Bà Hổ Trách Ông chồng“Sao giờ này hai giờ sáng mới vác cái bộ
mặt dễ ghét về nhà?”. Hình Wikipedia
Mồng Một Tết âm lịch sắp tới là bắt đầu năm con Hổ hay Nhâm
Dần nhằm vào ngày thứ ba mồng 1 tháng 2 năm dương lịch 2022. Bài này phần nào
có vài chi tiết về sinh vật học, có thể thiếu tế nhị, nên xin coi như một bài
khoa học. Vì giới hạn, bài cũng để dành vài khía cạnh văn hóa của con Hổ vào một
dịp khác. Bài sẽ bàn về tục ngữ ca dao dính dáng ít nhiều đến hổ. Ít có con vật
nào được từ điển uy-tín Larousse dành cho thành ngữ jaloux comme un tigre.
Vào bài:
Nói đến Hổ, người dân thường—nhất là đồng bào miền Thượng ở
thế kỷ trước-- thường tỏ lòng kính cẩn, phải thờ cúng, thậm chí chỉ dám nói khẽ
đến tên như ông hùm, ông kễnh, ông cọp, ông khái, ông ba mươi; lại có nơi còn
có bầy bàn thờ hình Ông Hổ…bài này cũng nói đến Bà Hổ thường bị Ông quên lãng.
Bà mang thai (từ 93-105 ngày), sinh ra mỗi lứa từ 2-4 con, hiếm khi tới 6 con,
mỗi con nặng 780 đến 1,600g (1.72 đến 3.53 lb), thường sinh trong khoảng giữa
tháng 3 và tháng 6, và nhất là tháng 9.
Sau khi mẹ đẻ ra, hổ con như “mù,” mắt nhắm nghiền, được hổ
mẹ cho bú sữa từ lúc lọt lòng suốt 5 hay 6 tháng.Tuy mắt nhắm mà hổ con theo mẹ
bằng mùi của mẹ. Khi hổ con lớn lên, có thuyết cho rằng hổ con theo mẹ bằng hai
vết trắng sau tai mẹ, nhưng chưa xác-định rõ. Có chỗ cho rằng hai chấm trắng
đó, eye spots hay predator spots, có nhiệm vụ như “tai giả” để đề phòng một con
vật lạ tấn công từ phía sau. Một tuần sau khi đẻ, hổ con nhú răng sữa, và từ một
hay hai tuần sau, hổ con mới mở mắt. Hổ mẹ vẫn cho bú sữa tiếp đến 4 tháng hay
lâu hơn, và nuôi trong hang trước khi cho tập đi theo đàn,cho ăn thịt và dần dần
dạy cách săn thú khác. Lúc này khi con còn nhỏ bà mẹ tha con bằng cách cắn nhẹ
vào gáy mang đến một cái hang hay hốc đá khác để được an toàn hơn.
Còn ông Hổ bố, sau ba bốn ngày, thời gian tìm hiểu có khi
lâu hơn từ tháng 11 đến tháng 2, trong thời gian quen biết courting, kiên nhẫn
đeo đuổi ve vãn tán tỉnh, có khi còn kiếm thịt về cho nàng ăn, trong thời gian
‘quen hơi bén tiếng,’ sau khi nàng chọn một trong số mấy chàng đeo đuổi, và nếu
hài lòng chàng nào thì nàng nằm doãi chân về phía sau, tỏ những dấu hiệu “chịu”–cả
chàng và nàng, được nhận là tỏ tình rất ồn ào—nàng ồn không kém. Chừng bốn năm
ngàysau, chàng “biến dạng.” Có điều lạ nữa là sau khi “giao phối” xong thì
chàng phải rút lẹ khi có dấu hiệu nàng không muốn nữa. Thời gian “trăng mật” của
hổ cái chỉ từ 3 đến 6 ngày.
Rất hiếm khi có hổ đực cùng đi theo hổ cái săn sóc con, dù
là con mình. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ: vào tháng May, 2015, vì có máy
chụp hình đặt ở gần bẫy nên đã ghi lại là trong trại Bảo Vệ Thú Sikhote-Alin
Nature Reserve, một con hổ Amur đực đi qua, theo sau là một con hổ cái và ba hổ
con trong khoảng hai phút. Đây là một bằng chứng hổ có thể sống như một gia
đình. Trường hợp nữa, tại Khu Dành Riêng Nuôi Hổ Ranthambore, phía bắc Ấn Độ, một
con hổ đực giống Bengal nuôi hai con hổ con mồ côi vì mẹ bị bịnh chết. Hai hổ
con được hổ bố tha đồ ănvề cho ăn, bảo vệ chúng và có vẻ còn luyện cho chúng
cách săn. (Nguồn: en.wikipedia.org under ‘the tiger’). Hổ đực, khi bình thường
kiếm được mồi thì để cho hổ cái và hổ con ăn trước rồi mới ăn sau, chứ không
háu ăn như sư tử.
Hổ cái chọn sinh con ở một nơi khá kín đáo như bụi
lau cao, hốc đá, động nhỏ hay hang, để “vượt cạn một mình.” Không có cảnh hổ đực
quanh quẩn kế bên để chia sẻ tiếng ‘vợ’ đau đẻ, nghĩa là hổ đực không như mấy
ông nhà quê ngày xưa khi vợ đẻ, làm những việc có vẻ thiếu ‘lô-gic’ như “leo
lên mái nhà,” nhổ cọc chuồng lợn, lăn ra đường, v.v… như mấy “tục” của mấy ông
chồng ở vài vùng quê ngoài Bắc Việt thời xưa. (Xem: Nguyễn Dư, Phong tục về
Sinh đẻ, Đất Việt - 2015.)
Bà hổ mẹ một mình chịu nỗi đau đớn. Đẻ con, bà tự lo, không
có cô mụ đỡ hay bác sĩ sản khoa ở bên, bà tự đỡ đẻ lấy. Khi đẻ xong, bà dọn dẹp
sạch sẽ --tránh để lại dấu vết và mùi máu khiến những con vật khác đánh hơi mò
tới gây hại cho hổ con mới sinh, lúc đó còn nhắm nghiền mắt. Bà mẹ hổ dọn sạch
bằng cách nào? – “Ăn luôn bộ nhau” của mình.
Những tháng sau, tự bà mẹ hổ, thường không có hổ đực đi
cùng, chỉ dạycho hổ con cách đi theo, cách săn, và bảo vệ hổ con khi có con vật
khác lại gần. Chỉ có bà mẹ. Đây là một trường hợp Hổ cha “bị mất điểm” về trách
nhiệm chung.
Hổ con lớn dần và trong năm đầu, chỉ có từ 35 đến 50 phần
trăm sống sót. Lý do là vì hổ con còn vụng về, mải cựa quậy, tò mò, chạy xa khỏi
hang và… hoặc quên mất đường về, bị lạc, hay bị tuyết lạnh và đói rồi chết, hay
bị một con hổ đực nào đó cắn chết. Hổ đực lạ cắn chết hổ con, để được giao tiếp
với hổ mẹ sớm hơn, nếu như hổ mẹ không phải cho con bú.
|
Hình minh hoạ WikiImages, Pixabay |
Độ
ba tuổi rưỡi, con hổ cái bắt đầu trưởng thành sinh lý, còn hổ đực thì muộn hơn
một năm, nghĩa là độ 4-5 năm. Nếu ở ngoài rừng hoang, Hổ có thể sống được 20
năm, còn nếu trong Khu Bảo Vệ thì sống đến trên 20 năm, lâu nhất ghi được là 26
năm.
Hổ bị người săn nên dần dần mất giống, có nơi dần dần tuyệt
chủng.
Năm 2016, nhìn vào bảng tổng số hổ sống hoang dã ở các quốc
gia thì trong số 3,890 con hổ sống ở ngoài rừng, nước còn số hổ lớn nhất là Ấn
Độ (2,225), Nga (433), Indonesia (371), Mã Lai (250).Trung Quốc còn trên 7 con,
Việt Nam còn không quá 5 con. Tục săn hổ để lấy thịt, xương, bộ phận khác cũng
khiến một số lớn hổ bị diệt. Cũng có nơi tổ chức săn hổ cho du khách đi săn và
lấy da.
(Nguồncredit: vi.vikipedia.org./Hổ)
Bảng kê số lượng hổ sống ngoài hoang dã ở các quốc gia
(2016) ước tính là 3890.
Hổ là loài dã thú độc cư (solitary life) ban ngày thức,
thường ngủ ban đêm, sống một mình trong vùng của mình mà bề mặt chiếm diện tích
khá lớn, thường chỉ khi kiếm được bạn và giao tiếp mới sống cùng nhau. Vẻ mặt hổ
nghiêm trang, đẹp và khỏe, hấp dẫn, chạy nhanh, mắt vàng hay hổ phách (yellow
or amber), tròng mắt đen, ban đêm mắt sáng quắc, toát ra vẻ oai phong, bộ lông
mầu nâu thẫm, hay xám, có vằn đen, lưng và đuôi dài, cân đối và nhịp hàng như gợn
sóng. Tiếng hầm làm các loài khác e sợ.
|
Hình Wikipedia |
(trích) Một
đoạn trong bài “Nhớ Rừng” chuyển sang tiếng Anh của ba dịch giả:
“Với Tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi. /
Với khi thét khúc trường ca dữ dội, / Ta bước chân lên, dõng
dạc, đường hoàng / Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng / Vờn bóng âm
thầm lá gai, cỏ sắc / Trong hang tối mắt thần khi đã quắc / Là khiến cho mọi vật
đều im hơi. / Ta biết ta chúa tể cả muôn loài…Thế Lữ, Nhớ Rừng, bản
1941.
-Bản dịch của Nguyễn Khắc Viện et al.
(trích) et le vent qui rugit dans les bois, et les torrents
qui ébranlent les montagnes
et les hurles où je clamais la grande et terrible épopée,
J’avançais à pas lents et majestueux,
je me faufilais, telle la vague qui s’enroule
jouant avec des ombres profondes des feuilles épineuses, des
herbes coupantes
Dans mon antre ténébreux, quand j’ouvrais mes yeux divins
Tous les êtres alentour se taisaient leur souffle.
Je sais que je suis le roi des mille et mille espèces…
Source: “Nostalgie des Forets” (Nhớ rừng) Traduction
en français par Nguyen Khac Vien, et al. Anthologie de la Littérature
Vietnamienne.Tome III. Hanoi: Editions en Language Étrangères, 1973, p416.
-Bản dịch của Nguyễn Ngọc Bích (1975)
(trích)I hear the blast of winds, torrents shaking the
hillside,
And my own terrible immortal voice
rolling through the spaces as I glide
among silent shadows, prickling leaves, fiery grasses,
my skin undulations in rhythmic waves.
When my eyes sparked green and gold in the cave, nothing
moves,
I knew I was king of animals…
“Green Nostalgia”
(Soliloquy of a tiger in a Zoo by Thế Lữ)
Translated by Nguyễn Ngọc Bích, A Thousand Years of
Vietnamese Poetry, New York: Alfred A. Knopf, 1975, p.160).
-Bản dịch của Thomas D. Lê (2004)
“Yearning for the Jungle”
(The voice of a tiger in captivity in a zoo)
(Trích) Mighty howling winds, and thundering falls,
Roaring my epic and powerful roar,
I strutted in commanding steps sure and pround,
My rhythmic wave-like body strong and stout,
Stalking silent ‘mongst brambles and sharp grass.
In dark caves once I flashed my awesome eyes
All life lay quiet holding its hushed breath.
I basked in smugness, king of all creatures…
(trích)
Translated by Thomas D. Lê
19 September 2004
Note: Người viết hy vọng có dịp trở lại đầy đủ những bản dịch
tiếng Anh bài “Nhớ Rừng,” kể cả bản tiếng Anh của Burton Raffel vào một bài
khác.
Nhà thơ Anh lãng mạn William Blake (1757-1827) cũng có bài
thơ the Tyger (tyger là lối viết chính tả của Blake). Bài thơ này
G.S.William Harmon chọn là bài thơ phổ thông nhất trong 500 bài thơ được in
trong các hợp tuyển thơ “most popular poem among 500 selected in anthologies.”
Trong bài thơ này Blake chất vấn Thượng Đế hay Tạo Hóa đã tạo ra con cừu một
con vật nhu mì sao, chính bàn tay Ngài lại tạo ra con hổ, một con vật hung ác?
Một câu hỏi làm ta suy nghĩ.
The Tyger
William Blake (1757-1827)
Tyger Tyger, burning bright,
In the forests of the night:
What immortal hand or eye,
Could frame thy fearful symmetry?
In what distant deeps or skies.
Burnt the fire of thine eyes?
On what wings dare he aspire?
What the hand, dare seize the fire?
And what shoulder, & what art,
Could twist the sinews of thy heart?
And when thy heart began to beat,
What dread hand?& what dread feet?
What the hammer? What the chain,
In what furnace was thy brain?
What the anvil? What dread grasp,
Dare its deadly terrors clasp?
When the stars threw down their spears
And water’d heaven with their tears:
Did he smile his work to see?
Did he who made the Lamb make thee?
Tyger Tyger burning night,
In the forests of the night:
What immortal hand or eye,
Dare frame thy fearful symmetry?
(from Songs of Experience)
Blake is considered a precursor of British Romanticism, a
mysticnhà thơ huyền bí, a visionary poetnhìn xa trông rộng, painter, printmaker,
neglected in his time, but considered the best poet in the twentieth century.
His notable studiesare by Northrop Frye, Anatomy of Criticism,andFearful
Symmetry: A study of William Blake (Princeton UP).
Tóm tắt ý nghĩa bài The Tyger: The Tyger là một trong những
bài thơ tiêu biểu của Blake trong Songs of Experience viết năm 1794. Chủ đề của
bài thơ là ai tạo nên con hổ, con vật gây kinh sợ uy nghi nhưng rất đẹp và cân
đối. Trong rừng sâu đêm tối, nhà thơ hỏi, ai là người tạo nên thân hình dữ tợn
mà cân đối của con hổ, ai lên núi hay bầu trời cao để tìm được ánh lửa trong mắt
hổ, ai mất bao công sức để tạo nên thớ thịt của trái tim hổ, và khi hổ đã thành
một con vật sống động, thi sĩ tự hỏi chắc Đấng Tạo hóa hài lòng vì Ngài đã dùng
búa, đe để tạo nên vẻ cân đối của con hổ, chắc Ngài hài lòng về tác phẩm
mà Ngài tạo nên. Hay nếu không phải Thượng đế thì là ai tạo ra hổ?
(Credit: Tóm tắt ý trong eng-literature.com)
(Muốn nghe giọng đọc bài The Tyger, quí vị có thể vào
Google, nghe Youtube của kịch sĩ Ian Richardson.)
Hổ cái tương đối khá chung tình nhưng khá kén chọn ‘bạn
tình’.
Theo Ranthambore, xin tóm tắt những điều kỳ lạ ta chưa biết
về hổ: Hổ là loài thú thuộc giống mèo rừng (wild cats) lớn nhất; nó có thể tát
chết người, có thể bơi đến 60 cây số một ngày, lưỡi có nước bọt là chất khử
trùng antiseptic nên dùng lưỡi liếm cho con, vằn đen vẫn in trên da dù da hổ bi
lột, nước tiểu có mùi giống như ngô có rưới bơ lỏng (như các cô cậu hay ăn
trong khi xem movies; như vậy khi đi picnic trong rừng nếu ngửi thấy mùi ngô
rang bơ, chớ tưởng là đang cùng bồ vào rạp hát) mà nên nghĩ là có hổ ở gần. Hổ
thích kiên nhẫn rình con mồi, rất giỏi hòa mình với lá cây và cỏ, khi có cơ hội
rồi mới nhẩy ra vồ, có thể tới 60 km/một giờ, nhưng chỉ một đoạn ngắn. Hổ còn
biết nhại tiếng kêu của một số con vật, và đây một ưu điểm để săn các con thú
khác. (credit: https://ww.ranthamborenationalpark.com/amazing-facts-about-the-tigers)
Hổ được chia làm 9 giống subspecies: Xưa ở từ Phía
Tây Thổ Nhĩ Kỳ và Transcaucasia đến bờ biển Nhật Bản và từ Nam Á đến Nam Dương.
Ngày nay trong 9 giống chia tùy địa lý: Bengal, Caspian, Siberian (Amur),
South China, Indochinese, Malayan, Bali, Javan, Sumatran. Ghi chú: ba giống tuyệt
chủng được gạch dưới tên. Nay chỉ còn sáu.
(Xem thêm: vi.wikipedia.org/hình tượng con hổ trong văn hóa
Như đã nói, hổ thích đi một mình trong rừng khi sống ở nơi
hoang dã, cần có một lãnh thổ nhiều kilomet vuông. Nếu có một con hổ nhỏ hơn
vào vùng đất của nó, thường thì nó để yên nếu không tranh giành với một con hổ
cái của nó. Một cách mà con hổ nhỏ hơn chịu phục con lớn là con hổ nhỏ hơn nằm
ngửa lưng trên mặt đất, dơ bốn chân lên trời để hở bụng lông trắng tỏ ý qui phục.
Con hổ lớn thấy vậy sẽ để yên cho con hổ nhỏ đi lại hay ở trong lãnh thổ nó cho
đến một ngày nào đó sau này, con hổ nhỏ hơn lớn thêm và đủ mạnh để tranh vùng đất
của hổ lớn, nếu lúc đó hổ lớn đã già hay yếu.
Nguyễn Du và Hổ
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã dùng chữ “Hùm” chỉ con cọp,
hay con hổ cả thảy 6 lần (Tham khảo: Đào Duy Anh, Từ Điển Truyện Kiều), Có thêm
một câu có dùng chữ “sư tử” để chỉ người đàn bà ghen là Hoạn Thư. Tích nhà thơ
Tô Đông Pha diễu bạn là Trần Quý Thường sợ vợ là nàng Liễu Thị ở tỉnh Hà Đông,
Sơn Tây, bên Tầu có tính ghen bốc lửa, nổi máu tam bành, trong đó có hai câu:
Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên..
(Bỗng nghe sư tử Hà Đông hống
Tay buông gậy chống bụng rối beng).
1. Miệng hùm nọc rắn:
-Thân ta ta phải lo-âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này (K2015)
(chỉ nơi hiểm nghèo)
My life I must take into my own hands,
beware a tiger’s jaws, a serpent’s fangs (HST, The Tale of
Kiều, p105)
(Đoạn này tả trong khi Hoạn Thư về thăm nhà, Kiều đang ở lầuQuan
Âm Các chép kinh thì Thúc Sinh tới, đôi bên than thở; ngờ đâu cả hai không biết
Hoạn Thư chợt về nấp một chỗ nghe. Thấytình trạng này mình không thể ở lâu được,
cũng có thể Kiều hiểu ý của Hoạn Thư quá thông minh muốn nàng phải rời đi, tuy
trước được cho phép ra chép kinh, nhưng tình trạng lúc đó nếu không thoát đi,
Thúc Sinh trong tương lai sẽ lén vợ gặp Kiều nữa, và nếu vậy, nơi đó sẽ thành một
nơi hiểm nghèo, Kiều quyết định lấy trộm chuông vàng trốn đi.)
2. Bán hùm buôn sói
-Nữa khi muôn một thế nào.
Bán hùm buôn sói chắc vào lưng đâu?
Should later it turn out that I have bought
A tiger in a poke, where shall I turn? (HST, p109)
(Bán hùm buôn sói: người buôn bán bất lương. Mại lang mãi
hổ, tả khoán vô bằng: bán sói buôn hùm, viết văn tự không bằng cớ.) (Đào
Duy Anh, TĐTK, p27).
3. Trướng hùm: bức màn, cái lều bằng vải bằng da cọp
kết lại làm chỗ ngồi, cũng chỉ chỗ chỉ huy của ông tướng.
Trướng hùm mở giữa trung quân
Từ quân cùng với phu nhân cùng ngồi.
- K2315-2316
(Đọan này tả Từ Hải để Thúy Kiều lập tòa án phán xử và trừng
phạt những kẻ xưa (như Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Tú Bà…) ác độc với nàng, và đền
công và thưởng những người tốt như vãi Giác Duyên.
Under a tent erected in the midst
Lord Từ and his fair lady took their seats. (HST,
p119).
4. Râu hùm hàm én (gốc từ nhóm chữ Yến hàm hổ cánh
– Hàm én cổ cọp – tướng của Ban Siêu, tướng nhà Hán). Cụ Nguyễn Du tả nhân vật
Từ Hải như tướng Ban Siêu đời Hán, nhưng cụ đổi “cổ cọp” ra “râu hùm”:
“Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.” - K2167
His shoulders were five inches broad [and] his body was ten
feet tall. (HST, p199.)
A tiger’s beard, a swallow’s jaw, and brows
as thick as silkworms—he stood broad and tall.
His shoulders were five inches [and] his body was ten feet
tall. (HST, p113)
The physiognomy of the military hero, Từ Hải, is similar to
that of the famous Han commander Pan Ch’ao.(HST, p198). Diện mạo Từ Hải được ví
như tướng Ban Siêu đời Hán. (Xem thêm: gs Phạm Thị Nhung trong “Kiều gặp Từ Hải”
(c2165-2210) trong https://gsptn.blogspot.com?m=1)
5. Kề răng hùm-sói gửi thân tôi đòi (K2670)
(She served a wolf, she did a tiger’s will. (HST, p137)
Tam Hợp đạo cô trả lời câu hỏi của vãi Giác Duyên tại sao Kiều
ăn ở hiếu nghĩa mà lại gặp toàn những nỗi đoạn trường: ấy là vì “Oan kia theo
mãi với tình.”
6. Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn (K2516)
The fiercest tiger, taken unawares, / will lick the dust and
meet an abject end (HST, p129)
Đoạn này Kiều kể lại Từ nghe lời Kiều về giải binh với triều
đình mong có ngày nàng cũng được về cố hương, ngờ đâu bị Hồ Tôn Hiến vờ tiếp sứ,
nhưng khi Từ bất ý, bèn đánh úp, anh hùng cũng chẳng ngờ, chết đứng ngoài mặt
trận.
7. Trước hàm sư tử người đằng la (K1350)
I shall be prey to her, your lioness.
(Ho-tung lioness sư tử Hà Đông – Si Shih)
(Đoạn này dùng “sư tử” chỉ Hoạn Thư, Kiều xin Thúc Sinh về
nói khéo với với chị cả Hoạn Thư, chị thương cho bề nào thiếp cũng cam, biết là
Hoạn Thư ghen như sư tử Hà Đông (Sơn Tây, Trung Quốc, mà Tô Đông Pha có bài thơ
ngắn diễu bạn).
VÀI CÂU TỤC NGỮ
-1. Không vào hang hổ sao bắt được cọp con (Bất nhập
hổ huyệt yên đắc hổ tử). If you dare not venture to enter the tigress’den,
how can you catch hercubs?
(Phải có gan mạo hiểm mới làm được việc khó.) Tương tự trong
tiếng Anh: No pain, no gain hay: Nothing ventured, nothing gained.
Lời tướng Ban Siêu đời Hán.
-2. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt
Tri nhân, tri diện, bất tri tâm
(Vẽ cọp, vẽ da, xương khó vẽ,
Biết người, biết mặt, nhưng không biết lòng).
(Nguồn: Tục ngữ Hán Việt: beta.wikiquote.org)
(In drawing a tiger, easy to draw its skin, (but) hard to
draw its skeleton,
In knowing a man, easy to know his face, (but) hard to know
his heart.)
Dịch giả Gió Vi Vu dịch thoát ý của hai câu trên trong:
Dò sông dò biến dễ dò,
Đố ai lấy thước mà đo lòng người.
Nguồn: Gió Vi Vu, TUYỆT CHIÊU (the CATBIRD SEAT) by James
Thurber (KhoaHocNet.com, 12-11-21).
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cùng nói ý ấy:
Cùng đường dù tính chữ tòng
Biết người, biết mặt biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào,
Bán hùm buôn sói chắc vào lưng đâu?
(K2119-2122)
If cornered, I must wed and serve a man
how do I know him, know his face, his heart?
Should later it turns out that I have bought
A tiger in a poke*, where shall I turn?
(HST, K2121-2122)
*proverb: buy a pig in a poke: Mua phải của giả vì không
xem kỹ. Mua mèo trong bị. Giáo sư Huỳnh Sanh Thông đổi “a pig in a poke” thành
“a tiger in a poke.”
-3. Le tigre aussi a besoin de sommeil. (proverbe
chinois)
Hổ cũng cần ngủ.
(Cơ thể của mọi loài cần phải ngủ để phục lại sức, cho dẫu mạnh
như hổ)
(Source: Citation-celebre.leparisien.fr)
-4. Hồ giả hổ uy.
The fox borrows the tiger’s terror.
Cáo mượn oai hổ.
(Tục ngữ Trung Hoa, câu này trách kẻ lợi dụng uy quyền của kẻ
lớn mạnh để hăm dọa hay hà hiếp kẻ khác.)
-5. Agneau en peau de tigre, craint encore le loup (proverbe
chinois)
Cừu dù có da hổ, vẫn sợ chó sói.
-6. Hổ phụ sanh hổ tử (tục ngữ Trung Hoa)
Cha tài giỏi làm sao, sanh con làm vậy. English: Tiger
father begets tiger son (Chinese). Nếu cha giỏi và con thất bại, thì đổi câu
này thành “hổ phụ sanh cẩu tử”).
-7. Hổ lạc bình-dương bị khuyển khi.
Cọp xuống đất bằng bị chó khinh.
(Hết thời, nay một mình tới đất lạ, bị những kẻ không ra gì
khi dể, hiếp đáp.(VNTĐ, A-L, phụ lục.)
-8. Ne blâme pas Dieu d’avoir créé le tigre, remercie-le
plutôt de ne pas lui avoir donné desailes. (proverbes éthiopiens/Indien)
Đừng trách Thượng Đế đã tạo ra con hổ; thay vì hãy thầm cám
ơn Ngài đã không ban cho nó thêm đôi cánh. (Tục-ngữ Éthiopie)
Trời sanh hùm chẳng có vây
Hùm mà có cánh hùm bay lên trời (Ca Dao)
(LVĐ &LNT, VNTĐ, A-L, p. 652).
(Source: https://citation-celebre.leparisien.fr)
-9. Cọp chểt để da, người ta chết để tiếng.
(Con hổ sau khi chết còn để lại bộ lông cho người đời quí trọng;
con người sau khi chết còn để tiếng lại. Khuyên ta nên ăn ở sao cho được tiếng
tốt.)
Hổ tử lưu bì nhân tử lưu danh.
Japanese: A man’s good name is as precious to him as its
skin to a tiger.
(Danh thơm đối với một người cũng quí như bộ da đối với con
hổ.)
Hãy so sánh câu tục ngữ Hán Việt này với câu tiếng Anh và tiếng
Pháp.Trong vở kịch Julius Caesarcủa Shakespeare.
Sau khi nhân vật Brutus người được Caesar quí mến đã cùng bọn
phản loạn đâm ông 33 nhát và nhát của Brutus là nhát cuối cùng, và là nhát hạ gục
Caesar, người thương Brutus như con, Brutus bước ra tiền đình quốc hội La Mã
nói với người dân La Mã rằng phải giết Caesar vì ngài có tham vọng và vì Brutus
yêu thành Rome hơn, thì đến lượt Antony bước ra nói:
The evil that men do lives
after them
The good is oft interred with
their bones.
(Antony, Julius Caesar, hồi III, cảnh ii, dòng 77-78)
(Nguyên văn: Những điều ác con người làm, vẫn còn sống sau
khi họ chết
Còn điều tốt thì thường chôn vùi theo với xương họ.)
Dịch vần:
Tiếng xấu, dẫu chết rồi, người đời nhớ mãi
Danh thơm, vừa nằm xuống, thiên hạ quên ngay.
(PTL phỏng dịch)
Le mal que font les hommes vit après eux
Le bien est souvent enterré avec leurs os.
(Jules César par William Shakespeare traduit par M.
Guizot (ebook project Guttenberg #15841, released May 17, 2005).
-10. Dieu a inventé le chat pour que l’homme ait un tigre
à caresser chez lui.
Victor Hugo
Thượng Đế đã tạo ra mèo để người có một con hổ để vuốt ve ở
nhà.
-11. Quand un homme désire tuer un tigre, il appelle cela
sport; quand un tigre desire le tuer, it appelle cela férocité.
George Bernard Shaw
Khi con người muốn giết một con hổ thì người ta gọi hành động
đó là “thể thao”; khi con hổ giết một người thì người ta gọi đó là “hung ác”.
(Source: https//
evene.lefigaro.fr/citations/mot.php?mot.tigre&p=2)
Hổ và Chính Trị
11. Qui est à cheval sur un tigre, n’en descend pas
aisément.(Proverbe chinois)
Cưỡi trên lưng cọp rồi khó mà bước xuống.
Trong thế kỷ 20, có ít nhất ba chính khách nổi tiếng tây
phương dùng ý của câu tục ngữ Trung Hoa kể trên “Ngồi trên lưng hổ khó bước xuống.”
=>a) Người thứ nhất: thủ tướng Anh Churchill:
“Dictators ride to and fro upon tigers from which they dare
not dismount. And the tigers are getting hungry.” Winston Churchill, “Armistice
– or Peace?” the Evening Standard (11 Nov. 1937).
Những kẻ độc tài cưỡi hổ đi đi lại lại mà không dám bước
chân xuống. Và những con hổ mỗi lúc một đói. (Thủ tướng Anh đọc diễn văn “Đình
Chiến hay Hòa Bình?”11 tháng 11 1937. Ngụ ý cảnh cáo những nước những nhà đại
kinh doanh Anh, Pháp, Mỹ vì e ngại chiến tranh mà tìm cách đình chiến với Đức
Quốc Xã trước khi chiến tranh thứ hai. Nhưng rồi Đức xâm lăng Ba Lan và Đệ Nhị
Thế chiến bắt đầu. (quoteinvestigator.com)
=>b) Người thứ 2: Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman:
“…Being a president is like riding a tiger. A man has to
keep on riding or he is swallowed.”
(Làm Tổng Thống cũng như người cưỡi hổ. Phải ráng cưỡi nếu
không thì bị hổ nuốt chửng.)
Tổng thống giải thích tiếp: “The fantastically crowded
months of 1945 taught me that a president either is constantly on top of
events, or, if he hesitates, events willsoon be on top of him. I never felt
that I could let up for a moment.”Những tháng vĩ đại đầy biến cố trong năm 1945
đã dạy tôi một bài học là làm tổng thống hoặc là phải không ngừng nắm vững các
biến cố, hoặc nếu ngần ngại, biến cố sẽ chóng tràn ngập. Nên không lúc nào tôi
ngưng nghỉ. (Harry S. Truman, Memoirs, vol II, Years of Trial and Hope (1956),
ch. 1. (Source: Quora.com)
=>c) Người thứ ba: John F. Kennedy
Trong diễn văn nhậm chức, tổng thống Hoa Kỳ trước tiền đình
quốc hội, Jan. 21, 1961, John F. Kennedy nói trong bài diễn văn:
“Those who foolishly sought power by riding the back of the
tiger ended up inside.”
Những kẻ xuẩn ngốc tìm quyền lực bằng cách cưỡi trên lưng hổ
rồi cuối cùng chấm dứt đời mình trong bụng hổ. (Diễn văn nhậm chức
Inaugural Address, Jan. 21, 1961.)
Nguồn gốc: câu nói trên --cưỡi lưng hổ chỉ e lúc bước xuống—Kị
Hổ Nan Hạ--gốc ở đâu mà ra:
--William Scarborough (c. 1875) “He who rides a tiger is
afraid to dismount. Kẻ nào cưỡi hổ thì sợ lúc bước xuống”—chính ông lại dùng
câu tục ngữ số 2082 trong cuốn Chinese Proverbs năm 1875. (Ch’i ‘hu nan hsia
pei).
(Source: William Safire,
www.nytimes.com/2005/02/06/magazine/metaphor-madness.html/)
Idioms
Tương tự với câu “cưỡi hổ chỉ e lúc bước xuống” có câu sau:
-Have a tiger by the tail:Nắm hổ đằng đuôi (rồi không
dám thả ra). Have become associated with something powerful and potential
dangerous.Nghĩa: Rơi vào tình trạng nan giải. Thí dụ: You have a tiger by the
tail: you bit more than you chew. Bạn nắm hổ đằng đuôi rồi: bạn nhận một việc
gian nan quá sức bạn.
(Richard Spears, McGraw-Hill Dictionary of American Idioms
and Phrasal Verbs (2005))
Ngữ Vựng để thỏa chí tò mò
Tiếng Pháp hổ đực gọi là TIGRE (tiếng Anh TIGER), hay tên
khoa học thuộc loài mèo, chi là Panthera và loài là tigris, (từ tiếng Latin, và
tiếng Hy Lạp tigris.) Hổ cái tiếng Pháp là tigresse. Tiếng Anh là
tigress. Tự điển Larousse ghi thêm nghĩa bóng của tigre: extrêmement jaloux và
cho thí dụ: Jaloux comme un tigre, femme aggressive (Phải chăng mấy nhà soạn tự
điển người Pháp và người Mỹ và các nhà từ điển khác, dám “liều lĩnh” ám chỉ mấy
cô đầm chân dài, và có móng đỏ chăng? Và không phải chỉ có một số cô đầm Pháp mới
bị đặt tên là “cọp cái” mà thôi; ở nhiều nơi, như quê hương Việt Nam, cũng có
những “bà hổ”mà quí ông nên cẩn thận khi gọi là “hổ cái”-- chứ tuyệt nhiên chớ
bao giờ gọi là “cọp cái”-- vì có thể bị hiểu nhầm, động chạm đến “ba bành” ai
đó. Tự điển The American Heritage Dictionary Fourth Editionthứ lớn, cũng định
nghĩa tigress là hổ cái, và cũng định nghĩa ai đó là “a woman regarded
as daring and fierce.” Một phụ nữ coi như táo bạo và hung dữ. Tự điển Webster’s
New World College Dictionary 2001 ngoài định nghĩa tigress là “a female tiger”
còn chú thêm nghĩa bóng là “A woman thought of as like a tiger in sensuous
sleekness, ferocity.
À! in sensuous sleekness: một bà được người ta nghĩ như một
con hổ, mượt mà khêu gợi, hung dữ.
|
Bên con cọp tượng trưng sức mạnh và uy nghiêm, người đẹp
tượng trưng phụ nữ can trường của thế kỷ 21. Hình Sarah
Richter, Pixabay |
Thú
lai giống: Trong sở thú hay khu bảo tồn, hổ hay sư tử có khi
được nuôi chung, Hổ có thể sinh con với sư tử. Hay ngược lại. Hổ con mà bố là hổ,
mẹ là sư tử, tiếng Pháp gọi là: Tigron hay Tiglon. Tiếng Anh:Tiglon
(hay tigon). Loại ‘sư hổ’ bố sư tử mẹ hổ lai giống thường lớn hơn bố mẹ
sinh ra chúng.
Còn bố là sư tử, mẹ là hổ, con đẻ ra tiếng Pháp gọi là gì? Ligron
hay tigon.
Collective noun: Một đoàn hổ đi với nhau gọi là an ambush
of tigers or astreak of tigers.
Hổ Giấy:
Mao Zedong dùng tiếng Hổ giấy, Tigre du papier, Paper tiger,
nguyên văn hổ giấy zhilaohu chỉ một vật hay người bề ngoài tưởng là mạnh mẽ hay
đe dọa nhưng không hiệu quả, và câu nói nổi tiếng đã do Mao Zedong của đảng CS
Trung Quốc tuyên bố. Nhưng thực ra người đầu tiên dùng danh từ này là Robert
Morrison, nhà truyền giáo và soạn từ điển người Anh trong Tập Ngữ Vựng Tiếng Quảng
Đông năm 1828. Trong một cuộc họp mặt với Henry Kissinger năm 1973, Mao kể một
chuyện vui là ngưởi đầu tiên dùng tiếng “paper tiger” khi nói chuyện với ký giả
Anna Louise Strong tháng 8, 1948. “Bom nguyên tử là Hổ giấy mà người Mỹ dùng để
hù dân.” Năm 1956 và 1957, cũng đàm thoại với Strong, Mao nói: “ Bề ngoài thì mạnh
nhưng thực ra không có gì phải sợ…” Khi Mao chỉ trích Thủ tướng Nga Nikita
Khrushchev, vì hòa hoãn với Hoa Kỳ, Thủ tướng Nga được tường thuật là đã tuyên
bố đáp lại: “Hổ giấy có răng nguyên tử.” (The paper tiger has nuclear teeth.)
(Nguồn: en.wikipedia.org under “Paper tiger”).
G.S. Phạm Trọng Lệ
--Viết xong 15 tháng 11, 2021. Bổ chính 1/12/22. Bài này đã
đăng trong Tam Cá Nguyệt Cỏ Thơm tháng 12/2021 và Firmament số January
2022--PTL
Tham Khảo
-Bài này dùng tài liệu trong wikipedia tiếng Anh và tiếng Việt.
Huỳnh Sanh Thông. The Tale of Kiều.Yale University Press,
1983.
Lê Văn Đức& Lê Ngọc Trụ. Việt Nam Tự Điển.Saigon: Khai
Trí,1970.
Đào Duy Anh.Tự Điển Truyện Kiều.1971.
William Harmon. The Top 500. New York: Columbia University
Press, 1992.
Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim.Truyện Thúy Kiều. 7th
ed. Đại Nam, 1925 (rpt).
Justin Kaplan, Gen. ed., Bartletts’ Familiar Quotations. 16th
edition, Boston, Toronto, London: Little. Brown and Company, 1992.
Citations:
https://www.dicocitations.com/proverbes-dictons-tigre-php
https://even.lefigaro.fr/citations/mot.php?mot=tigre&p=2
https://citation-celebre.leparisien.fr