Như là một cuốn truyện hư cấu, nhưng lại là một
truyện thật, và câu chuyện này đã kéo dài bẩy chục năm.
Chị sinh năm 1926, năm nay đã 95 tuổi. Chị hơn tôi 10
tuổi. Với từng đó tuổi, vào những quãng thời gian đó, chị đã đi
vào những biến cố xa hơn tôi rất nhiều.
Chúng tôi đều sinh ra trong thời nước Việt Nam còn có
vua, nhưng lại là thuộc địa của người Pháp. Tôi nhớ lại thời đó là
một thời thanh bình. Rồi chúng tôi đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh
triền miên suốt hơn ba mươi năm trời.
Đệ Nhị Thế Chiến 1939-45, quân Nhật tràn vào Đông Dương lật đổ người Pháp. Trên trời thì máy bay Mỹ dội bom xuống doanh trại của lính Nhật và phá hủy các trục lộ giao thông. Cùng chứng kiến cảnh hai triệu người chết đói ở các làng quê và một số đông đã lần về thành phố Hà Nội mong có miếng ăn, nhiều người nằm chết la liệt hàng ngày trên các đường phố. Nguyên do lính Nhật cấm nông dân trồng lúa và phải trồng các cây phục vụ cho kỹ nghệ chiến tranh của họ.
Thế chiến chấm dứt, cả một sư đoàn Quốc quân Tầu
chuyển sang giải giới quân Nhật. Rồi Cộng sản đội lốt Việt Minh lợi
dụng tình thế cướp chính quyền, phá bỏ chế độ quân chủ, diệt trừ
các đảng quốc gia đối lập. Người Pháp quay lại Đông Dương, chiến tranh
Việt Pháp bùng nổ, kéo dài nhiều năm 1946-54. Pháp thua trận Điện
Biên Phủ, rút khỏi Việt Nam. Đất nước chia đôi. Chúng tôi sợ Cộng
sản, với đấu tranh giai cấp và diệt trừ những người mà họ liệt vào
hàng địa chủ, tiểu thương, phản động… hành động diễn ra thật là khủng
khiếp. Gần triệu người rời bỏ miền Bắc, di cư vào Nam tìm tự
do và đã hưởng được những năm đầu an bình và thịnh vượng ở đó.
Không bao lâu, cuộc nội chiến tương tàn lại bắt đầu
giữa Bắc-Nam. Miền Bắc được cả một khối Cộng sản khổng lồ kiên trì
hỗ trợ, miền Nam được Hoa Kỳ mang quân vào chống lại. Cuộc chiến
tranh kéo dài hai mươi năm, hơn một triệu lính chết, mấy triệu thường
dân bỏ mạng. Nước Mỹ cuối cùng bỏ cuộc và ngưng yểm trợ cho miền
Nam, khiến cho Cộng sản miền Bắc thôn tính cả đất nước năm 1975.
Một lần nữa chúng tôi lại cố thoát khỏi Cộng sản
bất chấp nguy hiểm. Mỗi người tìm đường vượt biển một cách. Cuối
cùng Hoa Kỳ đã chấp nhận cho tỵ nạn. Chúng tôi đã trở thành công dân
Mỹ, và đã sống ở đây đến nay đã hơn 45 năm rồi. Cuộc đời biết bao
nhiêu biến đổi, mất mát trắng tay.
… Trở lại chuyện của chị tôi. Những năm cuối đời,
sau khi chồng mất, chị cư ngụ một mình trong một căn cao ốc của các
cao niên trong thành phố tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ. Vốn thích văn thơ, lãng
mạn chị sống lại cái quá khứ của một thời. Chị bắt đầu soạn lại
tác phẩm kịch thơ mà chị đã giúp viết chung với một người và viết
hồi ký.
Chị góp lại và nhờ một người học trò cũ, là một
bác sĩ đã về hưu, thuê người đánh máy, layout và sẽ in thành sách. Chị
cho biết bản thảo dầy khoảng trên sáu trăm trang. Nhưng trong nhiều năm
cuốn sách mãi không xong vì cô giáo và ông học trò cứ mãi tranh luận
về nội dung. Riêng tôi cũng có một chút kinh nghiệm viết lách, thường
các bài được đăng trên các tạp chí văn học tại Cali. Khi tôi chọn ra
một số bài để in cuốn sách đầu tiên và được Thư Viện Trung Ương
Seattle giúp ra mắt tại thính đường, thì chị tin tôi có thể hoàn
thành ý nguyện của chị. Chị đành cám ơn ông học trò cũ và chuyển
lại những phần ông đã làm cho tôi. Dĩ nhiên ông ta vui vẻ được rảnh
tay, an hưởng tuổi hưu.
Tôi đọc lại tập bản thảo đã đánh máy và layout.
Phần đầu là vở kịch thơ “Viễn Khách”, khi chị đem từ khu Kháng
Chiến về Hà Nội năm 1948, đưa cho nhà văn Vũ Bằng, phải đổi tên tác
giả và lấy tên hai người ghép lại thành “Hoa Thu”. Vở kịch thơ đã
được đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy và đã được trình diễn
tại nhà Hát Lớn Hà Nội năm 1951, với nhiều nghệ sĩ tên tuổi đóng
góp như Vũ Khắc Khoan, Hoàng Thư, Văn Phú, Phan Tại, Tạ Tỵ, Mộng
Lan…
Nhưng sau nhiều năm tên vở kịch bị gắn lầm vào tên
hai nhà thơ viết kịch tên tuổi khác là Hoàng Cầm và Hoàng Công Khanh.
Vì người xưa, chị đã mất nhiều công sức liên lạc với hai nhà thơ trên
để lấy lại chính danh cho tập “Viễn Khách”.
Chị cho là chưa đủ, nên đã bỏ rất nhiều thời giờ để
viết những lá thư dài cho các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, và các tạp
chí có ảnh hưởng trong và ngoài nước về hoàn cảnh và việc của chị đang
làm như: Thượng Sỹ, Phan Tại, Võ Văn Ái Tạp chí Quê Mẹ, Đỗ Quý Toàn
báo Người Việt và Tạp chí Thế Kỷ 21, Nguyễn Thị Giáng Châu Tạp chí
Hợp Lưu, Băng Sơn Tạp chí Sân Khấu, Vương Trùng Dương Báo Saigon Nhỏ,
hai học giả Nguyễn Huệ Chi, Đặng Tiến, nhà Biên Khảo Thụy Khuê, Tạp chí
Văn Học và Thư Viện Đại học Cornell. Tất cả đều sốt sắng hồi âm và
đã có bài viết hỗ trợ cho việc giải mã tên tác gỉả của cuốn kịch
thơ Viễn Khách trên các tạp chí..
*
Phần hai là những trang hồi ký cùng những tài liệu,
hình ảnh không được xếp đặt một cách hợp lý. Tôi đề nghị với chị,
sẽ chia cuốn bản thảo ra hai phần riêng biệt để dễ dàng thực hiện
và không ảnh hưởng đến nhau. Lúc đó sức khỏe chị đã suy yếu, trí
óc không còn như xưa, chị để cho tôi quyết định. Chúng tôi đã không
khó khăn lắm khi biên soạn cuốn kịch thơ Viễn Khách. Khi cuốn thơ này
được in thành sách dầy khoảng 250 trang, chị đã rất hài lòng cả về
nội dung cũng như hình thức.
Bìa kịch thơ Viễn Khách. Ảnh do tác giả gửi
Cuốn thứ hai là phần hồi ký, khó khăn hơn. Tôi cũng
đã có nhiều dịp nghe chị kể chuyện về cuộc đời, sau những bữa ăn
gặp nhau trong mùa Hè hay những tối ngồi bên lò sưởi trong những ngày
tuyết mùa Đông trên vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.
Có lần có cả mấy cô con gái của chúng tôi và cô
bạn Mỹ ngồi nghe, đã thốt lên “Truyện đời của bác còn ly kỳ hơn
cả truyện phim “Gone with The Wind “.
Tôi tìm đọc lại bản tóm tắt của tác phẩm “Gone
with The Wind”. Cuộc đời của Scarlett phức tạp hơn. Nàng có ba đời
chồng, mà đời nào cũng có con, nhưng cả đời Scarlett chỉ yêu có
Ashley, một người mà không thể lấy được. Những người mà Scarlett gặp
trong cuộc, họ ở trong cùng một giới tuyến miền Nam nước Mỹ trong
thời nội chiến.
Điểm khác biệt với truyện của chị là chị ngẫu
nhiên gặp ba người, thì những người trong cuộc này ở trong ba giới
tuyến khác nhau, trong cùng một thời gian của một cuộc chiến: Thực
dân, Quốc gia và Cộng sản. Họ ở trong ba guồng máy đối nghịch nhau
và đều phải tìm cách hủy diệt lẫn nhau. Chị kết hôn với một người,
nhưng giữ mãi mối tình đầu tiên với người trước suốt đời, vì đã không
lấy được nhau.
Tôi đọc lại nhiều lần tập hồi ký, có lúc tôi có ý
định không để nguyên văn những gì chị đã viết, mà dựng thành một
tiểu thuyết trường thiên, một “saga” như những truyện đã được dựng
thành phim ảnh mà tôi vẫn hâm mộ theo kiểu “War and Peace”, “Gone
with The Wind” hay “Doctor Zhivago”. Việc này chắc tôi không
đủ tài, sợ sẽ kéo dài và không thể xong. Trong thời gian đó, chị càng
ngày càng yếu, lại hay bị ngã, phải vào Rehab mấy lần. Các cô con
gái của chị phải đem mẹ về nhà săn sóc, trả lại căn phòng cho chính
phủ và khuân đến nhà chúng tôi hơn chục thùng sách và các tập hồi
ký cùng thư từ trao đổi mà chị từng giữ gìn trân quí.
Tôi đọc đến ngàn trang thư viết tay chữ nhỏ, thẳng
hàng mà chị và người đó trao đổi với nhau. Đó là những tư liệu
hiếm có, không những chỉ liên quan đến cá nhân của họ mà còn phản
ảnh đến thời cuộc. Tôi quyết định tôn trọng giữ hồi ký của chị,
những gì chị đã viết, chỉ thay đổi chút ít, và trích các đoạn thư
trên cùng viết thêm các đoạn nối để cấu tạo thành truyện cho diễn
tiến liên tục. Truyện của chị có nhiều tình tiết, tôi muốn tóm tắt
ngắn gọn sau đây trước khi soạn để khỏi đi ra ngoài cái khung và
những gì tôi muốn nói lên cái ý nghĩa cuối cùng của cuốn truyện.
Chị lấy tên là Liên trong truyện, chỉ giữ tên một số người và đổi
tên một số khác.
*
“Bố Liên là một người có chức quyền tại địa phương
và là chủ một trang trại lớn ở một vùng đồi núi, góa vợ có một
con trai. Mẹ Liên là con gái Hà Nội, lỡ duyên đầu với một sinh viên Y
khoa gốc người miền Trung, vì thân sinh của bà từ chối không muốn con
lấy chồng xa. Sau đó lại phải theo tục lệ thời cổ, để tang hai cụ
cố nên lỡ thì. Đến năm hai mươi bẩy tuổi thì một bà mai giới thiệu,
bà kết hôn với bố Liên và theo lên ở đó.
Mẹ Liên thuở nhỏ có được học chữ Nho và chữ Quốc
ngữ ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Bà thích đọc những truyện Tầu như
bộ Tái Sinh Duyên … và hay làm thơ, nhưng đều là thơ than thân trách
phận. Sẵn tài quán xuyến, mẹ Liên mở mang trang trại, xây kho dự trữ
thóc gạo, hầm chứa nước mưa, các chuồng nuôi gia súc, xây tường cao
bao quanh thành một dinh cơ có tiếng trong vùng, thế mà cũng vẫn bị
cướp đến mấy lần. Có ai bán ruộng thì mẹ Liên mua, sau này có thể
nói là ruộng thẳng cánh cò bay.
Liên được gửi lên Hà Nội học cùng với con trai riêng
của chồng sau khi cả hai cùng đỗ xong Certificate, tức là bằng Tiểu
học. Hồi đó học hành lên cao rất là khó khăn, thường bị hạn chế,
nhất là đối với con gái, phần lớn chỉ dành cho con cái nhà có tiền
và có đầu óc cấp tiến ở thành phố. Cấp trung học, các môn học đều
bằng tiếng Pháp, học lịch sử Pháp, văn chương Pháp. Liên đậu được
bằng Brevet, tức là bằng Trung Học đệ nhất cấp và đang tiếp tục học
lên Tú Tài thì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối năm 1946.
Liên rời Hà Nội, trở về trang trại và bắt đầu lao vào
một cuộc phiêu lưu của thời lửa đạn. Liên gặp lại được một số bạn
cũ và một số sinh viên cũng tản cư về quanh vùng. Họ tổ chức thành
một đoàn tuyên truyền hô hào dân chúng ủng hộ kháng chiến, chống lại
người Pháp. Sẵn có tinh thần yêu nước, Liên hăng hái gia nhập với họ.
Lại thêm có tài viết, Liên thảo các truyền đơn, diễn thuyết… Liên
tháo vát và can đảm nên trở thành một phần tử chính của phong trào.
Bố mẹ Liên cũng đóng góp công của đáng kể và còn cho các thành viên
của phong trào họp hành, tá túc tại gia trang của ông bà.
Chiến tranh lan rộng, quân Pháp mở rộng vòng kiểm
soát tiến ra xa Hà Nội và chiếm đóng một số tỉnh lỵ khác. Lực
lượng chính qui Việt Minh yếu thế, phải rút lui về vùng rừng núi để
bảo toàn lực lượng và chủ trương trường kỳ kháng chiến, nhưng vẫn
cố tổ chức du kích quấy phá trong các vùng quê do Pháp kiểm soát.
Quân Pháp đến lập một đồn lớn trên một quả đồi gần trang trại nhà
Liên.
Một lần họ hành quân tảo thanh và ập đến nhà Liên,
lục soát tìm ra được vũ khí và một số tài liệu. Họ tra khảo ông
bố của Liên và định đưa ông và một số người trong gia đình giải lên
đồn. Sẵn biết tiếng Pháp, Liên nói với viên Đại úy Pháp, tất cả là
do Liên, bố Liên và các người khác không có liên hệ gì, Liên chịu bị
bắt và theo lên đồn một mình. Vụ việc của Liên được báo về Hà Nội.
Ngay ngày hôm sau, một Thiếu tá cấp trên đến đồn, họ bàn chuyện với
nhau những gì Liên không được biết, nhưng trước khi ra về, viên Thiếu
tá dặn viên Đại úy gần như muốn cho Liên nghe được, là đừng để ai hãm
hại và phải bảo vệ Liên.
Liên bị giữ ở lại đồn hơn một tuần lễ, không ai tra
hỏi, và được tự do đi lại trong vòng trại. Trại khá nhiều lính, gồm
lính Pháp, lính thuộc địa Phi châu và một số đông lính Việt Nam.
Không ai dám trêu chọc. Liên nghĩ rằng trong chương trình bình định của
người Pháp, họ muốn có nhiều người hợp tác với họ. Họ có ý phủ
dụ và lấy lòng Liên và gia đình. Liên biết tên viên Đại úy là
Marchadier, trước hắn thường “tutoyer” mày tao với Liên, sau đổi thành
“vouvoyer” cô với tôi đàng hoàng.
Một lần đi qua văn phòng của hắn, Liên thấy có một
số sách văn thơ và hỏi mượn cuốn thơ Alfred de Vigny. Trong lúc ngồi
chép một đoạn thơ sau:
(Rên rỉ, khóc lóc, cầu xin đều là hèn nhát.
Hãy hăng hái thực hiện nhiệm vụ lâu dài và khó khăn của bạn
Theo như mà số phận muốn gọi bạn,
Rồi, cũng như tôi. Khổ đau và …)
Marchadier đi tới, nhìn vào và đọc tiếp: “…meurs sans
parler”, (…chết mà không nói nên được) và y nói thêm có ai
làm gì cô mà phải chết? Có khi Liên kiếm được mảnh vỏ cau, chà răng và lấy
gương soi thử, hắn nhìn thấy nói: Cô đâu có xoàng (vous n’êtes pas mal), cô
có nụ cười tuyệt vời (vous avez un sourire épatant). Liên nhớ đúng
như ngày lên Việt Bắc, đến các đơn vị bộ đội, các người lính trẻ đều khen
Liên như thế.
Nhiều khi Marchadier tự tay săn sóc Liên trong các bữa
ăn. Hai người vì thế nói chuyện với nhau dễ dàng hơn. Họ nói với
nhau về văn chương Pháp, những tác phẩm mà Liên học trong thời trung
học. Có những tối họ thức khuya, ngồi trên đồi nhìn xuống làng quê,
họ nói đến những bài thơ trữ tình của thời thi ca lãng mạn như
Lamartine, Paul Verlaine, Beaudelaire… Họ bàn luận luôn cả các vấn đề
thời cuộc. Họ đều trẻ, có tri thức.
Marchadier cố gắng giảng cho Liên những gì mình tin
tưởng: Nước Pháp muốn đến khai hóa và phát triển cho một nước Việt
Nam nghèo đói, lạc hậu. Liên thì khăng khăng nói Việt Nam cần chiến
đấu để dành quyền độc lập, thoát ách thuộc địa. Marchadier còn giảng
thêm cho Liên biết về Cộng sản, Việt Nam sẽ được độc lập, nhưng không
thể đứng một mình được, mà phải Liên Lập trong khối Liên Hiệp
Pháp…Chắc Liên lúc đó cũng chưa nghĩ đến điều đó, và đang bị Việt
Minh mê hoặc, lợi dụng lòng yêu nước mà bị lôi cuốn theo họ.
Dù có quan điểm khác nhau, Marchadier lại mê luôn Liên,
anh ta vẫn tin ở mình sẽ chinh phục được Liên. Cũng không đáng ngạc
nhiên lắm, Liên lúc đó khoảng hai mươi tuổi với sắc đẹp tỉnh thành,
có học, thông minh, gan dạ, không biết gì là nguy hiểm. Liên xuất hiện
nổi bật giữa những đám dân quê nghèo nàn, thất học, sợ sệt.
Rồi Liên được thả về nhà, nhưng vẫn phải lên đồn
trình diện. Marchadier đề nghị Liên làm xã trưởng, Liên giẫy nẩy từ
chối. Nếu không thì bố Liên phải làm, nhưng đời nào bố Liên nhận.
Liên về gặp Hồng Phong, người chỉ huy Việt Minh trong vùng và báo cáo
cho họ biết những việc xẩy ra vừa qua. Việt Minh lợi dụng luôn tình
trạng của Liên và giao cho Liên hai công tác, tìm hiểu các tin tức như
quân số, vũ khí, tin tức hành quân của địch. Việc thứ hai là địch
vận, tìm cách dụ các lính Việt Nam bỏ súng quay về với cách mạng.
Một lần lên đồn, Marchadier đột nhiên đòi cầu hôn, và
trao chiếc nhẫn cho Liên. Liên quýnh lên, hồi đó chuyện lấy Tây là một
điều nhục nhã cho bản thân và cả gia đình, nhưng vì lo ngại không dám
từ chối, đành nhận chiếc nhẫn. Marchadier hẹn ngày mai sẽ mang lễ
vật theo đúng nghi lễ đến nhà bố mẹ Liên xin cầu hôn và sẽ đưa Liên
và gia đình về Hà Nội. Liên về báo cáo cho Hồng Phong và y bèn
phái người đưa Liên sang sông vào vùng Việt Minh kiểm soát ngay đêm đó.
Sáng hôm sau, khi Marchadier đến nhà, thấy Liên đã bỏ
đi, anh quá thắt vọng thốt lên “Sao cô ta đã quá vội vàng”, cùng lúc
chắc anh cũng tự trách mình cũng quá vội vàng.
*
Sau một đêm và gần một ngày lặn lội đi bộ, đến nơi
Liên mệt lả nằm thiếp đi. Lúc tỉnh dậy hỏi ra mới biết mình đang
nằm trong một trại giam. Những người xung quanh đều là tù nhân, nhiều
nhất là buôn lậu, rồi đến trộm cắp, giết người và những người bị
liệt là Việt gian. Họ giam nam nữ riêng phòng nhưng trong cùng một
trại, vì không có đủ chỗ và người canh giữ. Họ giam Liên ở đó khá
lâu, không tra hỏi, không xét xử. Liên lại còn nhìn thấy một thanh niên
bị còng cả chân lẫn tay ở cuối phòng, hỏi thêm thì họ xì xào nói
đó là một “Đại Việt gian”. Ít lâu sau anh ta không bị cùm nữa và
được đi lại thong thả. Trong trại có một người lớn tuổi, là một công
chức thời Pháp không biết chống đối gì mà bị coi là phản động cũng
bị nhốt, nhưng lại được mọi tù nhân kính nể. Ông nói cho Liên biết,
người bị cùm tên là An, trước làm công chức Phủ Toàn Quyền và là
một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ba người đó tự nhiên hợp chuyện
hay gặp nhau, có khi họ nói nhỏ với nhau bằng tiếng Pháp. Sau này có một
chuyện mà ai cũng cảm kích và còn nhắc lại hoài là khi được gia đình tiếp tế
cho một chiếc xe đạp, An xin phép trưởng trại đem bán và chia cho cả
trại giam.
Liên ở trại giam gần một tháng, thì được tin An bị
đưa đi quản thúc ở một trại tù khác trên Bắc Kạn, Liên nghĩ ngay chắc
An bị đem đi thủ tiêu, như một số tù trước đây. Lúc bị giải đi, anh nói với
Liên một câu bằng tiếng Pháp: “Dans une semaine, je serai dans la
capitale”,: trong một tuần nữa, tôi sẽ ở thủ đô (Hà Nội). An là
Việt gian hạng nặng, bị đưa đi nơi khác, Liên nghe An nói lấy làm lạ,
nhưng không có thời giờ hỏi. Đột nhiên Liên xúc động vì có người tin
cẩn và chí tình với mình, Liên xé vội một mẩu giấy ở một góc tờ
báo viết mấy chữ: “Courage, je vous attendrai”, Hãy can đảm, tôi
sẽ chờ anh, và dúi vào tay anh ta. Thực tâm khi Liên bồng bột viết
dòng chữ trên, Liên chỉ vì lòng vị tha, như thương một người bạn trong
cơn hoạn nạn, mà không có tình ý riêng gì, vì thực ra không ai biết tính
mạng An rồi sẽ ra sao.
*
Thời gian ở trại giam Đại Bàng quá lâu, Liên làm đơn
giải thích trường hợp của mình nhiều lần, nhưng không thấy động tĩnh
gì. Liên nghĩ lại, cũng không thể trách họ nghi ngờ và đặt những câu
hỏi về mình. Tại sao Liên không bị người Pháp hại, lại được đối xử
một cách khác thường. Có thể Liên là một gián điệp của Pháp. Một
mặt Liên và gia đình tuy là thành phần địa chủ nhưng có nhiều thành
tích với cách mạng. Liên là một cô gái rất tỏ ra rất thành thật.
Họ chưa biết xử trí ra sao, nên cứ tạm giam để theo rõi, nếu không đã
bị mang đi thủ tiêu như những người khác rồi. Họ có câu “Giết nhầm còn
hơn tha nhầm”. Trong thời gian trong tù, Liên tổ chức lớp học cho
những người không biết chữ trong trại, được một số tù nhân yêu mến
và họ thường săn sóc đến Liên. Giám thị trại cũng tin cậy Liên,
thường nhờ Liên giải quyết những vụ lộn xộn giữa các tù nhân. Trại
giam này trực thuộc một ty Công an, có nhiều quyền, coi cả vùng lớn
từ đường số 5 và cả vùng ven đô Hà Nội, có thời kiêm cả nội thành
khi các lực lương rút lui khỏi thành phố.
Ít lâu sau, trại thêm quá nhiều tù nhân và sợ bị lộ
nên phải di chuyển đến một địa điểm khác, là trại Đông Lâu, đồng
thời có sự thay đổi cấp chỉ huy. Nhờ giám thị trại đưa trường hợp
của Liên lên ủy ban chuyển tiếp. Họ quyết định để Trưởng ty mới giải
quyết. Trưởng ty mới nhận chức tên là Nghiêm, một người trông cao ráo,
nghiêm túc. Ông ta đã xem kỹ hồ sơ của Liên và cho người gọi Liên lên
trình diện, trước mặt mình là một cô gái tỉnh thành có sắc đẹp,
có học, thông minh, bạo dạn và có vẻ thành thật. Ít lâu sau, Nghiêm đưa
Liên ra khỏi trại giam và chỉ định Liên làm thư ký trong văn phòng của
mình.
Chuyện của Liên và Nghiêm gần giống như chuyện của
Liên với Marchadier. Làm thư ký nhưng không có việc gì, Liên ngồi nhớ
và chép lại những bài thơ mà mình làm trong thời gian qua. Nghiêm đi
qua, hỏi xem và không nói gì. Những ngày sau, Nghiêm hay đến gợi
chuyện bâng quơ, rồi dần chuyển sang văn thơ. Điều tất nhiên là Nghiêm
cũng không tránh khỏi lụy tình với Liên.
Trong đám thuộc hạ chỉ biết răm rắp theo lệnh và
đám tù nhân khốn khổ, nay Liên cũng lại nổi bật lên như một đóa hoa
trong sáng, thông minh. Phần Liên cũng dậy lên một tình yêu chưa bao giờ
có, Nghiêm trí thức, hiểu rộng, đã từng viết báo, viết kịch, làm
thơ, rất hợp chuyện với Liên và nhất là người đã cứu Liên ra khỏi
vòng tù tội. Đó chính là mối tình đầu và cũng là “mối tình lớn” của
Liên.
Từ đó, Liên được Nghiêm tin cậy và đã giúp Nghiêm
trong một số việc của cơ quan, giữ một kho hàng thực phẩm và hàng
hóa tịch thu của dân buôn lậu. Liên lại thích thú ngồi chữa lại bản
thảo còn đầy những gạch xóa thêm bớt của cuốn kịch thơ “Viễn
Khách” mà Nghiêm đã viết từ năm 1943.
Trong hơn một năm trời, hai người đã chung sống với
nhau thắm thiết. Nghiêm lại cho phép Liên bảo lãnh mấy cô gái trong trại
giam ra để giúp việc, sai bảo. Nghiêm chiều chuộng Liên và cuộc sống
của Liên thay đổi khác hẳn với đời sống loạn lạc kiệt quệ xung
quanh. Liên nhờ người về đưa cha mẹ già và hai đứa em nhỏ lên ở cùng,
vì lo ngại có thể bị hại nếu còn ở lại trại.
Cho đến một ngày quân Pháp mở một mặt trận lớn đến
nơi cơ quan của Nghiêm. Tất cả đều phải di chuyển sâu vào vùng rừng
núi. Liên không muốn đưa gia đình đi xa hơn nữa, không muốn các em mất
học và nhất là ông bố Liên nhất định trở về trang trại, nên Liên nói
với Nghiêm là sẽ đưa gia đình về quê và sẽ trở lại. Buổi tối, trên
đường đi, khi gần đến trang trại, gặp một toán lính tuần tiễu, thấy
động, họ xả súng bắn. Liên đi đầu bị trúng đạn vào bàn tay
trái, vội kêu to: “Ne tirez plus, je suis blessée”, Đừng bắn nữa,
tôi bị thương rồi . Nghe thấy tiếng Pháp, lính Pháp ngưng bắn
ngay.
Sau đó là họ cho phép gia đình Liên hồi cư về trại.
Riêng Liên được đưa về một bệnh viện ở Hà Nội để chữa trị. Khi khám
trong người Liên có một số giấy tờ khả nghi nên họ giữ trong một
phòng riêng để theo rõi. Lúc một bác sĩ người Pháp vào khám, ông ta
xem qua và bảo mấy sinh viên nội trú cắt luôn hai ngón tay đó đi. Mấy
sinh viên thấy một cô gái xinh đẹp, có học như thế không đành nên bảo
nhau cố nối lại ngón tay cho Liên và tìm cách đổi Liên sang khu khác.
Một lần nữa Liên thoát nạn.
Sau khi ra khỏi bệnh viện, Liên lo việc ăn ở cho gia
đình và thi vào trường sư phạm. Ra trường, Liên được gửi đi dậy học
ở Hải Dương. Năm 1952, được thư của Nghiêm, nhân dịp nghỉ Hè, Liên cùng
mẹ lặn lội ra hậu phương, xuyên đường rừng vào tận ‘An Toàn Khu’, nơi
Hồ Chí Minh đặt bản doanh tìm Nghiêm, có mẹ chứng kiến để mong được
kết hôn chính thức. Khi gặp lại Nghiêm, Liên mới biết là Nghiêm đã bị
tước hết chức vụ, đảng tịch và đang bị quản thúc, vì bị kết tội
có liên hệ với địa chủ và tiểu tư sản, nhất là lại lo liệu cho Liên
đưa gia đình về vùng Pháp. Tuy nhiên vì Nghiêm là người có nhiều
khả năng nên họ vẫn xử dụng trong một số công tác.
Sau khi hai người gặp nhau trong một cuộc họp mặt
ngắn ngủi, có cảnh vệ đi kèm để kiểm soát, Liên và Nghiêm không nói
được điều gì với nhau và đều hiểu là đành phải xa nhau. Từ đó, họ
không được tin nhau nữa. Liên trở về Hà Nội và Nghiêm ở lại chiến khu. Liên
suốt đời lúc nào cũng xót xa ân hận vì mình mà Nghiêm gặp nhiều hoạn
nạn.
*
Liên về Hà Nội với trái tim tan nát, nàng cho như cuộc đời
mình thế là xong rồi. Cũng có nhiều người muốn kết thân để tiến
đến hôn nhân thì Liên đều nói là đã có chồng. Chợt một hôm, An,
người tù Việt Quốc xuất hiện. An người bạn trong tù bị cùm mà Liên
đã gặp mấy năm trước. An đưa ra mảnh giấy báo mà Liên đã viết vội
cho An khi anh bị chuyển trại, tưởng là đã bị thủ tiêu. Chừng ấy năm
mà An vẫn còn giữ. Liên không biết rằng cái mảnh giấy báo và mấy
chữ Liên viết trên đó trong lúc bồng bột đã là định mệnh của đời
Liên. An cũng coi đó như là định mệnh đi tìm Liên và nay An đã tìm
được Liên. Liên không hề hỏi tại sao hồi đó An thoát được, ngay cả
những năm về sau. Liên cũng cho An biết mình là một người đã có
chồng, và nói rõ người đó là Nghiêm đã giúp ra khỏi lao tù, mà An
cũng đã nghe biết chuyện. Nhưng nói thế nào, An cũng không nghe, không
thể lay chuyển lòng An. Anh nhất định là Liên đã có duyên nợ ràng buộc với
anh.
An là con nhà khá giả trên Lạng Sơn, bố mẹ giao du
rộng, quen biết nhiều người Pháp ở đó, mà lại cũng thường dùng nhà
của mình làm trạm chuyển tiếp những người làm cách mạng tìm đường
sang Tầu, phần lớn họ thuộc đảng Đại Việt hay Quốc Dân Đảng.
Năm 1954, Pháp thua trận. Hiệp định Geneve chia đôi
Việt Nam làm hai. Việt Minh chiếm miền Bắc và sắp đem quân vào tiếp
thu Hà Nội. Không có kỳ vọng gì khi ở lại và về tương lai,
Liên chấp nhận An. Họ kết hợp ngay lúc đất nước chia đôi, rồi vội vã
cùng gần một triệu người di cư vào miền Nam. Liên đem theo mẹ và mấy
đứa em nhỏ vào Saigon.
Bố Liên không chịu theo vào Nam, ở lại coi dinh cơ và
chờ người con trai theo kháng chiến trở về. Sau khi ông gặp được con
trai, thì phong trào Cải Cách Điền Địa, tố khổ địa chủ sắp đến
làng. Đúng dịp ông đi ăn đám giỗ, lúc về bị một trận cảm cúm và
qua đời. Người con trai bị chính quyền nghi là cố tâm đầu độc bố để
tránh bị đấu tố. Hậu quả là đã bị lột hết quân hàm, thu hồi đảng
tịch, gian khổ suốt đời.
*
Định cư ở Saigon từ năm 1954 đến 1975, hơn hai mươi năm,
Liên với An có với nhau năm người con. Được coi như thành công, xây dựng
được cơ ngơi giữa thành phố, nhà rộng hai mặt tiền, cao năm tầng và
gửi hai con đi du học tại Pháp, được vào trường lớn. Năm 1975, Cộng
sản chiếm hết Miền Nam, Liên đưa được gia đình vượt biển đến
Mỹ.
Khi ra khỏi nước, An không muốn ở Mỹ và sang Pháp
sống, vì thông thạo tiếng Pháp và hận Mỹ cho rằng đã phản bội Việt
Nam. Mấy năm sau Liên mới sang đón được An về Mỹ cùng với gia đình.
Nay An đã qua đời khi đã ở Mỹ nhiều năm.
Nhiều năm sau, khi các con cái đều có đời sống vững
vàng, Liên nghĩ đến chuyện đi tìm lại những người xưa như để trả lễ.
Liên sang Pháp thăm con gái và nhờ Bộ Quốc phòng tìm Marchadier. Họ
cho biết Marchadier sau khi hết hạn kỳ tại Việt Nam đã chuyển sang Cam
Bốt và tiếp tục sang Algérie tham dự một chiến tranh khác. Nay đã qua
đời, còn người vợ là Josette đang ở vùng phía Nam nước Pháp. Liên
đến thăm, hai người trở nên thân nhau và đã thư từ qua lại một thời
gian dài. Liên cũng đã đến thăm mộ Marchadier, nói lời xin lỗi: “Cám
ơn mối tình của anh và xin anh hiểu cho rằng mỗi người ở một chiến
tuyến khác nhau”.
*
Còn về Nghiêm, Liên được biết, khi hết chiến tranh năm
1954, Nghiêm trở lại Hà Nội tìm Liên thì được biết Liên đã đi rồi.
Nghiêm đã thốt lên:
Năm 1975, sau khi miền Nam bị chiếm, Nghiêm lại vào
Saigon tìm Liên một lần nữa, mà sao tìm thấy được. Nghiêm như mất
hồn, lòng tan nát. Lý tưởng mình theo đuổi thì bị ruồng bỏ, người
mình yêu thì đã bỏ ra đi. Nghiêm nhiều lần làm đơn xin xét lại để
phục hồi đảng tịch, nhưng vô hiệu. Sau này, trong tình trạng mất ân
sủng lại bị trù dập, Nghiêm phải lấy những bút danh khác nhau để
dịch sách kiếm sống.
Nghiêm, người của một mối ân tình và là mối tình
đầu. Khi được lại tin nhau năm 1990, hai người đã hẹn gặp nhau tại Hà
Nội, nhưng Nghiêm đã mất năm 1992, trước ngày Liên trở về. Một lần họ
nữa lại lỡ hẹn!
Liên về Việt Nam, tìm đến ngôi mộ của Nghiêm ở một
tỉnh sát biên giới Hoa Việt, thắp nén hương trên mộ. Con gái Nghiêm đã
đưa cho Liên tất cả những tác phẩm và những gì mà Nghiêm đã viết.
Liên mang về Mỹ, khi ngồi xem lại, Liên gặp bài thơ “Dấu Chân Em” mà
Nghiêm đã làm khi trở lại Hà Nội tìm Liên mà không gặp. Có một
đoạn, như một lời tiên tri, thấy mà thật xót xa:
Cuối cùng, cả ba người, một sĩ quan viễn chinh Pháp,
một Quốc Gia, một Cộng sản ở ba giới tuyến đối nghịch với nhau trên
một đất nước tang thương, trong một thời khói lửa thì cả ba người ấy
đã đi vào thiên thu, không còn ai nữa. Chỉ còn lại Liên, cuối cùng
cũng phải bỏ cái miền đất khốn đốn, đầy hận thù ấy mà ra đi…
*
Ngày cuối cùng của chị, tôi nhận được điện thoại của
con gái chị, báo là bác sĩ cho biết chị chỉ còn vài ngày nữa, bây
giờ chị chỉ nằm yên. Tôi nói chuyện với chị. Tôi không hiểu chị có
nghe được tôi không, nhưng cháu tôi nói, cậu cứ nói đi mẹ cháu sẽ
hiểu. Tôi đã nói những gì không còn nhớ hết, nhưng tôi đã nói là
chị bình tâm, chị đã sống một cuộc đời thật là phong phú, đầy đủ.
Tôi cũng đã nhắc đến quyển kịch thơ “Viễn Khách” tôi đã
làm xong cho chị, còn quyển thứ hai tôi đã soạn xong hơn hai trăm trang
và nay mai sẽ hoàn thành… Tôi mong là trong tâm thức cuối cùng, chị
đã hiểu được những lời tôi nói.
Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, cháu tôi gọi lại,
báo tin chị vừa ra đi, trước ngày hẹn của bác sĩ và cô cũng cho tôi
biết sau khi nghe tôi nói, hơi thở của chị dịu xuống và ra đi thanh
thản.
Cơn gió nhẹ nào đã đến lật trang cuối cuốn trường
thiên, saga của cuộc đời chị.
*
Ít tháng sau, tôi hoàn tất cuốn thứ hai và đem in cuốn hồi
ký của chị. Tôi rút gọn xuống còn khoảng 250 trang lấy tên là “Đi Vào Khói Lửa”.
Ngày giỗ đầu chị, tôi gọi cô cháu, nếu có đi thăm mộ mẹ nhớ mang cuốn sách ra mộ
đốt để chứng tỏ tôi đã hoàn thành lời hứa của tôi mà chị mong đợi.
Tưởng như chuyện đã xong, chuyện của quá khứ đã qua rồi, tôi
nghĩ tìm cách thanh toán mấy thùng đựng các trang hồi ký và thư từ của chị cùng
những người liên hệ đang chiếm một chỗ ưu thế trong nhà mấy tháng vừa qua.Tôi gọi
cô cháu gái, cô nói tùy ý cậu, nhưng cô biết ý là tôi tự tay không dám hủy bỏ
và nói sẽ đến lấy và xem lại rồi đem đi “recycle’ thì dễ dàng hơn. Nhưng
khi cô soát lại mấy thùng giấy đó và đọc cuốn sách mà tôi soạn, cô biết rõ và
hiểu rõ hơn về cuộc đời của mẹ cô mà cô thường nghĩ. Cô cho tôi biết cô sẽ chuyển
dịch cuốn này sang Anh ngữ, cốt để chị em, con cháu của cô biết về người mẹ, người
bà có một cuộc đời trên mức bình thường.
Suốt mấy tháng trời cô gọi tôi gần như hàng ngày hỏi về những
từ ngữ, những địa danh và những khúc mắc của lịch sử Việt Nam và nhất là những
diễn biến bất ngờ trong các cuộc kỳ ngộ của mẹ cô. Cô cũng truy lùng trên
Google để biết làng mạc, những trại giam và những cuộc hành trình đi bộ ròng rã
trong các chiến khu của mẹ cô trong thời ly loạn.
Cuối cùng cô đã hoàn thành, cuốn bằng Anh ngữ này được lấy
tên là “Into The Fire”, tôi đem đi in, trang bìa hai cuốn được con
gái của cô minh họa.
Tôi đọc lại cả hai cuốn, tự nhiên cảm thấy mình còn phải làm
một cái gì thêm nữa. Nhân có sự quen biết mấy người trong Chương Trình Literature
& Humanities –Community Engagement Services của Seattle
Public Library, tôi gửi thử cuốn ‘Into the Fire” để hỏi ý kiến
của mấy cô ra sao, không ngờ họ trả lời là muốn tổ chức một cuộc phỏng vấn trên
Zoom như họ thường làm để giới thiệu các tác giả và sách của họ. Nhưng
sau đó, thư viện biết thêm là tác giả đã qua đời, nên đã ngưng lại không
tiến hành nữa.
Ảnh do tác giả gửi
Lúc nào trong trí tưởng tượng của tôi, nếu như có một nhà sản
xuất, một đạo diễn phim ảnh nào đó biết đến dựng thành phim, như những cuốn
phim trường thiên mà tôi từng hâm mộ. Tôi hình dung ra những cảnh như khi Liên
rời Hà Nội trở về quê lao vào cuộc kháng chiến: Cảnh Liên bị bắt và được người
sĩ quan Pháp đã không hãm hại mà còn cảm mến muốn cưới làm vợ. Cảnh Liên được
đưa trốn qua sông và bị Việt Minh đưa vào trại giam vì nghi ngờ làm gián điệp của
Pháp. Cảnh gặp người chiến sĩ Việt Quốc bị cùm và mẩu giấy định mệnh khi người
này bị đưa khỏi trại và nghĩ là sẽ bị thủ tiêu. Cảnh Liên được một đảng viên Cộng
sản quyền thế nhưng lãng mạn cứu thoát khỏi trại giam trở thành một mối duyên
văn thơ. Cảnh người chiến sĩ Việt Quốc giữ mảnh giấy báo trở lại Hà Nội tìm
Liên và cả hai đưa nhau theo một triệu người di cư vào Nam khi đất nước chia
đôi. Rồi cảnh 20 năm sau hai người lại đưa được gia đình tìm cách vươt biển tới
miền đất hứa…Tất cả lồng trong khung cảnh của một thời nhiễu nhương của lịch sử
Việt Nam vừa qua.
Cảnh cuối cùng sau khi chồng chết, Liên đi tìm hai người xưa
để trả ơn. Cảnh Liên sang Pháp ngồi bên mộ người sĩ quan viễn chinh, như một
cánh hoa trong thời ly loạn. Cảnh Liên về Việt Nam ngồi bên mộ người cán bộ Cộng
sản đã bị khai trừ khỏi đảng, như một mối tình thiên thu. Sau nữa là cảnh Liên
ngồi một mình viết hồi ký trong một căn phòng cao niên, cảnh đám tang trong thời
đại dịch và nấm mộ mới của Liên bên cạnh người chồng Việt Quốc, như một định bệnh
đã an bài.
Tôi luôn tin rằng ý nghĩa câu chuyện của đời chị mãi sẽ là một
tuyệt phẩm.
10/2021