Gần nhà gia đình tôi có một quán cà phê lớn. Chúng tôi thường
gọi là Quán Ngựa. Quán lúc nào cũng đầy người, phần lớn là các ông bà già đã về
hưu, và người nghèo, thợ thuyền, dân ngoại quốc tới xứ Pháp làm ăn. Họ đến đây
để gặp nhau, trò chuyện tiếng xứ họ, và thi nhau đánh cá ngựa.
Điều đặc biệt với tôi là quán này có một cái bàn rất lớn, đặt trong góc phải khi đi vào, dành cho người Việt. Mà người Việt đây toàn là đàn bà. Toàn là các bà già ! Bà nào cũng ít nhất 70 tuổi, có bà đã tới 90.
Sáu bảy bà mà châu lại với nhau trong một quán cà phê thì ai
không để ý. Nhất là còn có thêm hai lý do. Lý do thứ nhất là bà nào người cũng
bé nhỏ chút xíu. Cho nên cái bàn đó từ xa nhìn thấy như trũng hẳn xuống, so với
các bàn chung quanh, phần lớn là bàn các ông thợ thuyền vai u thịt bắp. Lý do
thứ hai là, tuy nhỏ người, các bà lại nói rất to, và chỉ nói tiếng Việt. Tiếng
các bà lanh lảnh, tiếng cười khanh khách, chẳng coi ai ra gì hết. May là quán
cũng nhiều tiếng nói chuyện ồn ào, và chủ tiệm cũng như khách hàng đã quá quen
với các bà, nên cũng chẳng ai than phiền gì.
Tôi tò mò nhiều lần đến đứng ở quầy uống cà phê để có dịp
quan sát các bà và tìm hiểu thêm. Dĩ nhiên là tôi không qua mắt các bà được, và
các bà, thấy tôi người Việt, lần nào cũng lên tiếng chào mời hỏi thăm. Các bà
bô bô hỏi chuyện, mặc dù tôi đứng uống ở quầy xa bàn các bà tới năm sáu thước.
Và không hiểu từ đâu, tôi được đặt tên là « cậu Ba » ! « Cậu Ba có khỏe không ?
», « Cậu Ba có vợ con gì chưa ? », « Cậu Ba hồi này mần ăn ra sao ? », vân vân.
Các bà là những người Việt Nam đã qua Pháp từ lâu. Tuổi
trung bình là 80, như đã nói. Các ông chồng thì đã theo nhau chết hết cả rồi.
Con cháu đã trưởng thành ra ở riêng. Không bà nào chịu ở với con cái dâu rể, bất
kể dâu rể là người ngoại quốc hay người Việt. Các bà phần lớn đều có căn nhà
riêng, hoặc đã mua khi còn trẻ, hoặc con cái mua cho. Trong nhóm cũng có mấy
người nghèo, không ai thân thuộc, đi ở đậu hết chỗ này đến chỗ kia. Tuy vậy, cả
nhóm sống điều hoà với nhau, ai đói thì chia cho ăn, ai rách thì tìm quần áo
cho mặc. Thỉnh thoảng cũng nghe tiếng la lối om sòm, nhưng nói chung họ cùng
tình cảnh lẻ loi xứ người, biết đùm bọc lấy nhau.
Trong nhóm này có một bà tôi rất để ý. Chúng tôi gọi bà là
Bà điên. Gọi thế thôi, nhưng rất quý nể bà, không chê bai gì đâu. Bà có một ngoại
hình rất đặc biệt. Người bà cái gì cũng nhỏ. Thân nhỏ, đầu nhỏ, mắt nhỏ, mũi nhỏ,
tai nhỏ, miệng nhỏ, răng nhỏ. Tuổi khoảng 70, tóc vẫn còn đen, tuy nhiều lúc sạm
màu vì rất dơ. Bà hiện ra với tôi dưới hai hình trạng. Lúc bà tỉnh và lúc bà
điên.
Lúc bà tỉnh thì ăn mặc gọn gàng, đầu sạch sẽ chải mượt, má
có thoa chút phấn, môi có bôi chút son, lại còn đánh móng tay nữa. Những lúc đó
bà chỉ nói tiếng Pháp, ngôn ngữ rành rọt, trôi chảy, có khi còn văn chương điệu
bộ đọc thơ của La Fontaine nữa. Hình như ông chồng xưa có tiệm cơm, làm ăn
thành đạt, ông bà có nhà cửa đàng hoàng. Chắc chắn bà cũng có con cái, nhưng
tôi chưa bao giờ gặp bà với một đứa con nào. Có lần tôi thấy bà móc trong ví ra
một lô các lọ nước hoa nhỏ tí, rồi khoe với cả bàn một thỏi son hiệu Christian
Dior. Những thứ đó bà vào xin ở các tiệm bán nước hoa. Người ta có các hàng mẫu
nhỏ tí làm quảng cáo, chỉ cho mà không được bán. Họ cho bà vì quen bà từ lâu,
thấy bà tiếng tây trơn tru, già cọm mà còn làm đỏm như con gái.
Lúc bà điên thì rất tội nghiệp. Quần áo lôi thôi, tóc tai dơ
bẩn, môi son loe loét. Những lúc đó chủ quán đuổi bà ra khỏi tiệm. Bà ngồi chồm
hổm bên vỉa đường, bóc gói ra ăn một mình, mắt ngơ ngác nhìn quanh, miệng nhai
lép nhép, trông thương xót vô cùng. Điều rất lạ là những lúc đó bà không nói được
tiếng Pháp mà chỉ nói tiếng Việt. Bà gọi tên mẹ, má ơi, má ơi, nhắc nhở đến ông
chồng, thở than chê trách ông, và chửi mắng con cái. Tiếng bà oang oang, và những
câu chửi không biết bà học ở đâu, nghe rất vần vè dễ sợ. Người đi đường chung
quanh ai cũng quay lại nhìn, nhưng họ có hiểu gì đâu. Có người đi gọi cảnh sát,
nhưng cảnh sát không làm gì được. Vì cảnh sát không hiểu bà nói gì. Mà có hiểu
thì nói to chửi thề cũng không phải là một tội lỗi đủ để bắt bà mang về bót. Ở
xứ này, họ rất tôn trọng tự do cá nhân. Bà la lối một hồi, thấm mệt, tựa vào một
gốc cây mà ngủ. Đến khi tỉnh thì các bà kia ra lau mặt mũi, dọn dẹp chung
quanh, rồi dẫn bà vào ngồi trong tiệm rót nước cho uống.
Một buổi sáng sớm thứ bảy, tôi mặc quần áo thể dục ra chạy dọc
đường cho khoẻ. Qua Quán Ngựa, đã thấy bà ngồi một mình trước cửa tiệm, chờ các
bà kia chưa đến. Tôi bèn bỏ cuộc chạy, mời bà vào uống nước, trò chuyện với bà.
Bà kể lể đủ thứ.
Trước kia bà làm ăn khá giả, có con, có cháu, đứa còn đứa chết,
nhưng không hiểu bây giờ con cháu ở đâu. Bà ở một làng nhỏ, phải đi xe buýt và
xe điện ngầm, hơn một giờ rưỡi mới tới Quán Ngựa. Ở làng, lúc ông còn sống, ông
bà ăn ở cũng tàm tạm với hàng xóm. Nhưng từ lúc ông mất đi, bà đâm ra gàn gàn,
ai cũng tránh né. Dần dần, không ai nói chuyện với bà nữa. Bà đi lang thang
ngoài đường, nói lảm nhảm một mình. Hàng xóm mà gặp chỉ chào một câu rồi đi thẳng.
Có người làm bộ không thấy, hay có thấy cũng chẳng chào. Trẻ con đang chơi vui
thấy bà là im thin thít, nắm tay mẹ. Bà nói : « Ai cũng tránh và ghét tôi. Cả
con chó gặp tôi, nó cũng sủa ! Tôi mà nằm chết trong nhà chắc cả tuần người ta
cũng không hay !», « Ấy là tôi còn biết tiếng Pháp, và có tiền trợ cấp, tiêu
xài cũng tạm đủ. Nếu mình mà còn đi ăn xin, thì không hiểu người ta đối với
mình như thế nào ! ».
Một ngày nọ, trời Phật run rủi, có người dẫn bà tới Quán Ngựa.
Bà làm quen với các bà kia, rồi từ đó, trưa nào cũng tới quán, la cà trò chuyện
cho đến tối mới trở về nhà. Có bè có bạn, dần dần bà trở lại bình thường, thỉnh
thoảng có chuyện gây gổ mới nổi cơn điên lên thôi.
Thấy bà ngày nào cũng đi đi về về mệt mỏi, có một bà khác ở
gần Quán Ngựa cho bà về ở cùng. Đó là một bà đã trên 80 tuổi, được gọi là Bà Đốc,
vì chồng ngày xưa là bác sĩ. Bà Đốc có tiền, ăn mặc sang trọng, có nhà ở ngay
trong Ba Lê. Hai người ở với nhau được ít lâu, thì có một chuyện đáng tiếc xảy
ra. Một đêm, bà điên nổi cơn, đùng đùng la hét, đập phá lung tung. Bà đập phá rất
nhiều bát đĩa, đồ cổ mà bà Đốc đã mua và giữ gìn từ nhiều năm nay. Bà Đốc gọi cảnh
sát. Cảnh sát làm biên bản, rồi hỏi bà Đốc có muốn làm đơn kiện không. Bà Đốc
nói : « Tôi kiện cáo mà làm gì. Bà kia lấy gì mà đền tôi ! Cái số mệnh tôi ăn
mày nên mới xảy ra như vậy ! »
Hôm sau, bà Đốc tới Quán Ngưa kể lể. Thế là bà điên và bà Đốc
giận nhau, và bà điên dần dần cũng bị xóm Quán Ngựa xa lìa và hắt hủi. Mỗi lần
đến, bà ngồi lủi thủi một góc. Rồi bà ra ngồi một mình ngoài vỉa hè. Không có
ai nói chuyện, những cơn điên bắt đầu trở lại, và càng ngày càng nặng nề hơn.
Chuyện tới đó thì tôi mất tin tức bà điên. Khi tới hỏi, các
bà kia nín thinh, hay nói không biết. Bẵng sau đó ít lâu, một hôm tôi đang đi về
nhà, bỗng có tiếng kêu ơi ới : « Cậu Ba, cậu Ba !». Một bà già chạy tới, mặt
quen quen : « Lâu quá không gặp cậu, …Cậu có được mạnh giỏi không ? Ủa, cậu
không nhớ tôi sao ? Tôi đây mà… ». Thì ra đó là bà điên. Nhưng dáng điệu, nét mặt
khác hẳn ngày trước. Tóc vẫn đen, nhưng sạch sẽ. Da sạm hơn, nhưng rắn bóng như
người mới ra biển. Quần áo gọn gàng tươm tất. Nhất là dáng điệu tươi cười,
không còn cái buồn lủi thủi như ngày xưa. Điều mới lạ là sau lưng bà, thấy có một
ông người Việt gầy còm, cao lêu nghêu, tóc bạc, má hóp, còn ngượng nghịu trong
một bộ quần áo mới mua, quá rộng đối với ông. Ông chào tôi, với một giọng nói
đúng là ở bên nhà mới sang. Một giọng nói « Bắc Kỳ », cứng rắn, rõ ràng, mà tôi
còn nhớ mang máng khi, lâu lắm rồi, tôi còn ở bên nhà với bố mẹ.
Hỏi ra mới biết là trong mấy tháng qua bà điên đã về và sống
ở Việt Nam. Và chỉ vì về bên nhà, được nói chuyện huyên thuyên với đồng bào mà
bà khỏi bệnh. Thật là một chuyện thần kỳ và cũng là một chuyện thật cảm động.
Vừa về nước, đến ở nhờ một người quen ở ngoại ô, xa Sài Gòn,
bà đã thấy như sống lại. Ở bên Tây người ta khinh khi hắt hủi bà bao nhiêu thì
về nhà người ta lại vui vẻ quý mến bà bấy nhiêu. Ở Pháp, bà là một người thừa,
sống nhờ trợ cấp, họ lạnh lẽo nuôi cho tới chết. Còn ở Việt Nam, tiền trợ cấp đổi
ra tiền Việt, bà tiêu xài không hết. Ra đường, người ta cười với bà, ai cũng trả
lời bà. Chẳng quen thuộc gì mà cũng hỏi han làm như quen. Thay vì đi Quán Ngựa,
bây giờ ngày nào bà cũng la cà ở xóm chợ, chuyện trò, trả giá, mua sắm này nọ
chút đỉnh. Gặp ai nghèo đói ăn xin bà cũng hãnh diện móc tiền ra cho. Ít lâu
sau, người ta quen bà, gọi bà là « Ngoại », « Ngoại Việt kiều ». Cả ngày bà đi
chỗ này chỗ nọ, chuyện nói không hết. Bà theo người ta vào chùa lễ Phật, cúng lễ
đọc kinh nghe giảng. Bà dần dần trở nên sáng suốt, những cơn điên theo nhau biến
mất. Bà đã thành một người bình thường. Cho đến một ngày kia, có một người đàn
ông cứ lẽo đẽo theo sau nói chuyện với bà. Rồi hai người thân thiết với nhau…
Tôi không hiểu rõ câu chuyện như thế nào, hình như bà bỏ tiền
đưa ông đi Tây, rồi ông sống lẩn lút bên này. Về sau bà có lập gia đình với ông
hay không và có xin giấy má, công việc cho ông hay không tôi cũng không biết.
Nhưng tôi không thể quên được câu chuyện của bà. Một người Việt sống lẻ loi xứ
người, bị xã hội ruồng bỏ, hắt hủi, cả ngày không có một người để nói chuyện, lẻ
loi đến phát điên phát khùng, chỉ về nước sống với đồng bào không thân không
thuộc, mà khỏi bệnh. Những người ở bên nhà đã trả lời bà, đã trò chuyện đùa giỡn
với bà, đã đưa tay nhận những món quà nhỏ bà đem cho, đã cho bà củ khoai, miếng
sắn, bắp ngô, chén chè, đâu có biết chính mình đã là những vị thầy thuốc, đã
cho bà những viên thuốc tình đồng bào nhỏ xíu, nhưng tác động thần tiên đã cứu
bà ra khỏi không gian hẩm hiu đen tối lạnh lẽo mà bà đã chịu đựng bao nhiêu năm
ở xứ người.
Nguyễn Vạn An