– À... à... ơi... tiếng ru muôn đời...[1]
Đám bạn đồng nghiệp lao xao hỏi nhau, có nên đi Istanbul, Thổ
Nhĩ Kỳ chăng. Ban đầu, nhận được thư mời đi dự hội nghị nhân viên tài chánh của
hãng, ai nấy vui như hội. Ba ngày sẽ họp hành liên miên. Nhưng buổi tối, sẽ có
những màn tiệc tùng chiêu đãi rất xôm tụ. Trước khi đi một tuần, tình hình an
ninh của Istanbul có nhiều biến động, do cuộc họp của Khối Liên Minh Bắc Đại
Tây Dương. Có những biểu tình phản đối, có xô xát đụng độ giữa cảnh sát và các
nhóm quá khích. Hội đồng quản trị của hãng thông báo gấp, nếu nhân viên nào cảm
thấy không yên tâm, có thể hủy chuyến đi, mặc dù cuộc hội nghị mang ý nghĩa
quan trọng cho tất cả thành viên.
Tôi cũng đắn đo. Buổi tối nghe trên radio có một vụ nổ trên máy bay. Dù chẳng gây thiệt hại, nhưng mọi người hoang mang hơn. Thiên hạ gởi email, SMS tứ tung hỏi chuyện. Buổi sáng nghe tin mới trong ngày, có một vụ cướp phi cơ trên chuyến bay từ Munich đến Istanbul. Sau đó, người ta cho biết, đó chỉ là hành động điên rồ của một người đàn ông muốn làm áp lực với vợ.
Tuy đã nhận được “giấy phép đi đường” của chồng con, tôi vẫn
băn khoăn hỏi quanh. Ai cũng nói, báo chí ưa thổi phồng tất cả, để thoả mãn
tính tò mò và thói quen thích nghe tin “nóng” của độc giả. Mọi chuyện có thể xảy
ra, bất cứ lúc nào, khắp nơi, chẳng kiêng nể ai. Tôi nhớ, hồi nhỏ có đọc truyện
cười. Người kia, sợ chết, chẳng dám làm gì, chẳng dám đi đâu, vì sợ tai nạn xảy
ra. Anh ta nằm ỳ trên giường. Vậy mà, cuối cùng anh ta tử nạn, vì lò xo giường
đâm trúng người. Ừ, như người Việt mình hay nói, giày dép còn có số mà.
Xe buýt chở chúng tôi từ phi trường về khách sạn. Tôi không
hề nhận ra không khí căng thẳng ngột ngạt như báo chí tường thuật. Đường phố có
nhiều cây xanh. Nhà cửa khang trang tươm tất. Khách sạn ở bên bờ Bosphorus. Từ
đại sảnh, bên những bồn hoa thiên điểu (Strelitzia reginae hay còn
gọi là bird of paradise), tôi nhìn ra sông, phong cảnh thật hữu
tình.
Buổi chiều, sếp tôi mách nhỏ:
– Có một người Việt Nam từ văn phòng bên Pháp. Cũng là controller.
A nice guy. Lát nữa tôi dẫn Thi đến giới thiệu với cậu ấy nhé.
Tôi tròn mắt, hồi hộp. Có lẽ như một thói quen của người tây
phương, sếp ưa dùng chữ nice. Riêng với tôi, hễ gặp người Việt, tất
nhiên là nice hơn người... không phải Việt. Đang thèm nói chuyện
tiếng Việt, được như vậy, buồn ngủ, quả gặp chiếu hoa đó chứ.
Vừa lúc đó sếp vẫy tay, rối rít:
– Pierre, Pierre lại đây. – Quay qua tôi – Tôi để
cho hai người đồng hương hàn huyên tâm sự nhé.
Thông tin của sếp thật chính xác. Pierre có ngoại hình của một
người Việt. Pierre bắt tay sếp:
– Thank you for bringing the Vietnamese together. –
Nhìn tôi – Hi Thi, nice to meet you.
Tôi nghĩ, không cần phải ngại sếp mà nói tiếng Anh với nhau,
tuôn ngay một tràng:
– Chào anh Pierre. Mới nghe ông boss tôi kể
về anh đó.
Pierre bỗng lộ vẻ bối rối:
– Sorry, I cannot speak Vietnamese.
Tôi chưng hửng, bèn lịch sự một cách nhạt nhẽo rằng:
– Chẳng sao, mình nói tiếng Anh với nhau cũng được.
Chúng tôi trao đổi bâng quơ đôi chuyện. Đại khái vào hãng
này lúc nào, công việc ra sao, trước làm ở đâu. Hai người Việt nói chuyện với
nhau bằng ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ. Cùng nói tiếng Anh, Pierre phát âm,
có mùi phô-mai Camembert. Tôi nói, có vị bún bò Mụ Rớt. Chung
chung, câu chuyện chúng tôi nhạt như nước ốc. Pierre kể, cha của anh qua Pháp từ
hồi người Pháp chưa biết Điện Biên Phủ ở đâu. Thuở đó, nơi kinh đô ánh sáng hiếm
các cô gái Việt, ông đành lập gia đình với người em mắt nâu. Pierre kể, cha anh
quê ở Konto. Tôi lờ mờ đoán có thể ông ấy gốc Cam Bốt. Sau một hồi Pierre cắt
nghĩa lòng vòng tôi mới hiểu là, ông cụ quê ở Cần Thơ. Coi như tôi buồn ngủ rục
cả mắt, mà manh chiếu này sao khó dùng quá. Tôi hết cả háo hức. Chẳng biết nói
chuyện gì nữa. Chắc Pierre cũng đang tự hỏi, phụ nữ nơi quê cha mình sao mà
nhàn nhạt, chẳng có màu sắc gì. Vừa lúc đó, có tiếng thông báo trên loa phóng
thanh, mời mọi người về hội trường. Cả hai dường như cùng cố giấu tiếng thở ra
nhẹ nhõm.
Buổi chiều, hãng đặt tiệc ở một nhà hàng lớn. Nhà hàng ngày
xưa là lâu đài xây dở dang, bị trận hỏa hoạn nên thiệt hại nặng. Sau này, một
tay có đầu óc kinh doanh với tài kinh bang tế thế, biến những bức tường ám khói
thành nhà hàng cao cấp. Giữa sân chính, mọi người đang điên cuồng theo những điệu
nhạc. Đám bạn đồng nghiệp lôi kéo rủ nhảy. Tôi cười cười, lắc đầu. Christian
nói to như cố át tiếng nhạc:
– Thi chẳng bao giờ nhảy nhót
sao?
Tôi nửa gật, nửa lắc, ai hiểu sao, thì hiểu. Trời ơi, hồi mới
qua Âu Châu, năm đầu khi học Đức ngữ, thuở đó, đâu có nhiều nhạc Việt Nam, chỉ
có mỗi cuốn băng cassette Mây Bốn Phương. Đám học
trò chúng tôi rộn ràng chachacha: đàn nhịp nhàng cùng nhau
chung bước[2]. Với cuốn Khánh Ly Tango, tôi bao sân cả 10
bài, cho đến khi người coi máy thay băng nhạc khác. Bây giờ, tôi treo giò. Tại,
ở đây không thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Tôi lững thững dạo ra phía bờ sông.
Sát bờ sông, người của nhà hàng trải những tấm thảm lớn, có những gối lụa bên cạnh
chân bàn. Laura và Anette mời mọc:
– Ngồi đây chơi với tụi này luôn.
Tôi sà xuống. Nói chuyện một tí, mới hay, Anette vì có bầu
nên tránh nơi ồn ào, Laura đang thất tình nên tìm nơi vắng vẻ. Tôi hơi tức cười:
– Tôi chẳng ở vào trường hợp của cả hai bạn.
– Vậy Thi ngồi đây làm gì?
– Ngắm cảnh. – Tôi khoát tay chỉ ra sông.
Tôi cảm thấy hình như mình có cũng có lý do khi ngồi đây.
Cám cảnh trăng nước, nên nhớ nước, thương nhà chăng. Tôi nhìn qua bên phần Châu
Á của thành phố, bên Anatolien.
Biết tin đi Istanbul từ lâu, tôi dự định sẽ tìm hiểu thêm về
thành phố liêu trai này. Nhưng vì cố tật lười, đổ tội cho bận bịu. Cho nên, đến
đây chỉ nhớ mang máng rằng, Istanbul với hơn mười triệu dân, là thành phố lớn
nhất của Thổ Nhĩ Kỳ. Istanbul, thành phố với lịch sử hơn ba ngàn năm, ngày xưa
là Constantinople, thành phố duy nhất trên thế giới trải dài trên hai lục địa:
châu Á và châu Âu. Đến đây tôi còn biết thêm một điều: Con sông, hay đúng hơn,
cửa biển Bosphorus ngăn thành phố trên hai phần lục địa. Ngồi bên bờ sông bên
này, nhìn qua bên kia là châu Á, lục địa quê nhà tôi. Tưởng tượng, nếu cứ nhắm
phía đông đi miết, là tới nhà. Trăng mười bốn sáng vằng vặc. Ánh trăng trải dài
bàng bạc trên mặt nước. Nhớ ngày xưa còn nhỏ, tôi thích chạy theo trăng. Ngước
mặt nhìn trăng, mình bước chậm, trăng kiên nhẫn đi theo, mình chạy nhanh, trăng
cuống quít cho kịp.
Quay qua bên trái nghe xuýt xoa, fantastic. Quay
bên phải nghe magnifique. Tôi ngồi giữa cũng muốn buột miệng:
tuyệt vời. Tôi muốn được trầm trồ trong tiếng Việt thân yêu của mình. Bỗng dưng
tôi thèm nói, thèm nghe tiếng Việt kinh khủng. Tôi nghĩ, mình có thể chơi
ngông, lấy điện thoại di động, cho hệ thống sóng của Vodafone, chạy lòng vòng từ
Đức qua Thổ Nhĩ Kỳ, tìm gặp sóng Turkcell. Cuối tháng, tôi sẽ nhận hoá đơn năm
bảy đồng một phút. Chẳng sao! Tôi đã quen nộp tiền cho hãng điện thoại. Chi tiền
cho sinh hoạt nghe và nói trên hệ thống viễn thông đối với tôi luôn là một chi
tiêu chính đáng. Nhưng, bây giờ đã hơn 11 giờ đêm. Tưởng tượng chồng con đang
ngái ngủ, sẽ tỉnh hẳn, hốt hoảng, tưởng tôi gặp chuyện gì ở đây. Rồi sẽ bực bội,
nếu tôi nói, chỉ thích nghe và nói chuyện tiếng Việt. Bây giờ đang giữa tuần,
ai cũng còn ngày dài trước mặt. Mặc cho tiếng nhạc điên cuồng bám theo, tôi thả
hồn theo đêm mùa trăng úa làm vỡ hồn ta[3].
*
Tôi tìm Anne, tính nói cho Anne biết tôi về phòng trước.
Anne đang ngồi chuyện trò với người bạn đồng nghiệp. Anne vui vẻ:
– Thi à, giới thiệu với bạn, đây là anh Jacques, trưởng
phòng Pháp Lý. – Quay qua Jacques. – Đây là Thi, tôi đã kể cho anh
nghe đó.
– Chào em. Tôi nghĩ em tên Thi chứ không phải Ti.
Tôi ngạc nhiên quá đỗi, lẫn chút thích thú. Trong văn thư ở
hãng, người ta viết đúng tên tôi, nhưng khi nói, phát âm nghe như Ti. Tôi chẳng
buồn sửa đổi.
– Chào anh Jacques. Đúng rồi. Sao anh hay quá vậy?
Jacques kể chuyện, bằng tiếng Anh, nhưng thỉnh thoảng pha
vài chữ tiếng Việt. Jacques làm việc với tư cách luật sư tư vấn cho một hãng thầu
xây cất ở Sài Gòn hai năm. Nói chung, tôi ít có cảm tình với dân luật. Tôi có cảm
tưởng như họ luôn “bẻm mép”. Có lẽ thói quen luồn lách giữa chữ nghĩa, luật lệ
trong nghề nghiệp ăn sâu vào đời sống thường nhật của họ. Hơn nữa, hồi còn ở đại
học, tôi ngất ngư con tàu đi, khi làm những chứng chỉ về luật kinh doanh thương
mại. Xém mấy lần ca cẩm, “thi không ăn ớt thế mà cay.” Nói chuyện với Jacques một
hồi, nghe Jacques kể chuyện ăn bún bò, ăn bánh bèo, ác cảm với dân luật dần đổi
thành mỹ cảm qua Jacques. Jacques khoe, ở Đức, có lần thèm ăn phở quá, Jacques
vào nhà hàng tàu, hỏi món phở. Chủ tiệm là người Việt, họ không có món phở trên
thực đơn nhà hàng. Nhưng tình cờ, ngày đó họ nấu phở trong bếp nhà. Thấy
Jacques ngồ ngộ. Họ đãi Jacques tô phở. Từ đó, Jacques thành người quen của tiệm.
Tôi cố nén cười, khi chợt nghĩ đến câu chuyện ví von nhảm của cơm và phở. Không
biết lúc ở Việt Nam có ai kể cho Jacques nghe, cơm là vợ, phở là bồ, sáng đưa
cơm đi ăn phở, trưa đưa phở đi ăn cơm là gì
không.
Ngày sau, tôi phải bươn bả chạy theo tiếng Anh trong những
bài thuyết trình, để đến giờ thảo luận nối tiếp khỏi “ấm ớ hội tề.” Mãi đến chiều
mới được thong thả, lòng vòng dăm ba phút, hẹn nhau uống nước. Tôi bước vào tiệm
cà phê, đang ngó quanh quất tìm chỗ trống. Đám bạn đồng nghiệp nhanh chân thiệt.
Mới đó mà ai yên chỗ nấy rồi. Tôi định chạy lại phía Laure, vừa khi đó tôi nghe
tiếng gọi, “Thi ơi!”. Tôi giật cả người. Đang định thần xem thử mình có nghe lầm
chăng. Lại nghe, “Thi ơi, join us.” Tôi quay nhìn góc phải của tiệm,
nhóm bạn đang cười vui, tay ngoắt ngoắt. Lúc đó, tôi thấy Jacques ngồi đầu bàn,
đang nhích người vào bên cạnh:
– Thi ơi, come here.
Tôi đến ngồi bên cạnh Jacques, lại ngạc nhiên và thích thú,
hỏi Jacques bằng tiếng Anh:
– Anh học chữ “ơi” này ở đâu vậy?
– Mấy năm ở Việt Nam, chữ ơi là chữ tôi học đầu tiên đó.
Jacques vui vẻ.
Đám bạn đồng nghiệp lao nhao:
– Ơi nghĩa là gì?
Tôi chậm rãi giải thích:
– Ơi là tiếng đệm, tách riêng không có nghĩa cụ thể. Nhưng
khi đi chung với chữ khác, nhất là với đại danh từ, hoặc tên riêng, đôi khi lại
là tất cả.
Đám đồng nghiệp cười thích thú, kêu nhau ơi ới, sweetheart ơi, Liebling ơi…
Mặc không khí ồn ào chung quanh, tôi ngồi im, tưởng tượng như được nghe, “Em
ơi, bé ơi, cưng ơi.” Ui chao, nếu thọ đến trăm tuổi, tôi vẫn xao xuyến tâm hồn,
khi nghe những tiếng à ơi của tiếng nước tôi.
Từ ngày đổi qua hãng này, tôi không còn cảm thấy khó chịu
khi ai hỏi tôi từ đâu đến. Văn phòng của hãng ở Đức chưa tới 200 nhân viên, mà
có gần 30 quốc tịch. Nhóm Controller ở München với một người
Thụy Điển, một người Hy Lạp, một người Pháp. Tôi là người Đức duy nhất. Là người
có quốc tịch Đức, nói tiếng Đức tương đối thành thạo. Họ cũng nói võ vẽ đôi câu
tiếng Đức. Nhưng không cảm thấy thật sự cần thiết học thêm thứ ngôn ngữ khục khặc
này. Tự nhiên tôi thành cầu thủ đá sân nhà. Tôi thấy thoải mái hơn khi nói tiếng
Đức, dù bây giờ trong công việc tôi ít xài. Có lẽ không sợ người Đức “thiệt”
xét nét, táy máy sửa sai. Có lần Dimitri gặp vấn đề với nhà ở, hí hoáy viết thư
khiếu nại rằng, nước không đủ nóng, lò sưởi không đủ ấm. Dimitri hỏi Erik lui tới
hoài. Thấy Erik hết đường binh, Paul hướng về tôi:
– Sao mấy bạn không hỏi Thi? Tiếng Đức là Muttersprache (tiếng
mẹ đẻ) của cô ấy mà.
Tôi cười:
– Giúp các bạn hả? Tôi sẵn sàng. Ờ, tôi xong trung học, đại
học Đức. Thời gian tôi sống ở đây bằng thời gian tôi sống ở Việt Nam. Nhưng tiếng
mẹ đẻ của tôi là tiếng Việt.
Tôi nói thầm trong bụng, tiếng Đức chắc giống tiếng mẹ… ghẻ.
Bởi, tôi đã có lần dở khóc, dở mếu vì tiếng Đức. Lúc còn làm ở hãng cũ, tôi là
thành viên duy nhất không phải Đức chính cống trong nhóm. Tôi đã cảm thấy cái sự
“không quốc tế” của môi trường làm việc, dù đấy là phòng Tín Dụng Quốc Tế của
ngân hàng lớn thứ hai ở Đức. Trong bản phân tích báo cáo tài chánh, chúng tôi
dùng tiếng Anh. Nhưng đôi dòng tóm tắt lời bàn… Mao Tôn Cương, chúng tôi phải
viết bằng tiếng Đức. Thật ra, đôi dòng tóm tắt đó chẳng đòi hỏi phải làu làu
văn chương Bertholt Brecht, hay trơn tru chữ nghĩa Heinrich Böll. Thời gian đầu
học việc, tôi lấy mấy tập hồ sơ cũ, những bộ đơn đã được hội đồng quản trị chấp
thuận, đem ra nghiên cứu, lựa nhiều trường hợp tiêu biểu khác nhau. Mỗi trường
hợp, tôi “chôm” một câu mẫu, rồi cứ vậy chỉ thay đổi chủ từ, túc từ tí tí. Còn
động từ, tôi không đụng đến, vì biết các tiếp đầu ngữ trong văn phạm Đức ngữ
nguy hiểm chết người. Làm ăn suôn sẻ như vậy. Đại đa số các đơn xin tín dụng
tôi đều bàn vào. Lần nọ, tìm hoài không đủ lý do xin chấp thuận, tôi đành phải
bàn ra, từ chối khoản hạn mức tín dụng vay nóng. Boss của tôi
gật gù, cho tôi có lý, đồng ý như lời đề nghị của tôi. Ngày hôm sau, cô Bauer đồng
nghiệp bên phòng Quan Hệ Quốc Tế, người đã gởi đơn xin cấp tín dụng cho một
ngân hàng Nam Dương, gọi cho tôi. Vừa câu thăm hỏi ngắn gọn bài bản xong, cô đổi
giọng hạch sách:
– Tại sao chị lại đề nghị từ chối đơn này?
– Mọi lý do tôi đã ghi rõ ràng. Xin chị cứ đọc kỹ trong
khung tóm tắt.
– Tôi đọc rồi. Chị viết như vậy là sai. – Giọng cô Bauer gay
gắt.
– Không đâu chị. – Tôi bắt đầu cảm thấy bực bội. Yêu cầu chị
so sánh các con số trong bản báo cáo tài
chánh.
– Không phải tôi nói con số sai. Mà câu văn chị viết sai. –
Giọng cô ta khiêu khích.
– Sai chỗ nào?
Tôi chột dạ. Vừa hỏi, vừa đọc lại mấy dòng chữ trong bộ hồ
sơ:
– Tôi không thấy lỗi văn phạm nào cả. – Tôi cố giữ giọng
bình tĩnh.
Ngày xưa khi còn trung học Đức, thầy cô khó tìm ra lỗi văn
phạm trong các bài luận văn của tôi. Nhưng có thầy cô đùa, văn phong Đức ngữ của
tôi nghiêm chỉnh và hơi cổ hay đúng ra lỗi thời.
– Văn phạm không sai. Nhưng người Đức không nói như vậy.
Tôi thấy máu nóng dồn hết trên mặt. Tôi lên giọng:
– Vậy thì vấn đề ở đâu? Văn phạm đúng. Người viết là tôi.
Tôi cũng là người Đức mà.– Tôi giật mình, nghe chính miệng mình buông ra
một câu quái đản, chẳng lọt tai. Bình thường, tôi không bao giờ nói ra câu này,
mà không kèm thêm đôi lời thanh minh. Rằng, tôi chỉ là người Đức trên căn cước,
giấy thông hành. Chứ tôi thực sự là người Việt.
– Ý tôi nói là người nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ, sẽ không
bao giờ viết câu văn như vậy. Cô ném cho tôi một câu chí tử.
– Chuyện đó tôi sẽ xem lại. Nhưng đó chẳng phải là lý do để
thay đổi quyết định về bộ đơn này.
Tôi chấm dứt cuộc điện đàm bằng câu nói bị động và cảm thấy
không ổn của cái sự người Đức mà không phải Đức của tôi.
Ralph, bạn đồng nghiệp ngồi đối diện, ban đầu không để ý.
Nhưng đến những câu sau cùng, khi tôi bắt đầu lớn giọng, chăm chú nhìn tôi dò hỏi.
Gác điện thoại, tay tôi còn run. Giọng tôi như nghẹn lại:
– Ralph, làm ơn đọc giúp tôi đoạn tóm tắt này và chỉ cho tôi
cách viết khác cho chuẩn đi.
Dầu sau đó, Ralph đoan chắc với tôi, đó là câu văn rất bình
thường, rất Đức. Rằng cô Bauer đã có cái biệt danh Hexe (mụ
phù thủy), vì cái tánh nhọn mồm của cô. Tôi vẫn luôn cảm thấy không thoải mái,
khi phải dùng tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ với những người Đức thật.
Mùa hè tôi bị dị ứng phấn hoa. Thấy tôi sụt sịt, hắt hơi,
Ralph hỏi han:
– Bộ bị cảm cúm hả?
– Không, tôi bị dị ứng Pollen (phấn hoa).
Có lẽ tôi phát âm chưa đủ “đô”. Ralph cười tủm tỉm:
– Hồi giờ tui đâu có dè Thi kỳ thị chủng tộc, không hạp tụi Polen (Người
Ba Lan) hả?
Tôi hiểu liền, xụ mặt xuống. Ralph liền nói ngay:
– Giỡn chút thôi, tôi hiểu Thi muốn nói gì. Nhưng, ráng uốn
lưỡi lâu hơn một tí, vì hai chữ l ở giữa lận.
Tôi nói cám ơn, cảm thấy hơi hơi mắc cỡ.
Lần khác, bữa ăn trưa, tôi khèo khèo trái ô– liu trong
dĩa rau trộn, Ralph nhìn tôi:
– Đang nghiên cứu gì đó?
– Tôi không thích Olive.
– Ô, chắc anh Oliver sẽ thất vọng, khi biết
Thi không thích anh ta.
Tôi tròn mắt nhìn Ralph, chẳng hiểu tại sao Ralph nói như vậy.
Một giây sau, tôi hiểu, mím môi nhìn tránh ra cửa sổ. Ralph cười cười cầu hoà:
– Tôi rất thích nghe Thi nói tiếng Đức. So süß. Ngộ lắm.
Thỉnh thoảng, Thi nhấn giọng hơi chệch một tí, tôi hiểu Thi. Nhưng vẫn thích hiểu
lệch theo một tí. Nói vậy chứ, nếu tôi mà nói tiếng Việt, chắc có nhiều ngộ nhận
kinh hoàng lắm, phải không.
Đương nhiên “cha nội”! Tiếng Việt của chúng tôi, mấy thanh dấu
không đúng chỗ, hiểu lầm, hết biết đường gỡ. Chị bạn đi Mỹ về, vui vẻ dúi vào
tay tôi dĩa hát:
– Mình có dắt về cho Thi một chàng TN đây.
Tôi cám ơn chị rối rít. Đúng tim đen của nàng rồi. Tôi mân
mê dĩa nhạc. Vẫn tiếp tục chuyện trò với chị bạn về xứ cờ hoa. Nhưng mắt đang cố
giải mã những dòng chữ li ti, ghi tựa những bài ca. Ờ, những bài hát tôi quen,
tôi thích Mộng Du, Dốc Mơ. Mắt tôi gặp bản nhạc Hùng Hổ.
Trời ơi, bộ hết nhạc hay sao mà ca sĩ lại hát bản nhạc nghe... thượng cẳng
chân, hạ cẳng tay như vầy. Dù câu chuyện về phố Việt giữa đất Mỹ rất hào hứng,
đầu óc tôi cứ lẩn quẩn quanh bài hát. Tôi tò mò quá sức, định mở miệng hỏi chị
bạn cho phép mượn máy nghe thử, thì lúc ấy chị có khách đến. Tôi từ giã chị,
phóng một mạch về nhà, để nghe cho được bản nhạc có mùi… bạo lực. Về nhà, tôi lọ
mọ tìm cặp “kính lão” để đọc danh sách cho kỹ càng. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Ô,
thì ra, chàng trách nàng hững hờ, chứ không phải chàng hùng hổ. Xém chút, tôi
hung hăng đòi “bỏ” chàng ca sĩ ruột vì tội chọn sai nhạc.
Phải vậy chứ. Tôi mơ màng nghe nhạc. Cho dù em không
thương, cho dù em ghét bỏ, cho dù em phỉnh phờ… Cho dù em hững hờ... yêu rồi
thì không quên, yêu rồi thì không nguôi… cho dù em hững hờ, tình này riêng tặng
người thôi[4]. Chao ôi, tiếng Việt tuyệt vời.
*
Mấy hôm ở Istanbul, sao mà dài đằng đẵng. Ngày cuối, thiên hạ
rủ nhau ra phố chợ uống cà phê Thổ. Tôi cù rũ như con gà nuốt giây thun. Tôi chẳng
háo hức đi uống chất nước màu nâu, nghe đâu đắng không thua gì trà khổ qua. Uống
vào tim đập thình thịch như thể gặp… tiếng sét ái tình. Tôi loanh quanh trong
khuôn viên khách sạn chờ giờ ra phi trường. Tôi vẫn có nỗi nhớ gia đình, mỗi
khi đi làm xa nhà. Nhưng lần này, không những nhớ người nhà, mà còn như nỗi nhớ
quê nhà, nhớ tiếng nước nhà. Có lẽ là hiện tượng của những người lớn… tuổi
chăng.
Tôi đẩy cửa, khệ nệ bê túi xách hành trang lỉnh kỉnh vào
nhà. Bê, dù đã vào tuổi thanh niên, vẫn là con nít khi trông mẹ về.
– Mẹ ơi, Mẹ à, Mẹ có quà gì cho con không?
Đột nhiên trong lòng tôi tràn ngập niềm vui. Tôi đã về đến
nhà, à ơi, ơi à. Thì ra, mấy hôm nay tôi vẫn có cảm tưởng “mắc cạn” bởi không
được nói, không được nghe tiếng mẹ đẻ. Mở túi xách, lấy cho con mấy thỏi sô–
cô– la, mấy hộp kẹo đặc sản của Thổ. Bê vẫn ríu rít:
– Mẹ ơi, Mẹ đi qua Thổ có gì vui không?
Không trả lời câu hỏi của Bê, tôi ôm choàng lấy con:
– Mấy hôm nay mẹ nhớ tiếng à ơi, nhớ quá trời.
Hoàng Quân
Trích lời ca trong các nhạc phẩm:
[1] Tình ca, nhạc sĩ Phạm Duy.
[2] Nguyệt Cầm, nhạc sĩ Cung Tiến.
[3] Xin Người Hãy Vui (nhạc ngoại quốc Pepito
(mi corazon)), lời Việt: nhạc sĩ Trường Hải.
[4] Hững Hờ, nhạc sĩ Hồng Khanh.