Nhà văn Nguyễn thị Hoàng
Hơn một năm trước, thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của
một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn Vòng tay học trò của nhà văn Nguyễn Thị
Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Với
Nguyễn Thị Hoàng, thì đó rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của
văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
Rồi mới đây, thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử… những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng với cuốn sách Vòng tay học trò vừa được tái bản, cùng sự hào hứng quen gọi tên là tác phẩm thuộc “dòng văn học đô thị miền Nam”.
Nghe mà đột nhiên thấy chạnh lòng. Nghe “đô thị“, có
vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói
văn chương “đô thị” miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá
riêng “đô thị” của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có
nơi còn gọi là sự “trở lại”!
Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâu mà trở
lại?
Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại
suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất
là đi xuyên qua sự thù hận, chà đạp và hủy diệt… mà dù có đau đớn hay rách nát
thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung)
vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới và tỏa sáng với những tư tưởng tự
do không kiểm duyệt.
Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của
ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính
quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông
cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục
lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn
phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn
của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.
46 năm, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt
Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản
quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng
tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có
sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?
“Văn học đô thị miền Nam” – cách gọi bị ám ảnh từ lối
tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay – vẫn ngầm chứa
trong đó một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận
miền Nam Việt Nam là một chính thể. Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu,
và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn “Văn hóa văn nghệ Việt
Nam từ 54 đến 75″ đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình
thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy. Báo Nhân Dân số ra ngày13-9-2016, với
bài viết “Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975” của tác giả Hạnh
Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng “bằng sự gạn đục khơi trong,
chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn
sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài”.
Sự cho phép nó chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không
có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát
không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được
in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm
nay tìm đọc với một sự thích thú về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép
và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân
và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.
Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam “trở
lại”, khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch
sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.
Nói “trở lại” là giả tạo trong việc mô tả một
chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống
đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một
giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của
họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.
Trong tiểu luận “Văn học Miền Nam 1954-1975: những Khuynh
hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa” của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh
Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền
Nam Việt Nam là bởi “nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ
phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua
sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn
đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975″.
Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam
thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận
định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội
chủ nghĩa, với những thành tựu xuất chúng, như trên báo chí vẫn nói, xã hội
cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay “trở lại“,
như Vòng tay học trò của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng , và của nhiều
trí thức từng bị phủ nhận khác.
Tuấn Khanh