện tượng nữa rất đặc thù và có lẽ chỉ xảy ra cho làng báo Sài Gòn. Một phóng viên cùng một lúc làm việc cho nhiều tờ báo và trên mỗi tờ báo ký một bút hiệu khác nhau. Ông Đường Thiên Lý viết cho Chính Luận, Sóng Thần và đôi khi ở một vài báo khác. Các ông Tiến Sơn, Hà Túc Đạo, Nguyễn Tuyển luôn luôn làm tin cho vài ba tờ báo khác cùng một lúc. Tùy theo thỏa thuận, có khi phóng viên phải viết một tin dưới hai dạng, hai nhập đề (lead) hoặc văn phong khác nhau. Đôi khi họ chỉ kê thêm tờ carbon và giao cho nhiều báo cùng một bản tin.

Chữ nghĩa của chúng tôi hồi đó có hơi ví von mỉa mai khi hỏi nhau “Dạo này đi khách cho tờ nào vậy?” hoặc

“Mày tay khăn tay chậu nhiều thế coi chừng chết sớm.”

“Đi khách” cho các báo cùng khuynh hướng, lập trường thì dễ, nhưng có những phóng viên làm việc ở hai tờ báo hoàn toàn khác, có khi đối đầu nhau. Đi dây kiểu này rất mệt và thường không bền lâu. Nạn khan hiếm phóng viên còn thấy rõ nơi nhân lực của một số báo. Có những báo không có cả phóng viên vì không cần. Tin tức quấy quá nơi trang nhất cho có, còn nỗ lực của ông chủ nhiệm, chủ bút là đẩy mạnh các tiểu thuyết ăn tiền cùng với truyện giải trí. Trong trận Mậu Thân, khi đa số báo Sài Gòn lo tường thuật chiến sự thì tờ Tin Sáng lẳng lặng in 8 trang, 4 trang trong là 10 tiểu thuyết đủ dạng kiếm hiệp kỳ tình, xã hội thời thượng ... Vì chiến tranh, Sài Gòn bị giới nghiêm lúc đó, và khi không thể đi đâu, người dân bèn đọc báo và hết tin thì đọc tiểu thuyết. Bỗng đâu số phát hành của Tin Sáng dẫn đầu làng báo lúc nào không biết.

Trong thực trạng khan hiếm như vậy, làng báo Việt Nam lại đụng phải một đối thủ nặng ký là báo chí ngoại quốc. Họ cần người, không hẳn để viết lách, nhưng là một loại nửa thông tín viên, nửa thông dịch. Nếu biết ngoại ngữ, dù giới hạn nhưng đang làm phóng viên cho báo Việt Nam thì bạn được hoan nghênh nhiệt liệt. Tất cả văn phòng báo chí ngoại quốc – không chỉ Mỹ mà còn Úc, Đại Hàn, Nhật Bản, Tây Đức – đủ mọi quốc gia đều cần người. Họ trả lương gấp đôi, gấp ba mà làm việc lại không có nhiều trách nhiệm như với báo chí Việt Nam.

Chính vì vậy rất đông phóng viên kha khá, có trình độ đã bị báo chí ngoại quốc thu dụng. Cái khó bó cái khôn. Nhìn dưới một khía cạnh nào đó, báo chí Sài Gòn là những cơ quan đấu tranh. Đấu tranh hiểu theo nghĩa rộng, có thể là đấu tranh chống Cộng, đấu tranh cho một miền Nam dân chủ, đấu tranh chống sự can thiệp của người ngoại quốc, và kể luôn đấu tranh cho trung lập, cho bè nhóm, đảng phái, tôn giáo hoặc ngay cả Cộng Sản. Phần đấu tranh đó đã lấn đi vai trò thông tin theo nghĩa đẹp của chữ thông tin. Tin tức trừ trường hợp được vo tròn bóp méo để phù hợp với chủ trương đấu tranh, hiểu theo nghĩa khách quan, vô tư, nhanh chóng, khả tín... đã không thực sự là ưu tư hàng đầu của đa số báo chí Sài Gòn. Lý do của nhận xét trên thể hiện rõ nơi trang nhất. Khi bài bình luận, quan điểm được chạy tít 8 cột trang nhất kiểu “Thư ngỏ gửi Tổng Thống Thiệu”, “Phương cách tận diệt tham nhũng” hay “Hãy chú ý tới đời sống của Thương Phế Binh”..., tin tức chắc chắn sẽ bị nhấn xuống hạng nhì hay hạng ba.

Có thể vì là cơ quan đấu tranh, có thể vì tránh né trách nhiệm nên xử dụng tin tức từ các nguồn tin ngoại quốc, có thể vì tình trạng tài chính eo hẹp và có thể vì nguồn nhân lực hạn chế, làng báo Việt Nam thiếu phóng viên — hoặc như chữ trong nghề là chân chạy.Chân nằm là những người làm việc có giờ giấc đàng hoàng như công chức. Đó là các vị ký giả ngồi ở toà soạn lo dịch tin, lo biên tập, đặt tít, lo mise... Họ cũng có thể là người phụ trách các mục thường xuyên khác như phụ nữ, gia chánh, văn học, trang của lính vv... Họ cũng có thể là các nhà văn viết truyện dài. Công việc của ký giả chân nằm được minh định rõ ràng, có khuôn mực, không như chân chạy.

Chân chạy, hay phóng viên, là người phải đi ra ngoài, phải tiếp xúc, phải xông xáo. Họ phải mở được những đường dây, những ngõ ngách để săn tin. Họ phải nhanh mắt, thính tai để nhìn, để nghe ngõ hầu tìm ra, khai thác tin tức theo qui luật nghề nghiệp đôi khi rất tế nhị. Để làm được nhiệm vụ, họ cần có kiến thức tổng quát tương đối, cần khả năng chuyên môn thụ đắc qua học hỏi từ trường ốc tới thực tế.

Nếu nhìn như vậy và thực tế phần nào đã chứng minh được cái nhìn đó, quả thật làng báo Sài Gòn trước 1975 có một lỗ hổng khá lớn là thiếu phóng viên, hoặc thiếu chân chạy vậy.

Nghề phóng viên thật sự không phản ảnh những huyền thoại như kiểu Lê Phong phóng viên của Thế Lữ. Làm phóng viên báo chí miền Nam không phải là nghề có thể làm giàu. Hình như tất cả phóng viên cùng lứa chúng tôi đều rất rách. Vinh dự nghề nghiệp thì hiếm hoi vì ít được công chúng chú ý tới. Độc giả miền Nam e khó có người nào nhớ đến tên một phóng viên. Họ nhớ các ông viết film như Kiều Phong, Sức Mấy, Chu Tử… Họ nhớ những vị viết bình luận chính trị như Trần Việt Sơn, Nguyễn Văn Huy, Từ Chung, Cao Dao, Trần Tấn Quốc, Ngọa Long ... Họ có thể nhớ thơ đen Tú Kếu hay Tuýt, Choé với những bức biếm họa. Họ nhớ Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Thẩm Thệ Hà ... Ai có thể nhớ đến tên một phóng viên? Có thể là phóng viên Việt Nam chưa đủ tầm cỡ. Có thể là phần tin tức chưa được chú ý đúng mức. Có thể là tinh thần trọng ngoại đã khiến người như Peter Arnett được nhớ đến trong khi những người như Nguyễn Mạnh Tiến, Dương Phục, Ngô Đình Vận … thì giống như bất cứ anh cha căng, chú kiết nào đó.

Nguyễn Huỳnh đã không đáp ứng được cái ước mơ của thân phụ anh, không chịu thi vào Y Khoa, Sư Phạm, theo học Văn Khoa để đi làm phóng viên, để làm chân chạy cho báo chí Việt Nam. Chọn lựa của Nguyễn Huỳnh dù rất khó khăn, chọn lựa của riêng anh và của đa số chúng tôi, những người cùng lứa xem ra vẫn không đủ để trám vào cái lỗ hổng thiếu chân chạy của làng báo Sài Gòn vậy.

Lê Thiệp