Có những chuyện mình sẳn sàng tha thứ nhưng cũng có những
chuyện cứ mãi ghim chặt trong lòng. Tôi viết bài này trong ngày giỗ
của ba tôi tại San Jose California. Có thể không dính dáng gì nhiểu đến nước Mỹ
nhưng không thể không viết để chia sẽ đến các bạn câu chuyện của một đứa
con người tù cải tạo sau ngày mất quê hương.
Một trong những lý do mà năm 1998, tôi cùng gia đình rời bỏ quê nhà sang Mỹ định cư mặt dù lúc đó tôi làm trong văn phòng đại diện một công ty Mỹ tại
Việt Nam, công ty AMP. Ở những năm 1990, số tiền lương hàng tháng 700 dollars
không phải là một con số nhỏ. Có xe hơi, tài xế, có thư ký riêng và nhà
riêng. Đó là những thứ không dễ có trong cái thời buổi nhiễu nhương. Hơn
20 năm sống dưới chế độ cộng sản, để đạt được một cuộc sống như thế, với một đứa
con “nguỵ quyền” như tôi, phải là một quá trình gian khổ của máu và nước mắt.
Cho nên sẽ khó có thể rời bỏ. Nhưng trong cuộc đời của tôi và của gia đình tôi,
có những chuyện không thể nào quên. Nhất là cái ngày sau 2 năm đi tù cải tạo,
cha con chúng tôi gặp lại nhau, lần đầu và cũng là lần cuối khi ba còn sống.
* * *
Một ngày đầu tháng Hai năm 1978, bỗng nhiên chúng tôi nhận được thư ba, lần đầu
tiên. Góc thư tôi còn nhớ rõ địa chỉ Trại K2 Tân Lập, Vĩnh Phú. Trong thơ ba hỏi
thăm mẹ và các em. Ba kể ba đang học tập cải tạo tốt. Thư ngắn chưa đầy một
trang giấy. Ba nhắc tôi ráng chăm sóc mẹ và các em. Đợi ngày ba về. Miền bắc
lúc đó đối với tôi vô cùng xa lạ. Nếu có biết cũng chỉ biết qua sách vở. Vĩnh
Phú ở đâu, ra sao, xa xôi như thế nào, không quan trọng, ít nhất là ba vẫn còn
sống.
Thế là đủ. Quá mừng rỡ mẹ biểu tôi viết thư thăm ba và mỗi đứa em viết một câu
cho ba. Mẹ nói tôi kể cho ba về cuộc sống ngoài này. Tôi ầm ừ cho qua chuyện,
trong thư chỉ viết là nhớ ba, mong ba học tập tiến bộ để sớm về với gia đình.
Tôi không kể về cuộc sống gia đình từ ngày ba đi. Không lẽ cho ba hay rằng căn
nhà đã bị tịch thu, gia đình suýt nữa bị đi kinh tế mới, hay lại kể với ba rằng
mẹ mỗi ngày đang bán từng chiếc áo cũ của ba ngoài lề đường. Hoặc kể cho ba
chuyện 2 cây vàng. Thôi thì cứ để ba vui khi nghĩ rằng vợ và các con của ba dù
là con của sĩ quan chế độ Mỹ nguỵ, vẫn được “cách mạng” đùm bọc thương yêu.
Thôi thì cứ như vậy cho ba yên lòng và ít nhất thư cũng đến được với ba. Kể từ
hôm đó khoảng hơn mỗi tháng một lần gia đình tiếp tục nhận được thư ba. Mỗi lần
chỉ hơn một trang giấy, nhưng cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui và hy vọng.
Hy vọng sẽ có ngày ba trở về.
Cho đến một ngày, Cũng từ K2 trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Cũng nội dung ba
đang học tập tốt, cán bộ đố xử với ba rất tốt, cũng khuyên các con cố gắng học
tập trở thành cháu ngoan của “Bác”, nhưng nét chữ run run, nguệch ngoạc, khó đọc
và ngắn hơn rất nhiều so với các thư trước. Mẹ và các em vẫn mừng rở như mọi lần,
nhưng riêng tôi linh cảm một điều gì đó không hay đang xảy ra. Hai vợ chồng đem
thư ba lên phòng đọc đi đọc lại nhiều lần. Hình như chữ “tốt” (học tập tốt, sức
khoẻ ba vẫn rất tốt được viết đậm hơn, to hơn các chữ khác). Chữ ba viết quá xấu
so với bình thường. Rất bất thường. Không tốt nghĩa là xấu. Không khoẻ nghĩa là
bịnh.
Vì vậy tôi quyết định đi tìm và thăm ba. Vào những năm đầu sau 1975, muốn đi
thăm nuôi tù cải tạo, những người dân bình thường, như tôi phải làm đơn
xin phép, phải có lý do chính đáng và phải có người bảo lãnh mới được đi thăm
nuôi. Trong Nam đã khó, ra Bắc còn khó hơn. Thời gian được cấp giấy phép thường
rất lâu nhất là đối với những gia dình thuộc diện “ngụỵ quân ngụỵ quyền” như
chúng tôi.
Thật lo lắng cho ba, nhưng không biết làm sao, đêm đêm tôi chỉ biết cầu nguyện
cho ba sức khoẻ, và mong chờ một phép lạ. Và phép lạ cuối cùng cũng đã xảy ra.
Tháng 8 hiệu trưởng loan báo có đợt cho nhân viên và giáo viên trường Bưu Điện
đi tham quan miền bắc xã hội chủ nghĩa và du ngoạn tại bãi biển Đồ Sơn 1 tuần.
Là giáo viên, tôi và vợ tôi có tên trong danh sách được đi. Lúc đó vợ tôi đang
mang thai đứa con đầu được 5 tháng. Phần làm việc vất vả, phần thể trạng yếu đuối,
khộng dám đi xa, vợ tôi đành ở nhà.
Tôi đi ra miền bắc một mình. Không phải vì yêu “Hà Nội xã hội chủ nghĩa” cũng
không phải để tắm biển Đồ Sơn, mà trong lòng tôi đang hình thành một kế hoạch
đi tìm ba.
Cả đoàn đi ra Hà Nội bằng xe lửa. Chuyến đi gồm hai phần. Phần đầu là phần nghe
giảng về chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin, về miền bắc xã hội chủ nghĩa 4 ngày
tại Hà Nội. (Phần này bắt buộc không ai được vắng mặt). Phần sau 3 ngày là về
nghỉ ngơi vui chơi tại bãi biển Đồ Sơn. Phần này kỹ luật tương đối lỏng lẻo
hơn. Đa số các cán bộ quê miền Bắc nhân thời gian này tranh thủ về thăm gia
đình, chỉ có những người miền Nam lần đầu tiên ra Bắc là theo đoàn về Đồ Sơn tắm
biển. Tôi thì đã có chủ đích từ trước, xin trưởng đoàn ở lại Hà Nội với lý do
thăm gia đình ông chú ruột là trung tá Chính ủy đơn vị phòng không không quân
Hà Nội.
Cũng phải viện một lý do gì đó để đơn xin có trọng lượng. Cũng phải cho trưởng
đoàn biết là con ngụỵ nhưng cũng có bà con là cán bộ cộng sản chức vụ cao cấp,
mặc dầu thời đó có cũng như không, ba vẫn phải đi cải tạo như thường. Hồn ai nấy
giữ.
Thế là những ngày đầu tháng 9 năm 1978, tôi bắt đầu chuyến hành trình tìm cha.
Chưa một lần ra miền Bắc. Với tôi tất cả đều xa lạ. Manh mối duy nhất là địa chỉ
trên thư: K2 Trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Phương tiện di chuyển: chiếc xe đạp
Phượng Hoàng mượn của ông chú và một ít quà nhỏ gồm thuốc lá và thức ăn xấy
khô.
Sáng mồng 3 tôi bắt đầu ra đi từ nhà chú, khu Tập thể Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội.
Trạm đầu tiên: Ga xe lửa Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán hàng rong ở ga. Vĩnh
phú thì nhiều người biết nhưng trại Tân Lập ở đâu thì không ai hay. Thôi thì cứ
lên tàu đi về hướng Vĩnh Phú trước đã.
Đúng là tàu chợ, xe lửa thì củ kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt người, đa số
là người lao động và người bán hàng rong. Vướng chiếc xe đạp, chật vật lắm tôi
mới leo được lên toa cuối cùng khi tàu bắt đầu chuyển bánh. Vì lên sau cùng,
tàu đông kịt người, chỗ đứng chổ ngồi hầu như không còn, tôi ngồi xuống một khoảng
trống sát vách cầu tiêu. Lần đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa một rừng người
cùng tiếng nói, cùng một màu da.
Mỗi một trạm tàu dừng, tôi đều hỏi thăm những người khách và những em bé bán
chè xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối cùng cũng có được một tin tức mơ hồ từ một
em bé:
– Có lần đi bán nước chè, em có gặp một đoàn người hình như ở trong nam ra vì
không giống người ngoài này, đi lao động, hình như ở gần ga Ấm thượng, Vĩnh
Phú. Em bé nói thêm hình như có trại giam giữ những người miền nam gần đó.
Tôi bám tàu đi tiếp. Tàu lắc lư đi về hướng Cao Bằng Lạng Sơn. Mùi hôi thúi bốc
lên từ cái cầu tiêu công cộng hoà quyện vào cái mùi mô hôi của hàng trăm người
đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận tâm. Tôi mải suy nghĩ khi nào thì đến ga Ấm
Thượng? Vì không nhìn được qua cửa sổ, tôi đành nhờ một bà lão ngồi sát cửa sổ
nhắc giùm khi đến ga.
Xuống được ga Ấm Thượng thì cũng đã giữa trưa. Phải nói là trạm thì đúng hơn.
Nhà ga là một căn nhà nhỏ, vách lá, trống huơ trống hoắc. Vùng đất thật hoang
vu, dân di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một con đường đất đỏ duy nhất về một
làng nào đó ở xa xa. Tôi vừa đi, vừa hỏi đường. Hỏi xem có ai biết về trại Tân
Lập không? Không ai biết. Phải đến lần thứ 9 hay thứ 10 gì đó, khi tôi đã vào
sâu khoảng 5, 7 cây số, mới có được câu trả lời tương đối rõ ràng:
– Phải đi thêm 20 đến 25 Km về phía dãy núi, bên này là Trại Tân lập, bên kia
là biên giới Trung Quốc.
Đoạn đường đi xa diệu vợi, chân tay rã rời, đôi khi tôi kiệt sức muốn bỏ cuộc
quay về. Nhưng nghĩ đến ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên đường. Con đường càng
vào sâu càng lúc càng khó đi. Khi thì ngoằn nghoèo, khi thì lồi lõm. Có những
đoạn không đạp xe được vì mưa trơn trợt, tôi xuống xe dắt bộ. Nhà cửa càng lúc
càng thưa thớt, càng ít người qua lại. Tôi vừa mệt, vừa sợ, vừa đi vừa nhìn
chung quanh, dáo da, dáo dát. Nói thật lúc đó có ai nhảy ra, phang cho mình một
gậy, cướp xe đạp, vất xác xuống ven đường, chắc cũng không ai hay.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến nay có bao giờ tôi đi đâu một mình như thế này. Hồi nhỏ
thì có cha có mẹ, vào trường thì có bạn có bè. Đi đâu cũng đi với người này hay
người khác. Ngay cả khi đi trồng cây si, cũng rủ thêm thằng bạn nối khố cùng
đi. Đi đâu cũng xe đạp hay xe Jeep của Ba. Đi bộ thì nhiều nhất là một, hai cây
số. Chạy thì nhiều nhất một vòng sân trường là thở dốc. Vừa mệt vừa sợ cướp, vừa
sợ ma, tôi vừa đạp xe vừa lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá muốn quay về. Rồi
lại nhớ đến ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm của ba trước cổng trường Chu
Văn An ngày đi trình diện, tôi lại lê lết lên đường đi tiếp.
Đúng là lê lết. Đường càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp, đất bùn quyện
nước mưa nhão nhoẹt bám vào bánh xe càng làm nặng nề. Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh.
Một cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng nỗi khổ chưa dừng ở đó.
Trên con đường độc đạo duy nhất về trại Cải tạo Tân Lập, tôi phải vượt qua hai
con sông. Quen với cái hiền hoà của giòng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ tôi
thấy con sông nước chảy dữ dằn như vậy. Dòng nước đục ngầu và đỏ như máu chảy
cuồn cuộn. Đứng bên này nhìn thấy bờ bên kia nhưng không biết cách nào qua.
Không cầu không cống. Không một bóng người. Men theo bờ sông, tôi đi về hướng
ánh đèn leo lét xa xa.
Hỏi thăm, thì ra muốn qua sông thì đi một đoạn nơi có bờ đá dô ra ở mé sông, chụm
hai tay gọi lớn sang bên bờ bên kia “ Đò ơi…ơi” Thế là từ bên kia bờ, chênh chếch
phía trên có một thuyền nhỏ một người chèo qua. Nói thì rất dễ dàng nhưng để
băng qua được bên này không dễ chút nào. Khoảng cách hai bên bờ không lớn lắm,
nhưng do nước chảy xiết, từ bên kia muốn qua bên này, người lái đò phải khéo
léo dựa theo dòng nước chảy, từ trên xa trôi xuống, tắp đúng vào kè đá nơi tôi
đứng. Điều khiển không khéo thì thuyền lật như chơi, còn nếu không thì thuyền tắp
xuống quá kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác lái đò giúp tôi đưa xe đạp và tôi xuống thuyền. Nhìn người lái đò, nhìn
dòng nước sông dục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi nhớ các đoạn văn của Nhất Linh, của
Khái Hưng thời Tự Lực Văn Đoàn kể về các tỉnh miền Bắc xa xôi này. Hình như nơi
đây, bánh xe thời gian đã ngừng lại. Cảm giác giống y chang như trong các bài
văn ngày nào.
Vẫn như xưa, nếu không nói là cũ kỷ hơn, nghèo khổ hơn. Và có lẽ vì vậy người
dân ở miền đất sát biên giới Việt Trung này hiền lành và chơn chất gấp vạn lần
những con người tôi găp ở Hà Nội. Vì vậy, may mắn tôi vẫn còn cái mạng quay về.
2- Đi thêm một đoạn dài, vượt qua thêm một nhánh sông tương tự thì trời
đã tối đen. Lúc này tôi không còn đạp xe được nửa. Tôi dắt xe, vừa đi vừa run cầm
cập. Dân thành thị như tôi, lần đầu tiên mới cảm thấy nỗi sợ hãi cùng cực khi một
mình giữa đồng không mông quạnh, âm thanh toàn là tiếng côn trùng ếch nhái, thỉnh
thoảng là những ánh đom dóm lập loè. Lại thêm cái lạnh cắt da của ban đêm và
mưa phùn miền Bắc. Khổ không thể cực khổ hơn. Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu
không vì ba, tôi đã bỏ cuộc từ lâu. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng gặp được một
căn chòi trống ven đường. Đây có thể là nơi tạm trú của những nông dân hay của
những em bé chăn trâu nào đó.
Căn nhà (cái chòi thì đúng hơn) nhỏ xíu, trống không, có một cửa bằng tre nhỏ
xíu. Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống tựa lưng nghỉ mệt. Có thể nói
trong đời, lúc này, đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng ở dù rằng những giọt
mưa vẫn từ các khe hở nhỏ xuống lạnh buốt. Bây giờ mới cảm thấy đói.
Bữa ăn tối đầu tiên trên miền đất tận cùng biên giới của người con đi tìm cha
đang học tập cải tạo là một cái bánh bao không nhân mua vội trên tàu. Cái gọi
là bánh bao thật ra chỉ là một cục bột hôi mốc nhờ mưa ẩm ướt làm mềm đi nếu
không chắc sẽ cứng như đá. Nhưng không sao, khi đói thì đất cát vẫn thấy ngon
như thường. Vừa ăn tôi vừa cố nuốt đi những giọt nước mắt. Cùng với cơn lạnh
ban đêm, dù trải qua một ngày không ngủ, mệt lả, tôi vẫn không tài nào chợp mắt
được. Tôi ngồi bó gối co ro ở một góc nhà. Lần đầu tiên tôi thấy cái vô tận của
đêm dài.
Trời vừa hơi sáng là tôi lên đường ngay. Đi thêm một chặng đường đất khá dài,
khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng đến được trại Tân Lập. Thật ra
cái tôi gặp đầu tiên ở giữa cái đồng không cô quạnh này là một ngôi nhà tranh,
tương đối lớn, phía trước có treo một tấm bảng nhỏ “ K10 Tân Lập”. Bên trong là
một cái bàn dài có hai dãy ghế bằng tre. Không thấy có ai canh gác. Tôi nghĩ
đây là nhà khách. Đợi một lúc quả nhiên tôi thấy một công an đi ra. Tôi trình
giấy tờ, ghi rõ là cán bộ Bưu Điện ra Hà Nội công tác luôn tiện thăm cha đang học
tập tại K2 Tân lập.
Mừng hụt. Trại cải tạo Tân Lập thì đúng rồi nhưng đây là nhà khách thuộc K10.
Toàn trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ ngoài vào trong thì bắt đầu từ khu
K10, K9…cuối cùng sát biên giới là khu K1. K10 là khu vực đầu tiên của trại Tân
Lập. Từ đây sẽ không có nhà dân mà chỉ có những trại giam, cán bộ và tù nhân.
Sau này tôi mới biết khu trại Tân Lập không chỉ giam giữ các tù nhân từ trong
Nam mà còn là nơi giam giữ các thành phần bất hảo ăn cắp ăn trộm ngoài Bắc.
Thành phần này được giam ở các khu K10, K9 gần phía nhà dân.
Các tù nhân sĩ quan từ miền nam được phân loại và giam giử theo thứ tự, chức vụ
càng cao, càng ác ôn thì được đưa về các khu số nhỏ K1, K2 sát núi gần biên giới,
khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát. Nếu có vượt thoát được công an ở các
khu vực K1, K2, K3…thì chắc không qua được các thành phần bất hảo của K9, K10.
Ai nói Việt Cộng ngu. Có đào thoát khỏi trại, mặc áo tù đi lang thang 30 Km, ra
khỏi đây không bị bắt trở lại mới lạ.
Lại tiếp tục lên đường. Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai mì, những cánh đồng
trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp từng toán người mặc áo tù đang cuốc đất.
Từng nhóm làm việc lặng lẽ. Lúc này đường đất tương đối dễ đi hơn. Tôi cúi thấp
người cố gắng đạp thật nhanh. Đi riết rồi cũng đi qua hết khu K3 và bắt đầu vào
địa phận K2. Có lẽ khoảng 10 giờ sáng, mưa phùn vẫn còn rơi. Tính ra từ sáng tới
giờ tôi đã đi một lèo gần 4-5 tiếng đồng hồ. Không ăn uống gì nhưng tôi vẫn
không cảm thấy đói. Tôi đang náo nức với cái cảm giác sắp được gặp lại ba. Vừa
đi tôi vừa suy nghĩ những chuyện sẽ hỏi ba, chuyện gì sẽ kể cho ba. Tự nhủ phải
thật bình tỉnh, phải không được xúc động, phải không được khóc. Nghĩ tới lúc sắp
gặp ba, quên cả mệt nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua khỏi khúc quanh cuối K3 để vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ khoảng 5 đến
10 mét một nhóm khoảng mươi người áo quần lam lũ, người đang cuốc đất, người
đang vác những bó củi khô, cạnh đó mấy tay mặc áo vàng đội mũ cối, cầm súng đi
qua đi lại. Tôi biết chắc chắn đó là những tù nhân đang lao động cải tạo. Như một
phản xạ tự nhiên, tôi đạp xe chậm lại, đưa mắt nhìn quanh. Cùng lúc một tù nhân
đang đội nón lá lui cui gần vệ đường ngước mắt nhìn về phía tôi. Dù đã bao năm
qua không gặp, dù bây giờ đã quá khác xưa, gầy gò, mặt mày đen thui, râu tóc
dài bạc phơ, nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Ba. Nhảy ra khỏi xe, tôi thảng thốt
kêu lên một tiếng Ba thật to. Tiếng kêu làm nhiều người quay lại hướng về phía
tôi trong đó có mấy tên công an cầm súng đứng ven đường. Trong khoảnh khắc, tôi
bắt gặp đôi mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt của con thú hoang ngây dại và đầy vẻ
lo sợ, ba vừa chớp mắt vừa lấy tay xua lia lịa như muốn tôi đứng lại và chỉ về
phía căn nhà xa xa. Tôi khựng lại, tôi biết tôi không được quyền đứng lại hay
trò chuyện với ba. Nuốt giọt nước mắt đang chực chờ chảy, tôi lên xe phóng
nhanh về căn nhà khách, không quên nhìn lại ba. Vẫn kịp thấy ba đang cúi xuống,
tấm lưng gầy gò yếu đuối run run ngã quị bên đường.
Tiếp tôi trong căn nhà khách K2 là một công an mặt áo vàng, gương mặt gầy nhọn,
non choẹt và giọng nói rặt Bắc Nghệ an. Tôi đưa giấy tờ chứng nhận là cán bộ
giáo viên trong nam ra công tác Hà Nội tranh thủ thăm cha đang học tập cải tạo
ngoài này. Sau khi xem giấy tờ, tên cán bộ hỏi tại sao tôi biết nơi này. Không
lẽ nói do tự tìm kiếm, tôi nói do chú là Trung tá chính ủy chỉ đường. Thái độ
có vẻ nhã nhặn hơn nhưng gã ta cho biết là tôi không thể thăm được ba tôi lần
này được với lý do: – Ông nhà đang trong thời kỳ bị kỹ luật do vi phạm nội quy
của trại, đang bị biệt giam.
Thú thật nếu không gặp mặt ba ngoài kia, chắc chắn tôi đã phải tin lời quay về.
Tôi biết hắn đang làm khó dễ. Tôi nắm chặt bàn tay dằn cơn giận dữ. Xuống nước:
– Nhưng thưa cán bộ tôi mới gặp ba tôi ở ngoài kia.
Tên cán bộ gằn giọng:
– Anh có chắc không? Ông đang bị biệt giam, ai cho ra ngoài, chắc anh nhìn lầm.
Sao có thể lầm ba với ai được. Dù có bị đày đoạ cở nào, dù ba có thay đổi bao
nhiêu, thì tôi vẫn không bao giờ lầm ba với ai khác. Cặp mắt ấy, con người ấy với
tôi là duy nhất. Đuối lý nhưng tay công an vẫn khăng giữ vững ý định không cho
tôi gặp ba. Nhiều lý do được đưa ra: Thứ nhất đây không phải là mùa thăm nuôi,
thứ hai tôi cũng không có giấy phép thăm nuôi (hèn chi các nhà khách tôi đi qua
vắng như chùa bà đanh).
Tôi cố gắng trình bày là đi công tác đột xuất, hơn nữa đường đi xa xôi, đã lỡ đến
đây rồi, xin cán bộ thông cảm. Làm ra vẻ tử tế, lão cán bộ chép miệng:
– Thật ra tôi cũng muốn thông cảm cho anh, không phải tôi làm khó dễ nhưng thú
thật không thể cho anh gặp được.
Tôi càng năn nỉ, tên cán bộ càng cứng rắn. Lão nỗi nóng:
– Nhưng tôi nói không gặp được là không gặp được, anh về khi nào có giấy tờ
thăm nuôi thì chúng tôi sẽ giải quyết.
Nhìn khuôn mặt tên cán bộ mặt mày lấc cấc, máu tôi sôi lên, tôi muốn đấm cho nó
một cái, ra sao thì ra. Nhớ đến ánh mắt của ba ngoài kia, cặp mắt ngây dại của
con thú hoang đang co cụm dẫy chết. Nhớ đến đôi vai gầy gò run rẫy trong gió lạnh
ngoài kia, lòng tôi dịu lại, tự nhiên tôi bật khóc, khóc ngon khóc lành. Vừa
khóc tôi vừa năn nỉ tên cán bộ đáng tuổi em mình. Tiếng khóc động đến lòng trời,
đúng lúc một tay cán bộ nữ bước vào. Có lẽ khuôn mặt một người đàn ông đang
khóc nhìn thê thảm, xấu xí và cảm động quá, sau khi bàn bạc, cán bộ nữ đồng ý
cho tôi được gặp ba nhưng chỉ được gặp đúng 15 phút mà thôi. Dù sao đàn bà vẫn
tình cảm hơn.
Chờ khoảng một tiếng, một tên công an đi vào, theo sau là ba tôi. Lúc này tôi mới
có cơ hội nhìn rõ ba. So với hồi ở nhà, hoàn toàn khác hẳn. Khuôn mặt đen sạm,
tóc tai bạc trắng, râu dài tới ngực, mặc bộ đồ tù cũ kỷ, tay cầm chiếc nón lá
rách tả tơi. Không kềm được tôi phóng người về phía ba, hai tay dang rộng. Ba
giật mình bước tránh qua một bên miệng lắp bắp “dạ thưa cán bộ, tại con tôi
không biết”. Nói xong ba lầm lủi theo tên công an đến chiếc bàn tre chính giữa
phòng. Đợi tên công an ngồi xuống chiếc ghế ở giữa hất đầu ra lệnh, ba ngồi xuống
ở chiếc ghế đầu kia đối diện với tôi. Tên CA hất hàm:
-Anh có 15 phút để nói chuyện với ông.
Dù tự nhủ phải cố gắng bình tỉnh nhưng vẫn không thể được, tôi oà khóc như một
đứa bé. Trong khi đó ngoài trừ cặp mắt ánh lên một nỗi niềm khổ đau vô hạn, ba
bình tĩnh hơn tôi nhiều. Ba nói trước, ba hỏi thăm về mẹ, về các em. Cũng vẫn
là lời lẽ như trong các thư ba gửi về. Thỉnh thoảng dù rất cố gắng kìm lại
nhưng ba vẫn húng hắng ho. Tiếng ho vẫn đục như có đàm chận trong cổ. Vừa khóc,
vừa trả lời tôi mãi nhìn ba, muốn nhảy đến ôm ba vào lòng. Nhưng khoảng cách
hai đầu chiếc bàn quá xa và tên công an ngồi chính giữa như một bức tượng lạnh
lùng, đe doạ. Tôi để cho ba hỏi ba nói và tôi trả lời. Có nhiều điều muốn hỏi,
muốn kể với ba nhưng nỗi xúc động làm tôi không nói được nên lời.
Thật ra nếu nhớ ra, có hỏi, chắc chắn cũng là câu “cách mạng khoan hồng, ba học
tập tốt sẽ được cho về ”. Nhìn ánh mắt ba, tôi biết sẽ không bao giờ ba học tập
tốt được, ngày về sẽ còn xa lắc xa lơ. Tôi lấy từ trong túi sách, mấy gói thực
phẩm khô, chuối khô do mẹ làm, một ít bánh đậu xanh, mấy hộp diêm một tút thuốc
lá đen đẩy về giữa bàn về phía Ba. Ba đẩy tất cả về phía tên CA, miệng nói: nhờ
cán bộ giữ giùm. Cặp mắt sáng lên, mặt bớt lạnh lùng, tên CA đem các món đồ vào
chiếc tủ nhỏ ở góc phòng. Không biết ba sẽ nhận được lại các món này hay không,
tôi không có tâm trí để nghĩ đến.
Tôi cứ mãi nhìn người đàn ông gầy gò tội nghiệp và yếu ớt đang ngồi trước mặt
mình không nói được lời nào. Nước mắt cứ không ngừng tuôn. Nói chuyện được khoảng
15 phút tên công an lạnh lùng đứng dậy tuyên bố hết giờ. Ba chậm chạp đứng lên,
cặp mắt nửa như ngây dại, nửa thảng thốt, nửa tiếc nuối nhìn tôi, bước theo tên
công an ra khỏi nhà khách. Không kìm được, tôi vùng chạy tới, ôm choàng lấy ba
khóc như mưa. Lần đầu tiên tôi thấy mặt gã công an như dịu lại, quay mặt ra nơi
khác. Bây giờ thì ba cũng khóc. Không biết chúng tôi đứng bên nhau được bao lâu
cho đến khi tên CA kéo tay Ba tôi đi. Ba lủi thủi đi không quay lại. Cái dáng
đi khòm khòm, nhẫn nhục đến tội nghiệp. Và đó là lần cuối cùng tôi gặp ba, còn
sống.
5 tháng sau mẹ và tôi ra thăm ba đúng ngày ba mất. Chuyến đi thăm nuôi trở
thành chuyến đi tiễn biệt lần cuối cùng. Mẹ không gặp được ba lúc còn hơi thở
nhưng vẫn còn may mắn ôm tấm thân vẫn còn hơi ấm của ba lần sau chót.
Mỗi người có một lý do, có một cách khác nhau khi đến định cư tại nước Mỹ. Với
tôi chắc chắn không phải vì tiền và cũng không phải nước Mỹ là thiên đường.
Thiên đường hay địa ngục chỉ dành cho những người đã chết. Tôi đến đất nước này
chỉ vì một vết thương chưa bao giờ lành và một nỗi hận chưa bao giờ phai. Hôm
nay trong ngày giỗ ba trên xứ người tôi viết để nhớ về ba và cũng để cảm ơn nước
Mỹ, nơi đã cưu mang gia đình của một sĩ quan tù cải tạo. Một đất nước không phải
nơi tôi sinh ra nhưng chắc chắn sẽ là quê hương thứ hai, nơi tôi chọn để nằm xuống
những ngày cuối đời.
Từ ngày ôm xác ba lần cuối cùng, tôi đã quyết định bỏ xứ ra đi, vì tôi biết nếu
còn ở lại quê nhà, ký ức đau buồn của tôi, của mẹ và của các em tôi sẽ không
bao giờ nhạt phai.
Viết để mãi nhớ về ba và như một lời cám ơn về một đất nước đã cưu mang gia đình
chúng tôi trong những tháng năm lưu lạc.
Lê Xuân Mỹ