Khu phố tôi ở, thuộc Quận Nhì, có con chim trên một tầng gác
cao đêm nào cũng cất tiếng hót vào lúc hai giờ sáng. Tiếng hót ấy đêm nào cũng
lọt vào căn buồng nhỏ của tôi, đánh thức tôi dậy. Không ngủ lại được, tôi mặc
quần áo, mở cửa xuống đường. Đời tôi đã có hàng nghìn đêm xuống đường như vậy,
giữa một giờ không mặt trời, chỉ có thành phố đứng dưới vòm trời sao, và những
sự vật hiện hình trong cái thế giới ban ngày náo nhiệt bề ngoài bây giờ dàn rộng
giữa những bến bờ yên lặng.
Hồi còn ở ngoài Hà Nội, tôi đã đi xuống những lòng đường Hà Nội để mà yêu những
đêm Hà Nội. Con người ban đêm trong tôi còn ghi đậm trong tâm tưởng luyến nhớ từng
nét đẹp của từng đêm Hà Nội cũ: những vỉa hè ngủ dưới mưa phùn trắng xóa, những
cửa ô bồng bềnh sương, cái gió Hồng Hà nườm nượp tuôn đầy mình Hà Nội, ánh lửa
hàng rong ở đầu ngã tư, những ngọn điện đường, những vòng tròn ánh sáng, những
bóng tối cuối đầu, tiếng chân người dạo trên phố khuya, bóng mái, bóng tường,
những cái đã ngủ yên, những cái vừa thức dậy, và Hà Nội mở những cửa ngõ thăm
thẳm cho tôi bắt gặp cái thế giới tĩnh tại, cái phần tâm hồn, cái cõi tiềm thức
của Hà Nội. Nhưng với Hà Nội, thế giới ban đêm thực ra vẫn chỉ là hình thái của
sinh hoạt ban ngày tiếp diễn. Bóng tối có khơi thêm những tầng đáy, mở thêm những
chiều sâu, yên lặng có làm nổi bật hình thể, tâm tư sự vật, nhưng cuộc sống Hà
Nội với cái chu kỳ bốn mùa của thời tiết, tác động của tương phản chỉ rõ nét chữ
sự đi và đến của từng mùa không có những khác biệt căn bản sâu đậm giữa đêm và
ngày. Với Hà Nội là tháng này tháng khác của một năm. Sài Gòn trái ngược bao
nhiêu, chỉ 24 giờ đồng hồ, cái mực thủy ngân lên xuống ở bản thử biểu đã như
chia ngày và đêm thành hai thế giới. Ngày, nắng lớn. Sự có mặt thường trực của
mặt trời. Dưới một thiên nhiên chói chang cuộc sống quay nhanh ngọn triều vĩ đại.
Ngày, hàng triệu bước chân, bánh xe, tiếng động, tiếng nói, thân thể thành phố
bốc lửa và con người và cảnh vật và cuộc sống cũng bừng bừng cũng bốc lửa theo.
Đêm, khi những ngọn triều vĩ đại ấy rút đi, khi những ngọn gió Bạch Đằng thổi
qua mình thành phố đã làm mát lại những lớp da đường, người ta mất, mất hẳn cái
cảm giác, cái ý niệm mặt trời, mất luôn cả cái cảm giác cái ý niệm về những
hình thái sinh hoạt choáng váng dưới cái mặt trời kia.
Cho nên nửa đêm thức dậy dưới tiếng chim kêu trên đầu mái nhà, mắt tôi đã mở ra
trước những sự kiện mới, ngực tôi đã thở những thước không khí mới, tai tôi đã
nghe những tiếng động mới và đặt chân xuống lòng đường, lòng đường đã dẫn những
bước chân tôi đi vào cái thế giới mới của đêm Sài Gòn vừa dựng lên. Tôi thấy
tôi yêu những đêm Sài Gòn, trước hết bởi sự lĩnh hội vào nội giới, cái cảm giác
tươi mát khởi đầu ấy. Tiếng chim kêu hai giở sáng vui như tiếng hót lúc bình
minh. Đêm Sài Gòn mở ra, thư thái, trong sạch, nguyên khối, rất xa rất khác với
cái phần ngày vừa qua của nó. Từ ngột ngạt tới nhẹ thoáng. Từ vàng diệp của nắng
tới xanh biếc của sương, ngày mùa hạ và đêm mùa thu. Thành phố như tấm lưng trần
nhễ nhại mồ hôi giờ có tấm chăn mỏng ấm vừa trên ngực. Tôi sống một cảm giác cực
đoan và cũng không hề tạo cái cảm giác này bằng tưởng tượng. Những cái tốt đẹp
trên những con đường đêm của Sài Gòn, không thấy có mặt ở ngày. Tưởng như đêm vừa
sáng tạo ra chúng. Nếu có, cũng dưới một hình thái, một màu sắc, một điệu dáng
khác. Tưởng như đêm tối màu nhiệm và thành phố đã hóa thân. Vị trí địa điểm
hình thể ban ngày còn nguyên trong những giới hạn cũ, nhưng hơi thở Sài Gòn thở,
giòng máu Sài Gòn đập, hơi thở ấy, tíếng máu đập ấy về đêm đã không còn mấy cái
dấu tích của ngày. Tôi còn yêu những đêm Sài Gòn qua một một ý niệm về chính phần
bản thể cá nhân của mình nữa. Nhập thành cảm giác, ý niệm đó là một cảm giác hiện
hữu và tư hữu. Nó làm tôi gần với thành phố ban ngày nhiều lúc cảm thấy như một
người lạ mặt. Với một dân số gần ba triệu, cái ba triệu ấy lại đầy ngập, quay
múa, biến chuyển không ngừng, con người thành phố trong tôi dẫu có một chủ quan
mạnh mẽ nhiều khi cũng cảm thấy mình chỉ còn là một đơn vị bé nhỏ vô nghĩa . Một
giọt nước trong cái bể người ngoài nhòa. Một con số trong cái ba triệu con số.
Một dấu chân chìm dưới mua triệu dấu chân. Thêm vào là cái cảm giác bị xô đẩy,
chen lấn, đồng hóa. Ngày, tôi chỉ là một người qua đường không tâm sự, thành phố
trùng điệp vây quanh nhưng thành phố không là của tôi. Do đó, lối sống chỉ là
biểu tỏ tức khắc của phản ứng. Tương quan giữa tôi và thành phố chỉ là những sự
kiện cụ thể, các trên mặt cái bên ngoài. Ngày Sài Gòn, tôi sống thuần bằng lý
trí. Đêm Sài Gòn, mới là cái đất cái mặt đàn cho tâm hồn tôi có chỗ rung lên.
Thí dụ, cái mặt Hồ Gươm ngoài Hà Nội, tôi có thể đứng ngắm nó buổi trưa, ban
đêm. Tôi không thể đứng ngắm cái bến Bạch đằng dưới khối mặt trời rót lửa xuống
đỉnh đầu. Những nét đẹp chỉ còn là những bông hoa chết héo. Nắng đốt cháy. Nắng
làm chủ cái sức chi phối mãnh liệt. Trên trời, dưới đất, bên trong, bên ngoài
chỉ còn có nắng. Sài Gòn ban ngày có ai dừng chân giữa một hè phố ngút nắng để
mà chiêm ngưỡng một nét phố đẹp? Người ta lau mồ hôi. Người ta tìm những khoảng
rợp.
Nhưng đêm Sài Gòn đến đã làm đầy trong tôi sự thiếu thốn kia về cảm xúc, lấy lại
cho tôi một thể quân bình trong nội tâm, tạo lại cho tôi cái tâm sự ban đêm của
Hà Nội, hiến dâng cho tôi những phút suy tưởng kỳ thú, đem lại – bởi con mắt,
cái tai, bước chân của một cảm quan để bén nhậy trở lại – những phút nhìn ngắm
khám phá thành phố và luôn thể nhìn ngắm khám phá chính cái bản thân, cái nội
giới của con người mình ánh lên trong đó. Cái thế giới nhỏ trong tôi mở ra
trong cái thế giới lớn của đêm Sài Gòn.
Cho nên khi tiếng chim kêu trên đầu mái nhà, tôi đã thức dậy với một cảm giác
thật vui. Vui muốn huýt sáo, muốn hát nhỏ. Và mỗi bước chân tôi xuống với đường
đêm lúc đó, mới thực sự là những bước chân khám phá Sài Gòn. Không gì thích thú
bằng sự được ngắm nhìn thành phố như một sinh vật khổng lồ sống hết tốc độ, hết
sức mạnh của nó. Đã tăng lên gấp trăm nghìn lần nỗi thích thú được nhìn ngắm
cái sức sống vĩ đại ấy trong nghỉ ngơi. Thành phố lúc đó như một tấm thủy tinh
trong veo, một khối óc trinh bạch. Tôi thở không khí nhẹ và trong cái hệ thống
ánh sáng và bóng tối lẫn lộn mắt tôi nhìn lại như thấy sự vật hiện lên đúng và
thực hơn. Tôi thấy nhiều điều. Thấy đại lộ Hàm Nghi, đại lộ Lê Lợi, hai con đường
mà như hai con thuyền, những ngọn cây là buồm đang chở dần từng chuyến một, cái
gió Chương Dương Bạch Đằng mát lạnh hơi nước vào những khu phố bên trong. Thấy
những ngọn điện và những hàng cây chụm đầu tâm sự. Thấy cái mặt người trong tấm
biển quảng cáo phía hông chợ Bến Thành ngó tôi cười lớn. Thấy những khung cửa lấp
lánh đang đo từng chiều cao những căn nhà chọc trời. Thấy những nhân vật ban
đêm của Sài Gòn: thằng bán kẹo vừa câm vừa điếc và gã coi xe đọc thơ lục bát
trước vũ trường Văn Cảnh. Hai chị em đứa nhỏ trên vỉa hè Tự Do với vòng hoa
nhài trắng muốt đeo trên cổ nhỏ, cái khay thuốc lá trước ngực to hơn người
chúng. Người tẩm quất mù góc đường Bùi Viện. Người đàn bà có mang bán trứng vịt
lộn đêm đêm vượt cầu Khánh Hội vào quận Nhất với tiếng rao hàng ngân dài lanh lảnh
như một điệu hò Huế. Hai vợ chồng ông lão già những đêm mưa lớn về ôm nhau ngủ
trên chiếc ghế bố dượi mái hiên một tiệm điện đầu đường Nguyễn Văn Sâm. Người
Tây già trong quán phở ngõ hẻm Tôn Thất Đạm. Chỉ đêm mới thấy, hiện hình và biến
mất trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng nhân vật dã sử của thành phố di
chuyển đây đó như những vì sao lạc lầm than và Sài Gòn đã ánh lên một nét đẹp
khác, hoang đường và thần thoại. Tất cả tạo thành một vũ trụ yên lặng, cái mà
tôi gọi là “những sự thật yên lặng” của Sài Gòn. Chúng gợi cảm. Chúng nói lên.
Cái yên lặng của hành lang tối với những tấm lưới sắt buông kính ở hẻm Eden nói
lên một hình thái thương mại mới. Những chiếc chìa khóa lớn treo trên những cửa
hàng trong chợ Cầu Ông Lãnh nổi lên – rõ hơn vô hạn – cái tính chất riêng của
những cửa tiệm tạp hóa nhỏ ấy. Rác rưởi, giấy má ngập ngụa khu Chợ Cũ nói lên
cái xô bồ của những cái quán Trung Hoa khu ấy lúc ban ngày.
Đêm Sài Gòn thưa vắng bóng người và tiếng động, những dấu tích điển hình còn
vương lại một hẻm cống, một chân tường, những cái vụn vặt ấy, trên một thành phố
ngủ, biểu hiện rõ rệt gấp bao nhiêu lần cuộc sinh hoạt toàn diện của thành phố
cả phần ngày lẫn phần đêm, tạo thành những tài liệu quý giá dư thừa cho những
ai muốn tìm hiểu chân tướng thành phố, bộ mặt thực, cái bên trong của nó. Trái
với những đêm Hà Nội khép kín, che đậy và chứa dấu, những đêm Sài Gòn mở rộng
phơi phới như cái ngọn gió thổi suốt đêm trên thân thể của Saigon. Cái đẹp của
những đường thẳng, những nét song hàng, những vòng tròn rộng. Cái đẹp của rõ rệt,
của thư thái, của hồn nhiên – mặc dầu không thiếu những chiều sâu và những chứa
đựng – cái đẹp của bình yên của nghỉ ngơi nó khiến cho tôi ở những đêm khuya vắng
nhất của Saigon cũng không hề bao giờ cảm thấy vây hãm bởi bóng tối, sự cô độc.
Trong lòng đêm Saigon, thành phố, và chính tôi thực đã thuộc về mình. Giữa người
và Saigon đêm làm thành một toàn thể hòa đối, tôi không được sống những đêm
Saigon cũ, hồi Kim Chung, Đại Thế Giới còn mở cửa để được biết – theo như Thanh
Nam, Trần Lê Nguyễn thuật lại – cái không khí rã rượi choáng váng của những trận
tiền đổ mưa lên chiếu bạc, những tiệm cầm đồ, những thây người ngủ gục dưới
chân bàn ru-lét. Những đêm đau yếu của Saigon. Bây giờ, âm nhạc buổi tối và những
thước không khí trong như ngọc thạch đã thay thế tiếng tiền ngày cũ. Những bước
chân đêm của tôi bây giờ chỉ còn gặp những hình ảnh những ấn tượng bình yên. Những
chiếc xích-lô buông mui ngủ dưới những gốc cây. Những người phu xe chụm đầu dưới
ánh sáng điện đánh ván cờ tướng. Những chiếc xe bán bánh mì lăn thong thả giữa
lòng đường. Từ mấy tháng nay, những tiệm nhẩy đã đóng cửa từ 12 giờ. Hai, ba giờ
sáng, thành phố mênh mông chỉ còn một vài tiệm ăn đêm là còn sáng đèn, nơi họp
mặt của những nhạc sĩ vừa rời khỏi những dàn nhạc, những vũ nữ vừa rời khỏi sàn
nhảy, trở về sau một cuộc dạo mát ban đêm trên đường Biên Hòa – Thủ Đức. Thành
phố im vắng bấy giờ là khung cảnh lý tưởng cho một nhà văn, một nhà thơ trước một
sáng tác đang thành hình, cho một bước chân và tâm hồn tôi chuyển đều đặn trên
mặt đường, cho đầu óc tôi mà sinh hoạt ban ngày của Saigon làm sao động như mặt
biển lớn – được trầm tĩnh và lắng đọng xuống. Đêm Saigon, lấy ngày Saigon làm đối
tượng, có như một bàn tay dịu hiền đặt trên một vùng trán lửa. Một liều thuốc
an thần. Và với chính thành phố, đêm là khoảng cách biệt thiết yếu cho sự sửa
soạn của nó trở lại với ngày hôm sau.
Tôi yêu những phút sửa soạn ấy. Tôi yêu những lúc Saigon cựa mình thức dậy. Khoảng
3 đến 4 giờ sáng. Từ các vùng ngoại ô: Khánh Hội, Gia Định, Gò Vấp, Phú Nhuận,
Phú Thọ, những chiếc xe thổ mộ – điển hình đặc biệt nhất của Saigon về sáng – bắt
đầu lên đường tiến vào những trung tâm thành phố. Ngày, chúng chỉ là những
phương tiện chuyên chở chậm chạp. Đêm, những chiếc xe bánh gỗ ngựa kéo ấy đã biểu
hiện cái sắc thái độc đáo của sinh hoạt quần chúng trong đời sống phường phố.
Tiếng xe lăn ban ngày động cơ át mất, ban đêm nổi lên lọc xọc, mồn một trên mặt
nhựa là cái tiếng đêm thân thuộc nhất của tất cả những người Saigon. Con ngựa
già yếu, ngọn đèn lắc lư, khung xe cồng kềnh, thành phố tráng lệ xa hoa khởi đầu
bằng một hình ảnh dân tộc thuần túy. Nhà tôi ở gần khu Cầu Ông Lãnh. Ban đêm xe
thổ mộ lăn qua cửa vòng quay bùng binh đổ người và hàng hóa xuống cái chợ cá mới
họp bên hông chợ Bến Thành. Đồng Xuân Hà Nội có chợ rau đêm. Bến Thành Sài Gòn
có chợ cá đêm. Nhưng chung quanh sinh hoạt của chợ sớm vẫn chỉ là sự thức dậy,
sự có mặt của những con người ngày đêm lao động sống chết với mặt đường: chị
bán hàng rong, anh phu xích lô, anh công nhân. Những quán nước lộ thiên trên vỉa
hè. Những ngọn đèn dầu hỏa. Ly cà phê đen. Hơi thuốc thứ nhất. Nhiều đêm la cà
tới sáng, tôi đã đến hòa lẫn cái chủ quan thích thú con mắt bỡ ngỡ của mình vào
một phiên chợ cá họp dưới ánh lửa điện. Nếu những ngọn rau cỏ xanh um cả một
khu chợ Đồng Xuân đêm nào còn nhắc nhở cho tôi, qua một quá khứ đầy kỷ niệm, đến
cái triều tươi non những vùng ngoại ô Yên Phụ, Nghi Tàm ngoài Hà Nội, bầy cá
tươi sống ở đây đã là một liên tưởng đằm thắm đến cái hệ thống sông ngòi kinh rạch
phong phú miền Tiền Giang lục tỉnh. Nửa đêm về sáng, Saigon đắm mình hẳn vào nếp
sống đất nước quê hương. Qua phiên chợ cá mở giữa trung tâm của nó, thành phố
có cái không khí thân mến vui ấm, một tâm tình thuần hậu khoan dung như vậy đó.
Những lòng đường cánh tay. Những ngã tư tâm hồn. Và Saigon chưa là một guồng
máy, một con quái vật. Nó chưa nghiền nát, xô đẩy, đồng hóa. Nó chưa đặt những
điều kiện sống còn ghê gớm cho người. Nó chưa đi theo cái luật rừng hung dữ.
Chính trong cái vẻ quê mùa và thành thị pha lẫn này. Saigon thực đã là một
thành phố lớn theo ý tôi: không chỉ là hè phố mái nhà, không chỉ biểu hiện những
nếp sinh hoạt thuần túy đô thị, mà còn là cái ngã tư họp mặt, trung tâm phát
huy mọi hình thái sinh hoạt đổ về từ khắp các miền đất nước nữa. Bỏ chợ, tôi đến
ngồi xuống chiếc ghế thấp đầu nhà Ga chính. Cảnh binh, phu xe, chủ quán vây
quanh cái quán nước vỉa hè này và tôi cũng vui miệng đấu tiếng vào câu chuyện của
một người. Phút này, Saigon ánh lên một nét đẹp đơn giản bằng hữu. Khách sạn,
dinh thự, nhà máy lớn: những khối tĩnh vật ngủ. Đời sống là mặt đường, vỉa hè.
Và những người áo ngắn bấy giờ là những vị hoàng để làm chủ cả thành phố.
Nhưng đêm Saigon đã bắt đầu suy tàn hẳn. Những lòng đường hư ảo hơn, sương đặc
lại, không khí lung linh. Sau lớp thổ mộ, những loại xe khác từ các ngã xuất hiện,
Taxi rồ máy dưới những cây xăng. Từng đoàn xe vận tải cồng kềnh nối đuôi nhau
chạy tới những kho hànglò. Xe ba bánh trườn yên lặng. Xe máy dầu ầm réo. Vỉa hè
đại lộ Lê Lợi; người bán báo ngồi sổm giữa những chồng báo thứ nhứt. Bến xe lục
tỉnh, một người khách sớm bước lên chuyến xe hành khởi hành trước ngày. Đoàn xe
buýt ầm ầm vào bến. Những ngã tư xôn xao. Những tiệm ăn Trung Hoa vừa mở cửa đã
đông đặc. Người Sài Gòn vẫn điểm tâm sớm hơn người Hà Nội. Cà phê sữa, hủ tiếu,
cơm đĩa và thuốc lá bán lẻ. Tiếng bát đũa và chạm lách cách. Những tiếng ho
khàn khàn. Vẫn còn những tiếng khạc nhổ và cái kiểu ngồi “nước lụt” hai chân
thượng cả lên ghế……
Năm giờ sáng. Những vệt hồng hồng khởi sự từ phía sau tòa nhà Quốc Hội đi dần
lên một vòm trời đang tan loãng những tản bóng tối cuối cùng. Những ngọn lửa nhấp
nháy suốt đêm đổi thành những điểm xanh đỏ. Cái vòng tròn ánh sáng đánh đai lấy
chiếc đồng hồ ba mặt treo trên nóc chợ Bến Thành vụt tắt. Những đoàn xe đổ xuống
đại lộ Trần Hưng Đạo. Trong kia Chợ Lớn Cũ và Chợ Lớn Mới cũng đã thức dậy. Tôi
đi bộ trở về căn buồng nhỏ của tôi lúc trời gần sáng rõ. Con chim đêm trên mái
đầu nhà đã im tiếng. Cái thế giới ban đêm của Saigon đã đóng lại. Một vệt nắng
óng ánh trên đỉnh thu lôi một nhà chọc trời. Rồi những phiến nắng hạ thấp xuống
cắt ngang những bờ tường. Một thoảng, nắng đã lọt hẳn xuống những lòng phố. Dưới
một hình cây đổ nghiêng, nắng kéo dài những cái bóng cyclo đi. Ngày Saigon bắt
đầu.
Mai Thảo
(tạp chí Trẻ – số 6, năm 1959)