Cả hơn tuần nay tôi ể mình, không có ra ngoài. Hồi sáng thấy
trong người khỏe lại, chợt thèm phở cách gì.
Nhắc đến phở là đúng băng tần của tôi rồi, bởi vì tôi có rất
nhiều kỷ niệm riêng tư về phở với ông bô của tôi, kể hoài không hết. Nay đã về
hưu, và ông bô tôi cũng đã leo lên bàn thờ ăn xôi nghe kèn từ hơn 30 năm nay rồi,
nhưng mỗi lần ăn phở đều ít nhiều nghĩ đến ông bô tôi.
Mặc dù xuất thân "Cao Đẳng Sư Cụ Đông Dương", ông bô tôi vẫn thuộc loại thầy giáo thủ cựu, đạt tiêu chuẩn "thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn", mà tôi lại là con trai đầu lòng - cậu cả con bà hai, loại "con đợi con chờ, con cầu con khẩn" - nên được ổng cưng lắm, mà càng cưng lại càng chết... cha tui! Ổng o ép tôi từ cái học đến cái ăn, muốn nhào nặn tôi thành một "bản sao" của ổng. Về cái học thì thỉnh thoảng ổng lại múa roi mây, bắt chia “vẹc bờ” các “tăng” các “mốt”, lạng quạng là ổng lôi tôi ra "uýnh biểu diễn" cho đám học trò của ổng coi chơi, uýnh đến nỗi không lớn được, thành thử bây giờ vóc vạc nhỏ thó. Về cái ăn thì ổng ăn cái gì, tôi phải ăn cái đó, ổng ăn kiểu gì tôi phải ăn kiểu đó.
Riêng về phở thì gần hết một đời, tôi vẫn chưa thấy ai mê phở
như ông bô tôi. Đối với ổng, ăn phở không phải để ăn cho no, mà để ăn cho... sướng!
Hồi 1954 trở về trước ở Hà Nội, thành phố bé bằng cái bàn tay, không tiệm phở
nào mà ổng không dẫn tôi tới ăn thử, để chọn những chỗ ngon nhất theo cái
"gu" của ổng. Ổng chê phở Cửa Nam là nước không trong, bánh không mỏng,
không dai, nhất là ổng cực lực đả kích món phở tái sách của tiệm này.
Theo ổng, phở thì phải là phở bò, và là phở chín, thịt mới
thơm, còn tái thì có mùi gây của thịt bò sống, làm mất mùi phở, đồng thời thịt
sống làm nước phở "đục như nước cống", ăn phở tái là không biết ăn phở
(!). Ổng cũng thích nhậu sách bò lắm chớ có phải không đâu, nhưng phải là sách
chấm tương gừng, ăn với húng giũi thôi, không thể cho vào phở được.
Ổng chê phở Cửa Nam thua xa phở Cầu Gỗ. Ổng có thể ăn phở
sáng-trưa-chiều-tối-khuya, từ sớm tinh mơ đến tối mịt mờ khuya lắc khuya lơ, bất
cứ lúc nào, và có thể ăn ngày này sang tháng khác. Ổng coi phở như một món ăn
chơi, thích lúc nào thì ăn lúc nấy, ăn lấy hương lấy hoa thôi. Một phần cũng vì
bát phở (từ ngày vô Nam tôi mới quen kêu bằng tô phở) Hà Nội thời đó nhỏ xíu,
ít xỉn, nông toẹt - tiếng văn chương kêu bằng "thanh cảnh " - tuổi
thiếu niên trổ giò của tôi hồi đó thì chỉ húp ba bốn húp là tiêu bát phở! Chả
là phở gánh Hà Nội ngày xưa không ăn bằng thìa (muỗng), chỉ có đũa để gắp,
và... kê miệng húp!
Ông bô tôi chọn phở chứ không chọn chỗ, ổng chịu nhất là
gánh phở cố định ở Phố Hàng Vôi, khúc gần Ấu Trĩ Viên hồi đó (bây giờ chả biết
đã được xây khách sạn hoặc công ty gì nữa). Ăn phở gánh Hàng Vôi vào giờ đi làm
buổi sáng thì phải xếp hàng, rồi tự kéo ghế đẩu ngồi ăn ngay trên vỉa hè. Nghỉ
hè, ổng chấm thi chấm cử xong, thường đưa tôi ra bãi biển Đồ Sơn, ô tô ca (xe
đò) đi ngang Hải Dương thì mua bánh đậu xanh Rồng Vàng, để ghé Hải Phòng, sau
khi ăn phở Hợp Lợi ở Phố Cát Dài (hình như số nhà 215 thì phải, lâu quá quên mất
tiêu) thì dùng làm món tráng miệng. Tiệm phở Hợp Lợi này còn nổi tiếng về các
món phở xào dòn, xào mềm, cũng như phở áp chảo khô, áp chảo nước.
Hóa nên từ nhỏ xíu tôi đã lây cái bệnh mê phở của ông bô
tôi, nhưng không mê đến nỗi quá khích như ổng. Ổng đả kích các loại phở
"biến tấu" như phở gà, phở sốt vang... cho rằng "phở thì phải là
phở bò". Tôi cũng có thể ăn phở bất cứ lúc nào đói bụng, và có thể ăn mỗi
ngày mà không chán. Thậm chí hồi nhỏ xin tiền ăn phở vào buổi chiều, bà bô
không cho, bắt ăn cơm, nhiều lần tôi phải giả vờ ốm (bịnh) để đòi ăn phở.
Chả biết ở Sài Gòn trước 1954 có tiệm phở không, chỉ biết là
từ sau 1954 thì nhiều tiệm phở Bắc mới theo nhau mọc lên, và cha con tôi ngày
ngày đi "duyệt" từng tiệm, nghe nói tiệm nào mới mở là tới ăn thử.
Ông bô tôi chịu nhất là tiệm phở xập xệ mang tên "Phở Số 1" trên đường
Phan Thanh Giản cũ (nay là Điện Biên Phủ), ngay kế đường rầy xe lửa. Ông chủ tiệm
thấy ông bô tôi vào là phải trụng bánh ba bốn lần cho thật kỹ, để khi chan nước
dùng (nước lèo) thì nước mới không bị đục, bởi vì ổng không chỉ ăn phở, mà ổng
còn nhìn phở nữa. Bánh phở phải trắng tươi như bạch ngọc, còn nước phở phải
vàng óng, trong suốt như hổ phách! Ổng còn kÿ nước béo, hồi đó ai mà biết
cô-lét-tê-rôn là cái quái gì, chỉ vì, như ổng nói, tô phở nước béo "trông
thô bỉ lắm"! Còn nấu phở mà cho củ cải vào thùng nước lèo thì ổng bảo là
"bố láo bố lếu". Về sau tiệm này dọn về Tân Định gần nhà tôi, trên đường
Hai Bà Trưng, gần ngã tư xéo Yên Đổ - Trần Quang Khải, rồi sau lại dọn đi nơi
khác. Mặc dầu "chịu đèn" tiệm này, ổng vẫn chê là con bò Miền Nam
không ngon (ngay cả phở Hà Nội ngày xưa, muốn ngon thì phải nấu với bò nuôi ở tỉnh
Phú Thọ cơ), nước dùng không đậm đà, bánh phở Sài Gòn làm không đúng cách,
không được mỏng, được dai, mà cứ bở bờ bờ, rau mùi (ngò) Sài Gòn không thơm
v.v...
Phở Sài Gòn sau 1954 không còn là phở Bắc thuần túy nữa, tô
phở lớn hơn, đa dạng hơn. Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ, gần khu Bắc Hải của
dân Bắc Kỳ Công Giáo di cư, là một trong những tiệm sớm sủa, rất đông khách,
giá rẻ, tô bự, lại còn có loại "tô xe lửa" nữa. Ông bô tôi chê phở
Tàu Bay là nước đục, bánh đã dày lại bở, chỉ được cái rẻ. Khi ăn thì cho đủ thứ
rau thơm, về sau lại có giá sống, giá trụng, ăn với cả tương đen của Tàu. Ổng
thù cái món tương đen này lắm, nói là khiến phở biến thành... mùi Tàu. Thấy thực
khách chăm chú "sửa soạn" tô phở, vắt chanh, ngắt đủ loại rau thơm bỏ
vô, cho giá vô, rồi còn trộn đều lên trước khi ăn, ổng bảo "đúng là cơm
heo". Phở Bắc ngày xưa chỉ ăn với hành tây và rau mùi (ngò), còn rau quế,
tức húng quế thì chỉ ăn với thịt chó hoặc tiết canh và lòng lợn (chấm mắm tôm
chanh ớt), cho nên ngoài Bắc mới gọi rau húng quế là húng chó hoặc húng tiết
canh.
Theo ông bô tôi, điểm dị biệt nhất giữa món Tàu và món Ta là
món Ta thường ăn với các loại rau thơm, còn món Tàu không kèm rau thơm. Món Ta
thì món nào ăn với rau thơm nấy, tuyệt đối không thể lẫn lộn được. Cho nên ngửi
mùi rau tía tô thì tự nhiên thấy thèm các món ốc, ếch, ba ba (cua đinh); ngửi
mùi rau kinh giới thì nghĩ đến bún riêu; nhìn thấy rau thìa là thì thèm chả cá,
ngửi mùi rau húng giũi thì thèm sách bò, vó bò, bê thui, bò thui (đều chấm
tương gừng) v.v... Nay nếu bỏ hầm bà làng các loại rau thơm vào phở thì... “chả
còn ra cái quái gì nữa!”
Sau khi tôi - cái "bản sao" của ổng - vô trường Học
Đại Sư Cụ Sài Gòn, không còn trong vòng o ép của ổng nữa, thì tính chất "bản
sao" trong tôi phai nhạt dần, tự nhiên tôi thích ăn phở kiểu Sài Gòn, giá
sống, rau thơm gì cũng cân tuốt, rau dấp cá, ngò om, húng chó, ngổ ba lá... làm
ráo nạo, có điều là cho đến nay vẫn không thích ăn phở tái, và càng không thể xịt
tương đen vô phở!
Tôi không được rõ tình hình phở Hà Nội sau năm 1954 ra sao,
nhưng sau 1975, nhiều người ở Hà Nội vào kể rằng giai đoạn khó khăn lúc trước
thì chỉ có phở quốc doanh với món "phở không người lái". Phải xếp
hàng, mua phiếu, như kiểu các cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Sài Gòn sau 1975 vậy.
"Phở không người lái" tức là phở không có thịt, chỉ có bánh phở và nước
phở nấu bằng xương bò. Vì nước phở quá nhạt nhẽo do ít xương bò, nên nhiều người
đi ăn phở không người lái đã phải đem theo lọ "mì chính" (bột ngọt -
âm Quảng Đông của "vị tinh"), rắc một chút vào bát phở để đánh lừa khẩu
vị. Thảm đến thế là cùng! Chính vì vậy, đến nay dân Hà Nội vẫn còn thói quen ăn
nhiều bột ngọt, và còn có câu thành ngữ tân thời: “Đắt như mì chính thời bao cấp”.
Vì mê phở, nên tôi thích tìm hiểu tình hình phở. Chưa bao giờ
Sài Gòn mọc thêm nhiều quán phở, tiệm phở lớn nhỏ như hiện nay, hầu như đường
phố nào, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có, chưa kể các xe phở cố định và lưu động.
Còn ở Hà Nội thì báo chí cho biết, Hà Nội cũng đang ở vào thời kỳ "bung
ra" của phở. Mới đây ở Hà Nội có ông giáo sư Lê Văn Lan đã vận dụng
"phương pháp lịch sử" (?) để nói về các giai đoạn tiến hóa của phở,
và còn làm một bản "thống kê phở" nữa.
Theo ông, sự tiến hóa này đã trải qua “4 bước”. Bước thứ nhất
là giai đoạn "Hà Nội hóa" từ đầu thế kỷ 20, khiến phở trở thành một đặc
sản của Hà Nội, và các tỉnh khác ở Miền Bắc nấu phở thì cũng nấu theo kiểu Hà Nội.
Thứ nhì là giai đoạn phát triển “cổ điển”, gồm những năm trong 2 thập kỷ 40-50.
Có lẽ đây là loại phở cổ điển theo "gu" của ông bô tôi chăng? Thứ ba
là giai đoạn "mậu dịch", những năm 60-70. Thứ tư là giai đoạn “bung
ra” từ những năm 80 đến nay.
Ông giáo sư này có vẻ có lý, nhưng chia giai đoạn tròn trịa,
cứng ngắc như thế có chỗ không ổn, thiếu tính... khoa học, vì trong thập kỷ 50
thì trước và sau 1954 khác nhau một trời một vực. Mặt khác, theo nhiều người,
giai đoạn gần đây nhất - từ thời đổi mới đến nay, tức là từ 1990 - có lẽ nên gọi
là giai đoạn “phục hưng” của phở. Ở Hà Nội, vào những năm cuối của thời “phở mậu
dịch”, phở có bán ở quán ăn tầng trệt khách sạn Phú Gia, cạnh Bờ Hồ. Bây giờ
thì cái quán ấy đã thành “rét-tô-răng” mà không còn món phở nữa. Phở Hà Nội có
lúc đã tiêu điều, song bây giờ có thể nói phở Hà Nội đã sống lại, và đang “bung
ra”... theo nhiều nghĩa.
Về “thống kê phở" thì ông giáo sư Lan cho biết, theo những
gì người ta nghiên cứu được ở Hà Nội, phở đã có cả 100 tuổi. Phở là món ăn do
người Việt chế ra, hay du nhập từ Trung Quốc? Câu trả lời đã rõ ràng: phở là
món ăn hoàn toàn Việt Nam, vì nếu từ Trung Quốc thì tại sao giờ này Trung Quốc
không có món phở? Còn phở đã gần tròn, đã tròn, hay đã hơn 100 tuổi, thì chẳng
ai khẳng định được chắc chắn và rõ ràng, mà có lẽ cũng chẳng có gì quan trọng lắm.
Điều quan trọng là phở đã như một cây cổ thụ, bắt rễ, đâm chồi, lan tỏa sâu vào
(bộ đồ) lòng người, đã khẳng định được vị trí độc nhất vô nhị của nó trong nền
văn hóa ẩm thực của người Việt cả trong lẫn ngoài nước.
Đến nay ít nhất cũng đã có vài công trình khảo sát, nghiên cứu
rất "nghiêm túc" về phở, dưới "góc độ lịch sử và văn hóa” như của
Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội, hay dưới "góc độ khoa học kỹ thuật” của Bộ
môn Công nghệ Chế biến Trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội. Theo thống kê trong
sách vở báo chí ở Hà Nội hiện nay thì tài liệu nhiều nhất đã kê được 17 món phở,
gồm phở chín, phở tái, phở gầu, phở sụn, phở sách, phở xá xíu, phở gà, phở gà
xào, phở xào mềm tim gan, phở xào dòn tim gan, phở bò xào dòn, phở gà xào dòn, phở
áp chảo nước, phở áp chảo khô, phở sốt vang v.v... và cả phở chua. Thống kê này
quả là có giá trị, song hình như vẫn chưa thấy đủ so với thực tế phở ở Hà Nội
bây giờ. Ít ra cũng thiếu mất vài món, mà dù chưa được thừa nhận chính thức, vẫn
có nhiều người thích ăn, như phở mọc, phở thập cẩm... Ông bô tôi đã ăn xôi nghe
kèn từ cuối thập kỷ 60, nếu ổng còn sống thì sẽ bảo là trong 17 món phở đó,
ngoài phở bò chín, còn 16 món kia là "bố láo bố lếu" hết. Phở bò cho
tới nay vẫn là “phở căn bản” trong hầm bà lằng các món phở hiện hành. Phần lớn
các quán phở nổi danh trong hàng ngũ “Hà Thành đệ nhất... phở” bây giờ cũng vẫn
là các quán phở bò!
Một ông ký giả cho biết, cái cảnh xếp hàng vốn ám ảnh người
dân Hà Nội mấy chục năm của thời bao cấp, đến nay chưa hết hẳn. Buổi sáng cỡ
8-9 giờ, đi qua các phố Bát Đàn, Tôn Đức Thắng, Lý Quốc Sư... người ta vẫn thấy
cảnh xếp hàng rồng rắn để ăn phở, nhưng ngày nay người ta xếp hàng với một ý
nghĩa và tâm tình khác hẳn. Phở phố Lý Quốc Sư thì sáng nào cũng có một ông
dáng chừng là nhà doanh nghiệp quốc doanh bự, ăn mặc rất xịn, đầu chải láng mướt,
còm lê cà vạt chỉnh tề, tay lăm lăm điện thoại di động từ xe Toyota Camri đời mới
bước xuống, cũng đứng xếp hàng kiên nhẫn chờ đến lượt. Thời buổi này thời giờ
là tiền bạc, thế mà mất cả mấy chục phút chỉ để chờ ăn một bát phở cho bằng được
thì thật là sang và... gàn!
Nghe nói một trong những quán phở loại ngon nhất của Hà Nội
hiện nay là phở Bát Đàn. Phở Lý Quốc Sư còn gọi là “Phở Bà Ngọc”, vì bà Ngọc
làm “kỹ thuật viên” chính, cũng ngon ngang ngửa với phở Bát Đàn. Phở Hàng Muối
cũng ngon, tuy món thịt chín hơi cứng hơn một chút. Phở "tái lăn"
ngon nhất có lẽ là ở Phở Thìn Lò Đúc, nước dùng đậm đà, hơi béo do thịt xào
lăn, song không ngấy. Còn Phở Hàng Bột (phố này giờ đã đổi tên thành Tôn Đức Thắng,
song người ta vẫn quen gọi tên phố cũ) có món “bửu bối” là phở sốt vang, nhuộm
ra đỏ cả bánh phở. Tuy nhiên, các món phở tái trần, tái lăn, chín... đều ngon.
Đặc biệt hơn nữa là cô bán hàng, hình như chửa... chồng, rất xinh đẹp, trắng trẻo,
mắt sắc như dao cau, và lúc nào cũng trang điểm rất kỹ càng như sắp đi nhảy đầm,
mặc đồ đầm ngồi làm phở mới kiêu chứ, vì cô rất ít cười. Phở gà nổi tiếng có
quán ở Phố Nam Ngư. Bà chủ quán hơi đồng bóng, song phở rất ngon. Ngày xưa, ông
Nguyễn Tuân đã từng sợ rồi người ta sẽ làm "phở hộp" thì không còn là
phở. Bây giờ thì chưa thấy phở đóng hộp, mà mới chỉ có “phở ăn liền” của Công
ty Vifon, sấy khô cho vào gói, có bột nêm, như mì ăn liền vậy, và tất nhiên
là... không người lái. Khỏi phải nói, thứ này thì đúng là"chả ra cái quái
gì cả”.
Tôi thì không đến nỗi thủ cựu và quá khích như ông bô tôi,
nhưng tôi cho rằng phải "chính danh", vì đã kêu bằng phở thì phải
là... phở, nghĩa là có mùi phở, vị phở, và chỉ là phở bò. Còn nếu cứ đem bánh
phở - vốn chỉ là bột gạo - trộn với đủ món biến tấu sau này như thịt gà, tim
gan, đồ lòng, sốt vang v.v... thì "cưỡng dâm" cái tên phở quá, mà nên
gọi là hủ tíu bò kho, hủ tíu xào đồ lòng, hủ tíu gà v.v... vì hủ tíu là sợi bột
(âm Quảng của từ ngữ Hán "khỏa điều"), sợi bột thì muốn xào nấu với
gì chả được. Nếu không thì bún ốc, bún riêu... cũng có thể gọi là phở ốc, phở
cua... hay sao? Còn những loại phở khác ở Hà Nội hiện nay như phở tim gan, phở
mọc, phở thập cẩm... nói ở trên, thì xin lỗi, "bố láo bố lếu" hết!
Tuy nhiên, trong thời kỳ "bung ra" của phở từ Nam
chí Bắc hiện nay, hình như các món phở xào và phở áp chảo đã thất truyền. Hồi
sau 1954, Sài Gòn cũng có xuất hiện mấy món này, sau đó thì một thời gian tiệm
phở 79 ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu Sài Gòn cũng có mấy món này, nhưng không phải
là tay chuyên môn làm, nên ít khách kêu, rồi dẹp luôn, vì hồi đó người muốn ăn
phở xào, phở áp chảo, chỉ là thành phần Bắc Kỳ di cư, tức Bê 54 như gia đình
tôi chẳng hạn. Ông bô tôi cũng thích ăn mấy món này, ngoài tiệm không có thì bà
bô tôi làm ở nhà cho ổng ăn đỡ vậy.
Phở áp chảo hay phở xào thì cũng gồm 2 thành phần chính, là
bánh phở và "người lái". Quan sát bà bô tôi làm thì bánh phở tươi mua
về từng lá, phải xắt to bản, loại bánh rờ vô thấy dẻo và ráo tay, không dính
tay, không thoa dầu (mùi dầu khiến phở bị hôi dầu). Phở xào thì có xào mềm và
xào dòn. Phở áp chảo thì có áp chảo khô, áp chảo nước. Nếu làm phở xào mềm thì
sau khi xắt, bánh phở được gỡ tơi ra, rắc một tí muối, trộn đều, bỏ bánh vào chảo
dầu thật nóng, tải mỏng ra, đảo nhanh tay cho bánh khỏi cháy. Khi sợi bánh săn
lại thì rắc hành hoa (phần trắng của cọng hành lá) xắt nhỏ, đổ ra đĩa, rồi mới
xào "người lái"đổ lên. Bánh phở xào dòn thì phải rắc đều bột năng vào
bánh phở, rũ cho tơi, không sợi nào dính sợi nào, rồi cho vào chảo dầu nóng, lật
qua lật lại cho vỏ dòn thì lấy ra đĩa ngay, rồi đổ "người lái" lên.
Phở áp chảo khô hay áo chảo nước thì cũng theo cách tương tự, chỉ khác là thời
gian áp bánh phở vô chảo lâu hay mau thôi, áp chảo nước thì áp mau, áp chảo khô
thì áp lâu. Áp chảo khô thì ăn khô, còn áp chảo nước thì vẫn phải chan nước
dùng như phở nước vậy. "Người lái" là thịt bò phi-lê xắt mỏng, to bản,
xào với cần tây, cà rốt, cà chua, gừng...
Gần đây, với thời "bung ra" và "phục
hưng" của phở, thì phở xào và áp chảo đã thấy xuất hiện ở vài tiệm như phở
Bắc Hải ở đường Nguyễn Du Q.1, phở Bình ở đường Lý Chính Thắng (Yên Đổ cũ) Q.3,
phở Dũng ở đường Trường Sơn (đường mới mở ở khu Tân Sơn Nhất, Tân Bình). Mấy
anh già Bê 54 bao năm không được ăn phở xào, phở áp chảo, rủ nhau đi ăn ở tiệm
được nghe đồn ngon nhất, là phở Bắc Hải Nguyễn Du (phải gọi như vậy để phân biệt
với hàng loạt phở Bắc Hải mọc lên ở một số đường phố khác). Đặc điểm của tiệm
này là đầu bếp và phục vụ (chạy bàn) đều là đàn ông, và bán với giá hữu nghị,
20 ngàn một đĩa ăn no. Tôi cũng đã ăn thử, nhưng tôi vẫn không tìm lại được
hương vị phở xào và phở áp chảo ngày xưa ở Hà Nội nữa, một phần do phở ngày nay
biến tấu búa xua, phần vì chính cái gu của mình có thể đã thay đổi từ hồi nào
mà chính mình cũng khó nhận ra.
Ăn phở - và ăn nhậu nói chung - mà chỉ có một mình cũng buồn,
sáng sớm tôi xách cái xế độp băng qua Cầu Kiệu, đến hú một anh già ở khu Cư xá
Nguyễn Cư Trinh, ngã tư Phú Nhuận, tính rủ qua phở Quyền bên kia ngã tư cháp một
tô, nhưng anh già ghiền phở này vốn ham của lạ, chuyên sưu tầm cái mới, lại rủ
đến ăn ở một gánh phở lề đường, và nói là chỉ mới xuất hiện ít lâu ở gần Hồ tắm
Chi Lăng, anh già còn quảng cáo là gánh phở này có mùi Hà Nội cũ. Tôi ô-kê cấp
kỳ, vì như đã từng thú nhận, hễ tôi biết tiệm phở, quán phở, gánh phở nào mới
xuất hiện là sẵn sàng đi thực tế ngay. Ông bán phở tuổi mới khoảng ngũ tuần,
góa vợ, là dân Ô Chợ Dừa, Hà Nội, nhập cư Sài Gòn mới được ít tháng, cho biết
là ông ta bán phở gánh ở Ô Chợ Dừa cả chục năm nay, kể từ sau ngày đổi mới,
nhưng đã đánh liều dẫn cô con gái duy nhất vô Sài Gòn, và khoe rằng ổng đã quyết
định đúng, vì một tuần bán ở Sài Gòn kiếm bằng cả tháng ở Ô Chợ Dừa. Quả thật,
mới sáng ra mà gánh phở của ổng đã đông khách, cô con gái xinh xắn tuổi mới đôi
mươi phụ việc cho bố như trần bánh, chan nước lèo, bưng phở cho khách... Ổng vừa
xắt thịt, rắc hành... vừa trò chuyện với anh già bạn tôi. Ổng mơ ước sau một thời
gian cần kiệm dành dụm, sẽ mở một quán phở nhỏ, và nhất định sẽ giữ vị đặc
trưng phở Hà Nội. Sau này thì không biết sao, chớ hiện giờ thì phở của ổng tuy
không ngon lắm - có lẽ tôi đã quá xa cái vị phở Hà Nội của gần 50 năm trước, mà
chỉ còn quá quen với phở Sài Gòn - nhưng quả là phở của ổng có khác phở Sài
Gòn, ít nhất là về mặt... hình thức, tức là không có giá sống, không có rau
thơm linh tinh, không có tương đỏ tương đen, mà chỉ có ớt trái, hành tây và rau
ngò. Khách phải ăn đứng nếu vài cái ghế đẩu quanh gốc cây lớn đã có người ngồi,
và dù đứng hay ngồi thì cũng một tay bưng tô, một tay cầm đũa vì không có bàn,
và phải kê tô vô miệng mà húp vì không có muỗng. Nhưng vừa ăn vừa ngẫm nghĩ thì
vị phở cũng thanh, không gây, không ngán.
Theo thông lệ, tôi là người đề xuất chuyện ăn phở thì tôi phải
trả tiền. Để đáp lại, anh già kéo tôi về nhà ảnh, chiêu đãi một cữ càphê cổ điển
“cái nồi ngồi trên cái cốc”, kèm vài điếu Ba Số mà lai rai chuyện phở. Anh bạn
này của tôi sính thơ lắm, đi đến đâu là thơ thẩn rơi vãi rông rổng đến đó,
nhưng toàn là thơ của thiên hạ không hà. Sáng ra có tô phở đấm mõm Ông Thần Khẩu,
thấy đời lên hương, ảnh bèn ư ử ngâm hai câu thơ sặc mùi phở:
Hương thơm trinh nữ? Ồ không phải!
Hương phở thơm đầy những sớm mai...
Gì chứ thơ với thẩn là tôi kÿ nhất, vì hổng khoái, hoặc... hổng
biết khoái thơ cao cấp bí hiểm, mà chỉ khoái thơ diễu, thơ cà chớn, đọc lên là
nó đi vào tận củ tỉ! Thành thử hai câu thơ này nghe qua giọng điệu thì cũng có
vẻ đường được, có vẻ thơ lắm, nhưng nghĩ lại thì có cái lấn cấn, bất ổn.
"Hương phở thơm đầy những sớm mai" thì được quá rồi, nhưng mà cứ như
giấy trắng mực đen thì làm sao lại có thể lẫn lộn "hương thơm trinh nữ"
với mùi... phở được nhỉ?
Anh già chỉ cười mỉm chi cọp, chê tôi ngu! Mà tôi ngu thật!
Mãi sau mới chợt hiểu ra, con gái nhà hàng phở thì người ngợm thơm mùi phở chứ
sao, cũng như cô hàng càphê thì thơm mùi càphê, cô hàng nhang thì thơm mùi
nhang, cô hàng mắm thì thơm mùi... mắm ấy mà. Vậy thì cô gái Bắc Kỳ xinh xắn tuổi
đôi mươi, con ông hàng phở hồi nãy, không phải là có cái "hương thơm trinh
nữ" quyện với cái "hương phở thơm đầy những sớm mai" hay sao!
Anh già này ghê thật! Hèn gì cứ rủ tôi đến gánh phở đó cho bằng
được, bỏ cả phở Quyền mà tôi với ảnh vẫn thỉnh thoảng tới ăn từ cả mấy chục năm
nay. Hiểu ra như thế, tôi lại cảm thấy... yêu hai câu thơ này mới chết chứ, bèn
hỏi là thơ của ai. Ảnh thú thật là không biết, nhưng lại thòng một câu:
"Hình như của... Tản Đà!" Tôi giãy nảy lên tức thì. Cái giọng điệu đó
rõ ràng là thơ sau này, không thể là thơ của thời tiền bán thế kỷ 20 được.
Ngoài ra, gì chớ về thơ Tản Đà, thì ai chớ ảnh đừng có cãi với tôi. Ngày xưa
ông bô tôi có 2 cuốn Tản Đà Vận Văn, Tập 1 và Tập 2, "cò-lếch-xông"
toàn bộ sự nghiệp thơ (văn vần) của Tản Đà, mà tôi từng đọc đi đọc lại rất nhiều
lần. Sách in giấy bổi vàng khè, nham nhám, chỉ có cái bìa là giấy cứng trắng trẻo,
ở giữa trang bìa của cả 2 cuốn đều có hình vẽ một người đàn ông gánh hai cái
thúng, đang bước đi, đầu đội nón lá sụp xuống che cả mặt, bên dưới có hàng chữ
"Gánh văn lên bán chợ trời". Từ lúc còn nhỏ xíu, tôi đã khoái cái
hình vẽ đó rồi. Thành thử đừng có cái gì cũng... đổ lên đầu ông Tản Đà! Lại nữa,
nói chuyện phở thì ai chớ ảnh cũng đừng có hòng cãi với tôi, vì tôi có cái tật
là làm "cò-lếch-xông" bất cứ chuyện gì liên quan đến phở, vì tôi
nghĩ, kẻ mê phở cũng nên rành chuyện phở, còn không thì chẳng khác gì nhà văn
mà... mù Văn học sử vậy!
Không phải chỉ riêng anh già bạn tôi nghĩ hình như hai câu
thơ phở đó là của Tản Đà, mà thậm chí trước đây còn có kẻ tung ra giả thuyết
cho là chính ông Tản Đà đã đem món phở của Miền Bắc vào Sài Gòn. Giả thuyết này
dựa vào câu chuyện của những năm tháng Tản Đà cùng Ngô Tất Tố lang thang vào
Nam Kỳ cộng tác với ông Diệp Văn Kỳ làm báo Đông Pháp Thời Báo. Có lần ông thần
ngông kiêm con sâu rượu này từng chơi chữ: "Đất say đất cũng lăn quay, Trời
say mặt cũng đỏ gay ai cười?" - đã cao hứng cạy gạch sân nhà, cuốc đất lên
trồng húng giũi để ăn bò tái, bê thui, trồng húng quế để ăn tiết canh, thịt chó
(cho nên ngoài Bắc mới gọi húng quế là húng tiết canh, hoặc húng chó)... Rồi một
buổi chiều lạnh lẽo hiếm hoi của Sài Gòn, ông đã tự nấu phở để chiêu đãi bạn
bè, ai ăn cũng khen ngon. Từ đó, món phở dần dần được phổ biến rộng rãi! Yêu phở
và yêu Tản Đà đến mức gán cho ông cái công lao đem phở từ Bắc vào Nam thì cũng
thông cảm được đi, vì có người còn yêu phở như yêu người tình nữa kìa. Khiếp lắm!
Một nhà văn B75 lớn tuổi từng viết về "tình yêu phở" của mình:
"Những ngày trong lòng buồn vui không rõ rệt, tự nhiên người ta lại thấy
thèm một tô phở với lòng dạ nôn nao, với cảm giác như nhớ người yêu đã hẹn mà
nàng không đến". Ối dzời! Lại thêm một ông cột phở với đàn bà!
Thật ra, phở chỉ mới có mặt ở Sài Gòn từ thập kỷ 40, và chỉ
gần đây người ta mới tìm ra một chứng nhân của Phở. Đó là bà cụ Trần Thị Năm,
nay mới... ngoài 80 tuổi xuân, lưng còng, tóc bạc phơ, ở số 63/5 trong Hẻm
Pasteur, sau rạp hát Vinh Quang. Bà kể:
“Từ năm 1942, ông bác của tôi là cụ Kỉnh từ làng Vân Đình
(Hà Đông) vào Sài Gòn lập nghiệp. Ông bán gánh Phở Bắc trên đường Lagrandière
(Gia Long cũ, nay là Lý Tự Trọng). Mãi đến năm 1949 mới chuyển về đây mở xe phở,
tôi còn nhớ lúc đó mỗi tô chỉ có 2 xu, tô đặc biệt 3 xu. Sau đó cụ Kỉnh truyền
nghề cho cụ Minh, là anh ruột tôi. Thuở ấy phở Bắc không có giá sống và các loại
rau lung tung như bây giờ, nhưng vì khẩu vị của người Sài Gòn nên chúng tôi phải
chiều theo”.
Ông An - con của cụ Minh - nay là chủ nhân Phở Minh, cho biết
ngày xưa ở trong hẻm này có cả loạt quán phở mọc lên, nhưng nay chỉ còn một
mình gia đình ông “trụ” lại được. Khoảng thập kỷ 1950, các văn nghệ sĩ, chính
khách Miền Nam nườm nượp đến đây bất kể ngày đêm. Hồi đó ai mà không mê phở
trong Hẻm Pasteur này. Trong số những thực khách, có lẽ ông Trần Rắc - chủ tiệm
giầy trên đường Espagne (Lê Thánh Tông ngày nay) mới thật sự là người có tâm hồn
thi sĩ nhất, không kết hợp thơ với... giầy, mà lại kết hợp thơ với phở. Vì
khoái phở Minh mà ông đã sáng tác bài thơ tứ tuyệt tặng chủ quán để treo trong
quán chơi:
Nô nức đồn vang khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn
Gia vị: tương, rau, ớt, mắm, chanh.
“Thơ Phở” như vậy cũng là đạt rồi, nhất là biểu lộ được cái
tâm trạng yêu phở, mặc dù hơi có vẻ... quảng cáo tiếp thị!
Không hiểu ông bà khuất mặt khuất mày nào xui khiến mà tự
dưng bữa nay tôi lại nổi hứng, nói nhiều về phở đến thế, chả còn nhiều giấy để
nói về những món khác của một Sài Gòn ở vào đầu thiên niên kỷ mới. Hồi trước
1975, ở Sài Gòn có Câu đối phở của ông “thợ sắp chữ” Thầy Khóa Tư như vầy, ông
này thì chỉ là.... thợ sắp chữ thôi, chớ không có tâm hồn thi sĩ như ông chủ tiệm
giầy:
Tái chín nạm giò vè, tiêu ớt rau thơm giá sống
Sách gầu gân mỡ sụn, tương chanh nước béo hành trần.
Ông này chắc phải là tín đồ của phở nên mới cảm khái mà sắp
chữ như thế. Về mặt kỹ thuật thì cũng được đi, nhưng về nội dung thì có người
chê phở này không phải là phở Bắc chính cống, vì có cả giá sống, nhưng bớt quá
khích một chút thì hiểu đây là Phở Việt Nam, không còn phân biệt Nam hay Bắc nữa,
vì dân Bê75, Bê90, Bê2000 hay B gì đi nữa thì vô Sài Gòn cũng ăn phở với giá sống
như điên, còn xét về mặt lịch sử thì câu đối này cũng có thể được coi là một bằng
chứng "mang tính văn hóa" trong một giai đoạn lịch sử của phở vậy.
Thơ Phở và Câu đối Phở này cũng góp phần đưa phở vào văn học
nước nhà, vì trước kia mới chỉ có vài bài tiểu luận về phở của mấy ông nhà văn
tiền chiến thôi, mà tôi kêu đại là "văn phở". Vũ Bằng, tác giả “Miếng
Ngon Hà Nội” từng mô tả:
“Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở như
thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của
gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt. Thỉnh thoảng lại thấy thơm
nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu
cái thơm của thịt bò tươi và mềm, rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước
dùng cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực…”
Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” thì mô tả cảm giác
về phở:
“Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt
lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái
nhợt thắm tươi lại...”
Còn "cây" truyện ngắn Thạch Lam thì bình luận:
“Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo
mà không nát, thịt mỡ gầu dòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả
còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa”.
Gần đây thì một ông nhà văn nhà báo Hà Nội nhập cư Sài Gòn -
cũng có cái tật cột phở vô đàn bà, thậm chí còn coi phở như vợ mình - khi bình
luận về phở cũng khẳng định phở ngon thì nước phở phải trong:
“... Người thủy chung với phở bao giờ cũng muốn nhìn tô phở
nước trong, giống như người đàn ông trung thành với vợ, chỉ muốn nhìn ngắm nàng
trong nét đẹp chính chuyên, không son phấn. Phở cũng vậy. Chẳng có người sành
điệu nào lại nỡ tàn nhẫn đến độ cho cả tương đen lẫn tương đỏ vào tô phở của
mình cả. Màu sắc ấy không phải là sắc màu cổ điển của tô phở đã định hình từ
bao thập kỷ nay”.
Cung cách ăn phở thì vẫn còn là vấn đề tranh cãi, ăn thua
quan niệm và khẩu vị của từng người. Một ông nhà văn Nam Kỳ là Trang Thế Hy thì
trong lúc nói chuyện phở với bạn bè, đã nghĩ sao nói vậy theo kiểu phổi bò ruột
ngựa, phang một câu... dễ xa nhau:
“Tao là dân Nam Kỳ chánh gốc, vô quán phở, thấy tô phở nước
trong khá đẹp, hấp dẫn, vậy mà có cha dzọng vô cục tương đen, ngó hết muốn ăn!”
Một số "phở gia" lại còn bàn rằng ăn phở thì ăn
vào thời điểm nào mới tuyệt ngon? Ăn lúc sáng sớm thì đã đành là ngon rồi, hầu
như đa số dân mình thường ăn phở lúc sáng sớm, bắt đầu một ngày làm việc, coi
như bữa ăn sáng, bữa lót lòng. Nhưng có người lại cho rằng ngon nhất vẫn là lúc
khuya khoắt "nửa đêm giờ Tý trống canh ba", thả bộ lang thang trên đường
phố, bụng đói, là đà con nhạn trong men say lẫn buồn ngủ mà lơ mơ nhớ lại những
phiền muộn trong ngày, những bất hạnh trong đời, lúc đó mà "chơi" một
tô phở nóng thơm lừng thì sẽ thấy tỉnh hẳn, tỉnh như cái con sáo sậu, để rồi lại
thấy yêu đời như... thường lệ! Cũng vì lý do đó mà trong cái phong trào ăn
khuya - đang trở thành thói quen của dân Sài Gòn hiện nay - phở vẫn là món được
chiếu cố đông đảo.
Nhà văn nhà báo người ta mới dám bình loạn linh tinh các cái
như thế, chứ tôi đâu là cái thá gì, lại bất tài vô tướng, cho nên hổng dám bàn ẩu
về cung cách ăn phở của người khác, quyền tự do của người ta mà, miễn sao người
ta ăn thấy ngon thì thôi, mặc kệ người ta, mình cứ ăn theo cách của mình, tại
sao lại chỉ trích người ta, bắt người ta phải giống mình? "Không gì quý
hơn độc lập tự do" mà! Ông bô tôi ăn phở kiểu Bắc Kỳ cổ điển, cho nên từ
lúc di cư năm 1954 cho đến lúc ăn phở.... cúng, không bao giờ ăn loại rau thơm
nào khác rau mùi (ngò) với lý do ngò là rau của phở, húng quế là của tiết canh
và thịt cầy, húng giũi là của bò thui bê thui, kinh giới là của bún riêu, tía
tô là của ốc ếch v.v...
Đời tôi còn đỡ, chớ đời con tôi thì rau gì tụi nó cũng
"phang" tá lả, chả còn theo sách vở gì ráo trọi. Con gái lớn của tôi
năm nay 41, tâm sự với tôi: "Tiệm phở nào không có ngò gai thì đừng có
hòng con vô!". Nhiều lúc nghĩ cũng sợ là cha con tôi làm tủi vong linh ông
cụ! Nhiều quán phở Sài Gòn bây giờ dọn ra đủ loại rau thơm, có nơi còn có cả
rau xà lách nữa! Từ Bắc di cư vào Nam, phở đã nghiêm túc thực hiện nhuần nhuyễn
câu tục ngữ “nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, chẳng những có đủ rau thơm
các loại, kể cả rau dấp cá, ngò gai, ngò om (là những thứ rau của canh chua Miền
Nam)... mà còn cả giá sống (của hủ tiếu) nữa, giống như mảnh đất Miền Nam rộng
mở vòng tay đón nhận dân nhập cư từ khắp miền đất nước, cũng như dễ dàng như đồng
hóa mọi khác biệt văn hóa vậy.
Tuy nhiên đến nay vẫn còn một quán phở giữ đúng hương vị Bắc.
Ấy là Phở Bà Dậu, người Nam Định, ở cuối Hẻm 288 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công
Lý cũ). Giới sành ăn gọi là phở Cây Trứng Cá, vì từ năm 1950, ở trước quán có một
cây trứng cá lớn. Cách gọi tên dễ nhớ như vậy rất quen thuộc ở Sài Gòn - Mì Cây
Nhãn, Mì Cây Gõ - chẳng hạn. Trải qua bao hưng phế tang thương, cây trứng cá
không còn, bà Dậu cũng trở thành "người muôn năm cũ", con trai bà là
ông Bình nối nghiệp nhà, cho nên dù quán không có bảng hiệu, người ta cũng có
thể gọi là phở Ông Bình, hoặc phở Lâm cũng không sao, vì anh chàng tên Lâm là
người thâu tiền. Ở quán phở này, từ trước 1975 và đến cả bây giờ, người ta đã gặp
khá nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, nhà thơ nhà văn nhà báo... Ở đây bánh phở sợi nhỏ, mềm
nhưng không nát. Nước lèo đậm đà cái vị ngọt thanh, dịu, của xương và tủy bò hầm
rục, chứ không phải của bột ngọt, của đường. Các loại thịt nạm, gầu, sụn, gân,
giò, vè, nạc... đâu ra đó. Không có bất cứ loại rau gì kèm theo, chỉ có hành
tây và những cọng hành trần.
Yếu tố hấp dẫn của bất cứ quán ăn nào cũng không chỉ là cách
nấu món ăn, mà còn là cung cách phục vụ, hiểu ý khách. Hồi thời bao cấp, cửa
hàng ăn uống còn là của nhà nước, từ anh chạy bàn đến cô thâu ngân bán phiếu đều
là cán bộ, thực khách xếp hàng mua phiếu vô ăn bị coi như đi ăn xin, nay thì lại
quay 180 độ cái rẹt, trơ trẽn tôn xưng khách hàng là "thượng đế"!
Nhưng ở quán phở Minh và phở Bà Dậu thì khác, trải bao vật đổi sao dời mà thời
nào cũng vậy, khách chỉ đến quán vài lần là chủ quán biết ngay cái gu ra sao,
và còn nhớ mặt. Sài Gòn hiện nay có cái nạn tốn tiền gửi xe khi đi ăn uống -
nhiều khi gửi rồi mà vẫn mất xe như thường - nhưng nơi đây gửi xe không mất tiền,
có người trông coi chu đáo. Nếu là khách quen thì cứ việc lững thững bước vào,
thong thả ngồi xuống ghế. Không cần lên tiếng gọi, chỉ sau khoảnh khắc, một tô
phở đúng ý được ân cần bưng ra, đặt nhẹ nhàng ngay trước mặt, khói nghi ngút
thơm điếc mũi. Người đến ăn tưởng mình không phải đến quán, mà có cảm giác như
ăn ở nhà người bạn thân vậy.
Cái gánh phở mới xuất hiện trên lề đường Chi Lăng Phú Nhuận
nói ở đầu thư khiến tôi nghĩ đến những người ngày xưa từ Bắc vô Nam chỉ có gánh
phở trên vai, mà rất tự tin rời bỏ quê nhà đi lập nghiệp. Một gánh phở dựng
lên, rồi truyền nghề lại cho con, cho cháu. Và cũng chính nghề ấy đã tạo cho
con cháu họ một hiện tại, một tương lai như ngày nay. Con cháu họ hôm nay học
lên Đại học, du học ngoại quốc, đi khắp năm châu bốn biển cũng chỉ bắt đầu từ một
gánh phở của ông cha. Chính ông Minh, ông An đã tự hào khi tâm sự với khách như
thế. Chắc chắn còn có nhiều người bán phở cũng tự hào như thế.
Nhưng phở Hòa thì lại là trường hợp ngoại lệ - ngoại lệ đến
cái độ tréo ngoe - vì chủ phở Hòa sau này lại là người Miền Nam, nhưng vẫn tự
hào phở Hòa của mình mới là "phở Hòa gin" (từ tiếng Pháp
"origine" - nguyên chất, nguyên gốc). Số là khoảng những năm 1950, có
một người Bắc di cư vào ở Xóm Mới (Gò Vấp), tên là Hoánh, không rõ họ gì. Cứ
vào lúc xế chiều, ông Hoánh đẩy xe phở đến vỉa hè Ngả tư Pasteur - Hiền Vương
(Võ Thị Sáu bây giờ), bày ra vài cái bàn và ghế đẩu, bán cho khách ăn tối, ăn
khuya. Xe phở ấy có tiếng là ngon với nước lèo trong và ngọt, bánh phở mềm, có
đủ loại thịt theo ý khách. Do đó, tuy là xe phở vỉa hè nhưng khách ăn rất đông,
nhất là dân chơi khuya từ các hộp đêm, vũ trường ra thường coi xe phở ông Hoánh
như điểm hẹn cuối cùng. Để khách dễ nhận diện mà tìm đến, ông Hoánh nghĩ là phải
có một bảng hiệu nhỏ treo ở xe phở của mình, nhưng không biết đặt tên gì cho dễ
nghe, vì cái tên Hoánh của ông nó kỳ cục quá, ông bèn chọn cái tên Hòa, chẳng
có liên quan gì tới ông, có thể chỉ vì cái tên Hòa nghe nó có vẻ... hiền hòa mà
thôi. Từ đó xe phở ông Hoánh có tên phở Hòa.
Theo lời kể của bà Cao Thị Xiêm, chủ tiệm phở Hòa hiện nay,
thì công thức nấu phở từ xe phở Hòa ông Hoánh đến phở Hòa Pasteur ngày nay vẫn
không có gì thay đổi. Chẳng những lưu truyền công thức, mà cả cái tên Hòa cũng
đứng vững cả nửa thế kỷ. Điều tréo cẳng ngỗng là bà Xiêm lại chẳng có họ hàng
bà con hoặc dây mơ rễ má gì với ông Hoánh cả. Bà là dân Nam Kỳ rặt, quê ở Trà
Vinh, còn ông Hoánh là dân Bắc Kỳ "ri cư". Nhưng duyên số lại sắp xếp
bên cạnh xe phở ông Hoánh có xe nước mía ăn theo của ông Phan Anh Ngoạt - dượng
của bà Xiêm. Khi đó vợ chồng cô và dượng của bà Xiêm ở Sài Gòn không có con, mới
nhận đứa cháu gái tên Xiêm từ Trà Vinh lên làm con nuôi. Ông Hoánh bán phở được
một thời gian thì đổi nghề qua chạy xe, nuôi chim cút... và xe phở được chuyển
sang cho ông Ngoạt. Ông Ngoạt vẫn giữ nguyên tên phở Hòa, giữ nguyên cả cách nấu
phở và khách hàng quen thuộc. Sau thì ngày một khá giả, xe phở trở thành tiệm
phở Hòa đường Pasteur, đứa cháu gái làm con nuôi trở thành bà chủ. Sau 1975,
ông Hoánh ra định cư ở nước ngoài, vợ chồng ông Ngoạt cũng ra người thiên cổ.
Trong cái dòng hợp lưu Nam-Bắc ấy, không biết từ bao giờ phở
Bắc đã biến thành phở Sài Gòn. Trước hết là sự thay đổi phẩm chất và mùi vị của
nước lèo. Phở Bắc chính cống thì nước lèo chỉ là nước hầm xương bò đã lóc hết
thịt, hớt bọt rất kỹ. Còn nước lèo của phở Sài Gòn thường cũng được hầm từ
xương bò, nhưng lại bỏ thêm tai vị, tôm khô, mực khô, nhiều nơi còn nện cả....
củ cải vô! Vì thế phở Bắc thường hơi gây gây mùi bò, còn phở Sài Gòn thường bị
gia vị phụ lấn mùi. Nhưng phở Hòa thì khác, không Bắc rặt mà cũng chẳng lai
Nam, mà là phở Việt Nam. Bà Xiêm cho biết phở Hòa không được hầm từ xương, mà từ
mỡ, tủy, và gân bao quanh các tảng thịt (mà bà gọi là "da tái"), và
cũng được hớt bọt rất kỹ. Vị ngọt của nước lèo phở Hòa là thứ ngọt thanh, không
còn gây mùi bò. Một số thực khách, kể cả du khách ngoại quốc, vào tiệm có khi
chỉ cần ăn phở "không người lái" (không có thịt) là đủ. Ngoài cái ngọt
của nước, cái mềm của thịt, và nhất là mùi thơm của cả nước lèo lẫn các loại thịt
chín, phở Hòa ngày nay còn quyến rủ người ăn bởi ưu điểm sạch sẽ, đầy đủ rau,
giá, tương, ớt, nhất là tác phong chiều khách của các nhân viên phục vụ. Yêu cầu
của khách được đáp ứng rất nhanh. Muốn ăn tái, chín, gầu, giò, vè, sách, nạm,
gân... đều có đủ. Người ăn cũng có thiện cảm với những lát chanh mọng nước xắt
khéo, những khoanh ớt tươi đầy ụ trên đĩa do chính bà chủ cầm dao xắt hằng
ngày. Chính cái mùi thơm, cái vị ngọt mềm thâm niên trên 40 năm trong nghề phở ấy
đã tạo nên một sự nghiệp vững vàng. Cái nồi phở liu riu hằng ngày ấy đã nuôi sống,
rồi làm giàu cho một gia đình gồm vợ chồng với 6 đứa con (4 trai, 2 gái) nay đều
thành đạt. Một cậu đã ra trường là Kỹ sư Điện tử, 2 cậu đang học Công nghệ
Thông tin ở Úc, một cậu đang học Đại học Bách Khoa, 2 cô con gái đang học Nghiệp
vụ Du lịch.
Kể từ khi đất nước đổi mới, phở Hòa càng đông khách nhờ người
dân Sài Gòn bắt đầu kiếm ra tiền, cuộc sống ngày càng khá hơn, Sài Gòn cũng
ngày càng xuất hiện nhiều du khách ngoại quốc hơn, chính quyền thành phố thấy
có ăn, bèn đòi... liên doanh với phở Hòa, bà Xiêm cũng thấy liên doanh là có lợi
cho cả đôi bên, cho nên giờ đây phở Hòa đã trở thành một doanh nghiệp liên
doanh nhỏ với 20 nhân viên, công nhân, và đã trở thành địa chỉ ẩm thực quan trọng
trong các cẩm nang du lịch của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... đồng thời còn được
giới thiệu trên các báo chí ở Mỹ, Úc... Cô Phương Châu - Kế toán viên của Công
ty Cổ phần Du lịch Quận 3, là đơn vị nhà nước liên doanh với phở Hòa - cho biết,
hằng ngày có đến 600-700 thực khách đến với phở Hòa, trong đó có nhiều khách nước
ngoài. Phở Hòa đóng thuế cho nhà nước 25-26 triệu đồng mỗi tháng, con số không
nhỏ. Tên “Hòa” cũng được "đăng ký sở hữu công nghiệp"để chống cạnh
tranh không lành mạnh, chống kiểu "hàng dỏm, hàng nhái"đang xuất hiện
lia chia trên thị trường hiện nay. Lý do là cách nay khá lâu, trên một số tờ
báo ở Sài Gòn có một dạo đăng quảng cáo “Phở Hòa đã dời về đường An Dương
Vương, gần chợ An Đông”, báo hại khách đến phở Hòa ăn đều hỏi tới tấp, hóa ra
phở Hòa An Đông là phở Hòa dỏm, không phải là phở Hòa Pasteur. Mặc dầu đã
"đăng ký thương hiệu", nhưng bà Xiêm cũng chẳng kiện tụng gì - vô phước
đáo tụng đình mà - cứ để thực khách làm "quan tòa". Một tiệm phở khác
mở kế cận phở Hòa lấy tên là phở Hoa (không có dấu huyền). Nhưng chỉ thời gian
ngắn, thực khách đã phân biệt Hòa thật với Hòa dỏm, Hòa nhái! Hai tiệm phở dỏm
và nhái đó ế ẩm, phải dẹp tiệm! Chuyện ăn uống thì trăm người trăm ý. Không phải
ai cũng khen phở Hòa, nhất là những thực khách gốc Bắc vào Sài Gòn sau này, vốn
chỉ quen với phở Bắc, nhưng hầu hết giới sành ăn ở Sài Gòn trước 75 - nhiều người
từng ăn phở Hòa từ lúc còn là xe phở vỉa hè, nay tuổi hạc đã cao - vẫn là những
thực khách trung thành.
Dù bà Xiêm có kiện phở Hòa dỏm ở Sài Gòn thì cũng khó lòng
kiện được phở Hòa dỏm ở nhiều nước hải ngoại, mà ra hải ngoại để mở phở Hòa Thiệt,
bà cũng chẳng ham. Cùng với mấy triệu người Việt sống ở hải ngoại, mùi phở VN dần
dần bay xa khỏi biên giới đất nước. Đã có nhiều Việt kiều từ Mỹ, Nhật, Đài
Loan, Hàn Quốc... gửi lời mời với lương bổng, lợi tức hấp dẫn để bà Xiêm qua nấu
phở, nhưng bà từ chối. Cũng có người hỏi, sao không mở rộng kinh doanh phở Hòa
ra thành một hệ thống gồm nhiều chi nhánh như Phở 2000 chẳng hạn, bà Xiêm cho rằng
phải biết lượng sức mình, thành công của phở Hòa nhờ ở phẩm chất, nếu mở ra nhiều
địa điểm sẽ không có người trông coi, phẩm chất kém đi sẽ mất uy tín, vả lại
căn tiệm bề thế hiện nay - có thể gọi là "Nhà hàng phở " - phục vụ một
lần tới 150 thực khách là đã "quá đạt yêu cầu" của bà rồi, bà không
quá tham lam, lại đã lớn tuổi, con cái đều thành đạt, bà không ước mong trở
thành đại phú. Trong khi bà chủ phở Hòa “chánh hiệu Bà Lang Trọc” trên đường
Pasteur bằng lòng với cái tiệm phở duy nhất ở Sài Gòn có tới 600-700 lượt khách
mỗi ngày của mình và phát triển dưới hình thức liên doanh với nhà nước, thì bà
không thể biết hiện nay trên đất Mỹ và các nước khác trên thế giới có bao nhiêu
tiệm phở, lý do dễ hiểu là các tiệm phở ấy không hề có liên hệ bà con thân thuộc
gì với bà, có chăng là cùng họ Hồng Bàng. Trên thực tế, tất cả những tiệm phở
Hòa hải ngoại đều là phở Hòa dỏm, cũng như những tên gọi phở Công Lý, phở Hiền
Vương, phở Pasteur... ở hải ngoại chỉ được dùng để đánh vào lòng hoài niệm của
kẻ tha hương.
Tất nhiên là về tình hình phở hải ngoại thì tôi mù rồi,
nhưng may là ngày nay nước ta văn minh tiến bộ lắm, ngon lành lắm, nhiều tờ báo
có phóng viên thường trực ở nhiều nước trên thế giới - đến cả cái nước
Áp-Gha-Nít-Tăng ở mãi tận hóc bà tó kia mà cũng có phóng viên VN ăn dầm ở dề để
hằng ngày gởi tin tức bài vở về nước nữa là - cho nên tôi cũng như đông đảo dân
Sài Gòn ngày càng được biết nhiều về sinh hoạt của người Việt hải ngoại, kể cả
những chuyện khó tin nhưng có thật.
Chẳng hạn một bài báo kể rằng ở Cali có ông Y sĩ tốt nghiệp
Đại học Y khoa Cali đã bỏ nghề cứu nhơn độ thế để mở tiệm phở, bây giờ có đến 5
tiệm lớn, kiếm tiền còn bộn hơn nghề y sĩ nhiều. Có điều, bề thế nhất vẫn là hệ
thống phở Hòa ở Mỹ. Hồi năm 1999 là thời điểm phở tại Việt Nam khủng hoảng vì
cơn sốt phọt-môn, thì bên ngoài Việt Nam, phở đã vươn về tới Á Châu, đến tận
Hán Thành. Rồi một nhà báo Sài Gòn đi dự SEA Games 19 ở Indonesia, lang thang
các đường phố thủ đô Jakarta, đã bất ngờ gặp cái bảng hiệu phở Hòa ở một tiệm
phở. Chủ quán phở người Indonesia cho biết đã học nấu phở từ một tiệm phở Hòa ở
California. Về Jakarta mở tiệm phở, ông ta đã trương bảng hiệu tiếng Việt, chỉ
vì yêu món ăn VN này và muốn giới thiệu với đồng bào của ông, chớ đào đâu ra
khách người Việt ở Jakarta! Hương Cảng cũng có một tiệm phở mà ông chủ là
...người Tàu chưa từng đặt chân đến VN v.v...
Trong khi bà chủ phở Hòa Pasteur chẳng thiết đem cái thương
hiệu của mình ra kinh doanh thêm để trở thành đại phú, cũng chẳng thưa kiện ai,
thì phở Hòa (dỏm) ở Mỹ đang bành trướng để hốt bạc. Phóng viên VN ở California
gửi bài viết về Sài Gòn cho biết, từ năm 1983, quán phở Hòa đầu tiên mở tại San
Jose, đến năm 1995, Công ty Aureflam - sở hữu chủ thương hiệu phở Ḥa tại
California và phở Công Lư tại Texas - đã mở cả thảy 41 tiệm phở tại Mỹ, Gia Nã
Đại, Đại Hàn... trong đó phở Công Lý có 5 tiệm. Người mở tiệm phở, muốn lấy
thương hiệu phở Hòa hay phở Công Lý thì phải trả tiền tác quyền 12.500 USD...
Ôi, đã chôm thương hiệu của người ta để hốt bạc túi bụi, rồi còn đem bán lại
búa xua như vậy, sao mà khéo kinh doanh thế không biết!
Cuối cùng thì phở Hòa Pasteur vẫn không sợ hệ thống dây chuyền
Phở 2000 của ông Việt kiều Mỹ Huỳnh Trung Tấn cạnh tranh, mặc dầu hệ thống này
được tổ chức kinh doanh theo kiểu Mỹ, có những địa điểm tốt, những cơ sở bề thế.
Bởi vì tôi cũng như nhiều dân ghiền phở ở Sài Gòn đều "nhất trí cao"
với nhận xét của một ký giả nào đó, rằng Phở 2000 chỉ là "phở cao
giá" mà không phải là "phở cao cấp", dành cho những kẻ dư tiền,
muốn "tự khẳng định", chớ chưa chắc đã là những địa điểm thu hút người
sành phở.
Hồi cuối năm 2000 thì ông Tổng thống Mỹ Lin-Tơn đã đến với
phở Sài Gòn. Rời phố đồ cổ vào lúc 11g45 phút trưa, cha con ông Lin Tơn vào tiệm
"Phở 2000" tại Cửa Tây Chợ Bến Thành, ở số 1 và 3 đường Phan Chu
Trinh. Tất nhiên là trong chuyến đi của ông, từ một chi tiết nhỏ cũng được sắp
xếp trước, và chính quyền thành phố chọn món phở cho ông thưởng thức là rất
đáng hoan nghênh. Ở Hà Nội đã bị xem kịch Tây, vào Sài Gòn mà lại bị chiêu đãi
bít-tết hay bánh bi-dzà thì thảm lắm! Còn tại sao Phở 2000 được chọn, thì lý do
rất giản dị - đây là tiệm phở lớn nhất, sạch nhất, văn minh nhất Sài Gòn, chứ
chưa hẳn là ngon nhất.
Tôi mới chỉ vô ăn phở ở tiệm này được 2 lần, phần vì xa nhà,
đường phố khu trung tâm lại kẹt xe thường xuyên, phần vì phở ở đây cũng chẳng
có gì thật xuất sắc, không phân biệt được với những tiệm phở ngon khác, giá tiền
lại mắc hơn chút đỉnh, nói tóm lại là Phở 2000 chưa "tự khẳng định"được.
Tôi là tín đồ đạo Phở, mê phở từ lúc chưa mọc răng. Bà bô
tôi kể lại rằng hồi tôi được 7-8 tháng, cho ăn bột mà rất lười ăn, nhưng một lần
ông bô tôi gọi phở gánh đi ngang cửa nhà ở đường Hiền Vương (phố Montgrand cũ)
Hà Nội, tự nhiên bà bô tôi nảy ra sáng kiến là hòa thêm chút nước phở vô bát bột
rồi xúc cho tôi ăn, thế là thằng bé cứ há mồm ra mà ăn lấy ăn để. Lớn lên, tôi
giống ông bô tôi ở chỗ chọn phở, không chọn tiệm, bởi thế bố con tôi mới sáng
sáng cất công từ đường Hiền Vương, gần hồ Thuyền Quang (Hồ Halais) mò lên tận
phố Hàng Vôi để đứng sắp hàng ăn phở gánh Hàng Vôi ngoài vỉa hè, gần Ấu Trĩ
Viên Hà Nội.
Với Sài Gòn hôm nay, Phở 2000 thì sang nhất rồi, đẹp nhất rồi,
sạch nhất rồi, cách sắp xếp, tổ chức cũng nhất, cái gì cũng nhất, kể cả trẻ nhất,
nhưng phở thì chưa ngon nhất. Tiệm chưa "tự khẳng định"được, chỉ có
khách vô Phở 2000 là để "tự khẳng định", vì toàn là dân sang, ngồi xế
hộp, giá chót cũng cỡi Dream xịn, giắt theo điện thoại di động. Ăn Phở 2000 là
"tự khẳng định" thành phần xã hội. Thành thử sắp xếp cho ông Lin-Tơn
vô Phở 2000 cũng là đúng thôi, vì Phở 2000 là "phở quý tộc", với nhà
bếp sạch bóng, tổ chức kiểu Mỹ, nhân viên trên dưới đều mặc đồng phục đẹp mắt,
nhân viên nhà bếp thì ngoài đồng phục còn đội nón vải trắng tinh để bịt tóc
v.v...
Cách nay không lâu, hồi tiệm phở này mới khai trương, tôi đã
có hẳn một chuyên đề phở báo cáo bạn hiền rồi, dịp này, cũng xin bổ sung chút đỉnh.
Phở 2000 mới chỉ được thai nghén... tình cờ gần đây thôi. Người sáng lập là ông
Huỳnh Trung Tấn, tuổi ngoài 40, cái tuổi đẹp nhất để lập sự nghiệp. Gia đình
ông Tấn qua Mỹ từ năm 1975, kinh doanh nhà hàng, và ông Tấn cũng là một trong
những Việt kiều Mỹ trở lại VN sớm sủa nhất. Từ năm 1989 đến nay, ông đã lần lượt
sáng lập nhiều nhà hàng lớn theo thể thức liên doanh ở Sài Gòn như Le Mekong,
Vietnam House, Blue Ginger, Lemon Grass v.v... với mục đích là giới thiệu các
món ăn VN với người ngoại quốc trong khung cảnh văn hóa VN.
Ông Tấn kể rằng trên chiếc Boeing của Hàng không Tân Gia Ba
cất cánh từ Cựu Kim Sơn (San Francisco) trong một lần trở lại VN, ông say sưa đọc
cuốn hồi ký tựa đề Starbucks Coffee - mà cô em gái tặng ông ở phi trường San
Francisco - nói về chuyện làm ăn của tác giả trong lãnh vực mở quán càphê. Tự
nhiên ông nghĩ rằng phải làm ăn theo kiểu Starbucks, như kiểu McDonald, Burger
King, KFC, nghĩa là đi theo mô thức phát triển hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh,
tức là làm franchise. Tôi đâu biết "phen-chai phen-lọ" là cái quái
gì, nhưng ký giả Thục Đoan giải thích là "một công ty cho phép công ty
khác sử dụng công nghệ và nhãn hiệu nổi tiếng của mình để kinh doanh". Có
điều khác ở chỗ, thức ăn nhanh ở đây không phải là ổ bánh mì Bưu Điện, mà là tô
phở VN. Do đó ông Tấn quyết định thành lập "Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Phở
2000" với số vốn luật định là 500 triệu đồng VN. Mục tiêu ngắn hạn là sẽ mở
5 tiệm Phở 2000 tại Sài Gòn, một số tiệm ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang...
Hiện nay Phở 2000 đã đăng bộ độc quyền nhãn hiệu trong nước và ở nước ngoài. Dự
trù là nay mai Phở 2000 sẽ có những tiệm đầu tiên ở Tân Gia Ba, Hương Cảng, và ở
cả bên Mỹ nữa.
Một hệ thống phở tầm cỡ như thế mới xứng đáng đón tiếp cha
con ông Lin-Tơn. Cha con vô tiệm thì dân chúng lại tụ tập đón chờ bên ngoài, chờ
ổng ăn xong đi ra để được... bắt tay! Trong đám đông có 3 thiếu nữ xinh tươi, bận
đồ vía như ngày hội, là Nguyễn Kim Thanh, Nguyễn Kim Oanh, và Vũ Phương Lan,
xôn xao bàn tán chỉ trỏ. Từ dưới đường, người ta có thể thấy rõ bố con ông
Clinton ngồi ăn tại một cái bàn gần cửa sổ. Các cô cho biết từ 8g30 phút sáng
đã đứng đợi ở phía Tòa Đô Chánh cũ, vì theo chương trình Tổng thống Clinton sẽ
ghé đây để gặp các nhà doanh nghiệp Mỹ gốc Việt, nhưng các cô không biết là buổi
chiều mới đến mục đó. Cô Phương Lan xuýt xoa:
“Bọn em cố đến sớm, xếp hàng đầu tiên sát hàng rào, hy vọng
sẽ được bắt tay... “Anh Bill” (?)”.
Ối dzời! "Anh Biu"đào hoa mà ở lại Sài Gòn ít ngày
nữa thì cô Phương Lan cũng như khối cô gái Sài Gòn khác sẵn sàng làm những
"Monica made in Saigon" ngay thôi! Sau một tiếng đồng hồ ăn uống, anh
Biu ra cảng Tân Thuận để gặp gỡ một số nhà doanh nghiệp Mỹ. Ngay sau khi ảnh đi
khỏi, không khí tiệm Phở 2000 nhộn nhịp, tưng bừng quá cỡ, cứ là vui còn hơn Tết.
Bà chủ Nancy Le (họ Lê) là Việt kiều Los Angeles, về làm ăn ở Sài Gòn từ 5 năm
trước đây. Bà đã mở 2 tiệm phở, và Phở 2000 là tiệm thứ 3 mới mở được 1 năm. Phở
của bà có đặc tính là nấu bằng nước lọc tinh khiết, các loại rau được rửa và sắp
xếp từng lá một. Bà sung sướng khoe là ông Lin-Tơn đã ăn 2 tô phở - 1 tô chín
và 1 tô phở gà không lấy da (đã được dặn dò trước) và khen ngon lắm,
"gút" lắm. Ổng còn uống hết ly sinh tố xoài, ly cà phê sữa đá, và
chai nước suối. Bà cho biết cà phê phải pha loãng và nhiều sữa, vì cà phê kiểu
VN rất "nặng"đối với người Mỹ. Bà hớn hở khoe tiếp:
“Chính tôi nấu phở cho ông ấy ăn!”
Cô Trương Thị Phương Hà, kế toán trưởng của tiệm, hứng phấn
nói là sẽ giữ lại từ cái ghế ông Clinton đã ngồi, những cái tô, ly, muỗng nĩa,
đũa ông đã sử dụng, để trưng bày trong một tủ kính. Cô hãnh diện:
“Em sẽ đề nghị bà chủ viết hàng chữ là “Nơi đây Tổng thống
Hoa Kỳ Bill Clinton đã đến ăn phở, và đây là những vật dụng Ngài đã dùng...”
Còn cô Hoàng Kim Vân, 22 tuổi, tốt nghiệp Đại học Tin học
Thành phố Nam Định, kiếm việc không ra, chỉ mới vào Sài Gòn làm tại tiệm phở
này 3 ngày nên chưa có bảng tên, phải đeo bảng tên của cô Chi làm ca chiều. Cô
nói cô là người may mắn nhất, vì mới vào làm đã được bắt tay Tổng thống Mỹ! Cô
tỏ vẻ xúc động:
“Sẽ chẳng bao giờ cháu được niềm vinh hạnh như vậy trong suốt
đời cháu, dù là với vị nguyên thủ nước nào”.
Trên hai chục nhân viên trong tiệm đều vui sướng, mãn nguyện,
dù họ rất mệt mỏi vì căng thẳng. Hơn 1 tiếng đồng hồ bố con ông Lin-Tơn ngồi
trong tiệm đã tạo không khí căng thẳng, lo âu cho toàn thể nhân viên, vì chỉ sợ
có những sơ sót. Bà chủ cho biết đã tăng cường thêm người từ ca chiều lên, nên
một số nhân viên phải làm việc liên tục 2 ca. Bà tỏ ra hào phóng:
“Tôi sẽ bồi dưỡng cho anh chị em nhân viên. Cả đời tôi biết
bao giờ mới lại được đón tiếp một vị nguyên thủ Hoa Kỳ vào cửa tiệm của mình”.
Thế là Phở 2000 đã đi vào lịch sử! Trong tương lai gần, ông
Lin-Tơn có thèm phở thì sẽ có thể ăn Phở 2000, biết đâu lại mở ở Nữu Ước, là
nơi mà ổng mới mua nhà và bả có Văn phòng Nghị Sĩ.
Làm một tô phở tỉnh người, rồi tán dóc về phở - nói theo kiểu
văn chương báo chí Sài Gòn là "tản mạn phở" hoặc "một thoáng phở",
rồi về viết một "lá thư phở" gởi bạn hiền, thấy con người hân hoan
thơ thới gì đâu!
Người Tân Định