Hình ở xa là cột đã trói anh vào trước khi bắn và nấm mộ
đắp sơ sài dưới chân núi ở Bình Thuận, Phan Thiết
Chiếc xe ngừng lại ở cây số 19 của huyện Hàm Thuận trên quốc lộ 1A.
Ngôi mộ nằm dưới chân núi đất cách quốc lộ chưa tới một km, ngày
đầu tiên ra thăm anh, tôi hỏi người dân quanh vùng hầu như ai cũng biết
về vụ xử bắn mươi năm trước, họ còn tả rất chi tiết về cái chết
của anh. Sau ngày anh bị bắn thì một người quen đã vào Sàigòn báo
tin, anh chị Sáu vội vã đến chụp mấy tấm hình, ngôi mộ đắp sơ sài
với tấm bia bằng gỗ viết tên anh, cây cột trói anh vẫn để đó và mấy
viên sỏi dưới chân còn vướng máu được anh chị gói cẩn thận cất giữ
như lưu lại nỗi đau của gia đình. Lá thư được anh chị gởi vào trại
có mấy chữ “Bảy đã về với Má ngày 14/6/1982” như một mật khẩu để
tránh sự kiểm duyệt của trại mà đọc ra chỉ có mình tôi hiểu. Vậy
là anh đã bỏ chúng tôi ra đi thật rồi! Biết trước thế nào cũng có
ngày này. Nhưng sao tôi vẫn thấy lòng quặn thắt nhói đau khi phải đối
mặt với sự thật đau buồn.
Đêm đó hai mẹ con vào mùng, tôi ôm thằng bé nghẹn ngào kể cho nó nghe
chuyện của Ba bay về trời như dũng sĩ trong truyện cổ tích bay đi
giết con quái vật hung ác. Nó còn quá nhỏ để đón nhận nỗi buồn
quá lớn này. Tôi không thể làm trái tim VyDân tan nát, đêm đó sau khi
dỗ thằng bé ngủ, tôi đã khóc như chưa bao giờ đau đớn đến như vậy,
biết là dù sớm hay muộn thì mình cũng xa nhau, nhưng mà Tài yêu ơi,
anh có thanh thản để về cõi vĩnh hằng khi bỏ lại mẹ con em?
Anh nằm đây chắc cũng yên vì nghe đâu trước kia ngọn đồi này là nơi
đóng quân của một đơn vị lính VNCH, ít ra anh cũng có đồng đội ở
cạnh để cùng chia sẻ nỗi đau đất nước điêu tàn..
Dù xa nhưng tôi vẫn tới lui thăm anh, thủ thỉ chuyện này kia cho nỗi
buồn nguôi ngoai, khi đau khổ người ta thường kêu Trời ơi, còn tôi chỉ
biết khấn nguyện anh thôi, “Hãy phù hộ cho mẹ con em Tài ơi! Phù hộ
cho con dế mèn VyDân bé bỏng của chúng ta đang phiêu lưu nơi xa xăm
nửa vòng trái đất được bình yên.” mặc dù tôi biết bệnh tật của
thằng bé khó mà phục hồi.
Vùng anh ở mùa mưa nước lầy lội, mùa nắng đất khô cằn nứt nẻ, ngôi
mộ như lún sâu thêm bên dưới, có lần VT(con ông Thầy cũ ) theo tôi ra
tận đây, hắn cũng cảm phục anh quá nên hai chị em khiêng những hòn đá
dựng lại ngôi mộ cho tươm tất. Những tưởng anh sẽ yên nghỉ lâu dài nơi
đây, nhưng không ngờ họ có kế hoạch mở rộng quốc lộ trong vài năm
nữa, có thể sẽ đào tới chỗ anh nằm, Suy nghĩ mãi rồi mới tính
chuyện hốt cốt, “Phải mang anh về nhà thôi Tài à, em không muốn mộ
anh bị vùi dập nát tan giữa nơi xa lạ này, mặc dù em vẫn chưa biết
anh thích ở chùa hay ở nhà thờ, người như anh thì chỉ lên thiên đàng
thôi, anh sẽ làm ngọn gíó trời bay cao lồng lộng hay làm ánh sáng
trên một hành tinh xa xôi,rong chơi quên lãng...em tin thế cho lòng
nguôi ngoai”
Tôi thuê người ra mộ, một tay dân làng ở đây nhận bốc cốt với giá
phải chăng và thêm rượu thịt để hắn lấy can đảm, vì theo lời hắn kể
thì anh chết do hung khí như vậy nên linh thiêng lắm, đêm đêm từ trong
nhà ngó vô núi, hắn thấy bóng người ngồi trên mộ trong ánh lửa bập
bùng, dân trong vùng kháo nhau như huyền thoại về ngôi mộ duy nhất
trong vùng đất này.
Đất đá xới tung lên cả một buổi chiều mà không thấy anh đâu, tôi cứ
khấn thầm “Tài ơi, giúp em” mà lòng chỉ muốn điều ngược lại, nghĩa
là không có anh trong huyệt mộ này, nghĩa là anh thoát chết như phép
lạ rồi bỏ đi đâu mất.. Cái hy vọng mong manh như trẻ con chờ ông Bụt
hiện lên cho bao điều ước thần kỳ. Thấy tội nghiệp cho tôi vô cùng
trong ảo tưởng mơ hồ ngay lúc này, cả đời tôi cứ ngồi mơ phép lạ
xảy ra!
Cuối cùng thì cũng tìm thấy mấy sợi dây nylon cùng khúc xương ống
chân, khiến tôi hình dung mọi việc xảy ra trong ngày tang tóc đó, chắc
chúng nó đã trói anh, bịt mắt bịt miệng anh, kê súng bắn hàng loạt
đạn vào người anh và sau đó ném xuống hố như người ta vất xác
một con chó.
Nỗi đau không thể diễn tả được, tôi nghĩ mình phải thật can đảm để
đối diện sự thật này. Lần đầu tiên trong đời tôi làm một việc
quá sức chịu đựng của mình, cứ tưởng như trong phim khi mở nắp hòm
ra, bộ xương khô nằm ngay ngắn trong đó.
Nhưng đây là cái chết của một tử tù, bọn Cộng sản đã bắn anh ấy
bằng bảy phát súng ghim bất kỳ chỗ nào trên thân thể anh như một mục
tiêu cố định, và phát ân huệ trên màng tang để kết liễu sự sống
cuối cùng!
Những gì tôi tìm thấy dưới đáy mồ mới là chứng tích của sự tàn
ác dã man mà luật pháp quốc tế chắc cũng không thể chấp nhận được
khi thi hành án tử hình. Anh là kẻ thù của cả chế độ nên bọn chúng
phải hành xử như vậy cho đáng tội hay sao?
Không còn cái gì hết ngoài cát bụi thời gian, bộ xương nằm cong queo
còn vướng víu dây nhợ của người bị trói, đầu gục sang một bên với
hộp sọ vỡ nát, chỉ có chiếc dép nhựa duy nhất nằm trên phần bụng
anh, và cục đá xanh quấn giẻ nhét vào miệng vẫn còn nguyên màu vải,
tôi cũng nhận ra tấm thẻ nhựa lủng một lỗ mà lúc chia tay tôi đã đưa
anh ấy giữ, trong đó là hình vợ con, tôi nghĩ nó đã nằm trên
túi áo trước ngực anh, bọn chúng đã bắn trúng tim anh, mấy tấm ảnh
đã hòa vào cát bụi, da thịt, quần áo, mọi thứ đã mục nát không
còn dấu tích vật dụng nào sót lại ngoài vài hột nút nhựa của bộ
đồ tù.
Sự đau đớn uất hận trào dâng khi tôi hình dung ra những gì mà anh ấy
đã phải chịu đựng trước và sau khi chết.Nghĩa tử là nghĩa tận, có
thể tôi không hiểu hết ý nghĩa của điều này nhưng tôi biết anh ấy
chết trong câm lặng vì cục đá nhét vào miệng, anh cũng không đi được
vì bị trói, anh không nhìn thấy gì vì cặp kiếng cận của anh bị
chúng lấy đâu mất rồi, anh chỉ có một chiếc dép thôi, khi chúng kéo
lê anh từ cột bắn đến huyệt mộ nó đã rớt đâu mất và chiếc còn lại
được đá xuống sau cùng trên bụng của anh trước khi bọn chúng lấp đất
lại.
Cái ác của kẻ giết người không phải là phát súng mà là hành động
thô bạo bất nhân trong giờ phút cuối cùng, họ đã thi hành bản án
bằng trái tim vô cảm của loài dã thú. Mãi mãi tôi sẽ không bao
giờ quên sự thật kinh tởm đáng nguyền rủa này.. Tôi mang tất cả
những gì được tìm thấy dưới huyệt mộ đem về như một chứng tích của
sự tàn ác. Tôi nghĩ đến bản cáo trạng dành cho Cộng sản, chế độ
bất nhân này sẽ phải sụp đổ, chỉ còn là thời gian sớm hay muộn
thôi.
Buổi chiều xám xịt màu mây, giữa vùng núi non gió lộng này tôi không
biết phải làm sao với mớ xương cốt xếp lộn xộn trong nón lá, chưa
bao giờ tôi làm việc này và cũng không ai chỉ dạy tôi phải làm thế
nào cho đúng nghi lễ, phải coi ngày lành tháng tốt để mang anh về cho
được giờ hoàng đạo kẻo xui rủi cả nhà... Câu chuyện tù đày của
chúng tôi là cái xui tận cùng rồi, không còn gì để sợ, để mất
nữa.. Tôi tin ông Trời có mắt và có lẽ công bằng!
Tôi chất củi trước bia mộ để hỏa táng xương anh thành tro bụi, sau đó
trịnh trọng bỏ vào cái bình gốm nhỏ. Bóng chiều lãng bảng khi mặt
trời đang khuất dần sau núi, gió lạnh khiến tôi rùng mình, tôi
nghĩ hồn thiêng anh đang quanh quẩn bên tôi. Buồn ơi!
Ra đường đón xe về Sàigòn mà lòng lo lo, xe mà biết mang hài cốt
thì không ai dám chở, họ cũng sợ xui như bao người, tôi cẩn thận gói
cái hũtrong chiếc khăn choàng, bỏ vào cái ba lô đeo ngược ra trước,
gương mặt thật bình tỉnh mà run khi bước lên xe,lúc sống tính anh
cũng thích trêu đùa nghịch ngợm, biết đâu được anh phá chuyến xe này,
quả thật, tới ngã ba Dầu Giây xe bị “ban”, gần vô ngõ
Saigòn xe chết máy lần nữa. Tôi ngồi im trên xe mà cứ vái thầm “Xin
cho đến nhà bình yên anh ơi!”
Tôi viết thư hỏi ý những người thân của Tài bên Pháp nên để anh ấy ở
đâu, anh Ba hỏi vặn lại “Vậy em muốn để ở đâu?- “Em muốn để ở nhà” .
Tôi đặt anh bên cạnh hình Ba má Sáu trên bàn thờ và mỗi ngày đốt
nhang cho hương linh anh ấm cúng, tôi vẫn tin rằng anh luôn ở bên tôi để
chở che tôi trong biển đời mênh mông đầy bất trắc này.
Ngọc Ánh
P/S Để tưởng nhớ ngày anh mất 14/6/1982