Mỗi lần nghe nhắc, mất gốc là nghệ sĩ mất nguồn sáng tạo,
tôi lại có cảm giác không yên ổn. Như thể mình đang là một công dân đứng đắn của
quốc gia nghệ thuật mà thỉnh thoảng đội bảo vệ cứ gõ cửa, hỏi mình có cần họ
giúp gì không. Cũng gần giống cảm giác như khi bị nhắc, rằng nghệ thuật muốn thế
nào cũng phải phát sinh từ hiện thực. Tôi vô cùng biết ơn gốc rễ, hiện thực, mọi
quê hương và căn cứ địa khác của nghệ thuật, cũng như biết ơn đội bảo vệ sốt sắng,
song trong thâm tâm thì mong các quý vị đó đừng ở chơi quá ba ngày. Phần đông
các nghệ sĩ không sáng tạo gì hết. Một số ít sáng tạo trong một giai đoạn ngắn.
Một số vô cùng ít sáng tạo tương đối lâu dài. May ra đếm trên đầu ngón tay được
những nghệ sĩ suốt đời sáng tạo trong lịch sử nhân loại. Như vậy tìm ra nguồn
cơn của sáng tạo thì khó và điều đó mãi mãi là bí ẩn, chứ một lần nữa cho sự
không sáng tạo thêm một nguyên cớ nào có ích gì. Nhà văn Việt ở bên ngoài có thể
cho rằng mình không viết nổi, vì thiếu nước Việt chẳng hạn. Nhà văn Việt ở bên trong,
nếu viết cũng không nổi, có lẽ vì quá thừa nước Việt chăng?
Tôi vốn tin rằng theo bất kỳ một nghĩa nào người ta cũng không thể mất gốc. Nếu không có, chưa bao giờ có một gốc rễ nào đó, thì mất nó khác nào mất con cá ở ngoài lưới, một con cá thật to. Những thế hệ con cháu chúng ta ở hải ngoại, tuy được mệnh danh là người Mỹ, người Pháp, người Đức… gốc Việt, nhưng chữ gốc này cùng lắm chỉ tiết lộ những đặc trưng chủng tộc nào đó chứ không phải đặc trưng văn hoá. Những thế hệ ấy bắt rễ trong văn hoá của các quốc gia mà họ sinh trưởng, họ không thể đánh mất văn hoá Việt, là thứ họ không thực sự sở hữu. Cái gốc thứ hai này mới đáng kể. Thậm chí cái gốc thứ nhất, vận vào họ, tôi cho là đã khiên cưỡng. Chẳng những bản năng thứ hai mà bản năng tự nhiên ở những thế hệ ấy cũng đã thay đổi. Da họ phản ứng với ánh nắng và độ ẩm nhiệt đới khác da người Việt, răng họ mắc hay không mắc những bệnh khác răng người Việt. Họ không rung đùi. Không lê dép loẹt quẹt. Không nhai chóp chép. Không ngồi xổm. Không xỉa răng tung tóe và kháo chuyện ầm ĩ nơi công cộng. Không chen lấn. Không sợ công an. Không mang những cái gene thuần Việt như vậy. Chúng ta thường cảm động trước những cố gắng tìm hiểu về Việt Nam của họ và gọi đó, một cách đầy thiện cảm và cũng đầy mơ hồ, là những cố gắng “tìm về cội nguồn” và lại càng nhiệt tình khích lệ họ viết tiếng Việt. Trong phần lớn các trường hợp ăn giải khuyến khích như vậy, phẩm chất văn chương – mà biểu hiện hiển nhiên nhất là ở chất lượng ngôn ngữ – xếp hàng cuối cùng. Tôi không muốn làm kẻ phá đám khuyến Việt, song thương tiếng Việt như thế cũng khổ cho tiếng Việt lắm.
Quyết định viết bằng một ngôn ngữ nào là kết hôn với nó cả đời,
hưởng nó mà cũng chịu đựng nó, thậm chí cắn răng mà chịu, đúng theo nghĩa đến
chết mới chia ly. Cuộc hôn nhân thủ cựu, hà khắc, trói buộc này dĩ nhiên không
phải là phòng thí nghiệm hay chuyến du lịch. Ở đa số những tác giả thử viết bằng
tiếng Việt nói trên, tôi có cảm tưởng đôi bên còn chưa cầm tay nhau, trong khi
rất có thể họ đã ăn nằm như thế nào đó với một bản ngữ khác. Cảm giác chưa cầm
tay nhau đương nhiên rất phỉnh nịnh và quyến rũ, khiến người chưa vỡ tiếng Việt
có thể lâng lâng bay như trên lưng ngựa Phù Đổng, trong khi người dày dạn lại
như bò lê dưới gánh nặng mà ngôn ngữ ấy có thể trút xuống mỗi thành viên đơn lẻ
của mình. Không cần phải quẩy trọn gánh ấy mới là mang quê hương theo, tôi biết
vô số người đã trút quá nửa gánh ấy xuống dọc đường di tản mà vẫn còn nguyên là
người Việt. Nhưng cưỡi ngựa mà xem hoa như nói trên thì ít liên quan đến việc
tìm về cội nguồn Việt. Cách đây không lâu tôi đọc bản dịch một truyện ngắn của
một tác giả gốc Việt viết tiếng Anh. Bản tiếng Việt chỉ cho thấy đấy là văn dịch,
không tiết lộ một văn phong riêng tư gì đã đành, mà cố hình dung bản gốc tôi
cũng chẳng tìm được một điều gì nhất thiết liên quan đến Việt tính, song truyện
ngắn đó được giới thiệu đại loại là nghệ thuật của một thế hệ tuy đã dùng ngôn
ngữ khác, nhưng vẫn “man mác tâm hồn dân tộc”. Tôi hy vọng dân tộc Nga không
soi Lolita để tìm dấu vết tâm hồn mình. Còn Kafka? Tiệp, Áo, Đức hay Do Thái
giành được bản quyền tâm hồn dân tộc ở đó?
Nếu một gốc rễ nào đó từng tồn tại thì đánh mất nó cần công
phu vất vả lắm. Vốn liếng của một cộng đồng văn hoá cấp cho mỗi người khi vào đời
khác với món gia tài của cha mẹ để lại. Khả năng hoàn toàn phá sản ở trường hợp
thứ hai có thể xảy ra qua đêm, nhưng không dễ gì thành trắng tay ở trường hợp
thứ nhất. Người ta tự nhiên có nó, ít nhất như mang mẩu ruột thừa sót lại từ
thuở tổ tiên gặm cỏ. Lắm người phải cắt đi mới sống được, còn lại không mấy ai
dành cho nó một nửa ý nghĩ. Như các vua Hùng trong mỗi ngày đi làm, đóng thuế,
kẹt xe, nghe tin bạn bè trong nước vừa bị bắt và viết vô vọng vài trang vô tăm
tích của một người Việt nơi đất khách. Tôi mang nó, biết rõ nó nằm ở chỗ nào,
và hài lòng rằng nó chưa bao giờ viêm. Nhưng tôi không hình dung được con đường
“tìm về” mẩu ruột thừa ấy.
Lấy ví dụ một người sinh trưởng trong tiếng Việt. Là ngôn ngữ
của một xứ phương Nam, nơi hoả vượng mà vạn vật khuếch trương hương vị như cách
lý giải của người xưa, tiếng Việt giàu vốn từ chỉ tỉ mỉ từng sắc thái, cấp độ của
muôn loại mùi chẳng hạn. Hẳn cũng vì hoả vượng, mà những mùi khó chịu cũng được
cơ hội bành trướng. Mùi phân mèo thì chua, phân gà hôi, phân trâu hắc, phân lợn
nồng, phân trẻ con thum thủm, phân người lớn thối, còn mồm ai đó thì thối hoắc.
Mùi và tình trạng thực phẩm hỏng trong bếp Việt mới thực đa dạng. Cá thì tanh,
thịt thì ôi, cơm thì khê, rau thì oi khói, dưa thì khú, mắm thì khắm, gạo thì hẩm,
trứng thì ung, khoai thì ủng, cháo thì vữa, canh thì thiu, lạc thì mốc, mỡ thì
khét lẹt… Sau này người ấy sống hẳn ở một xứ lạnh, hoả chẳng vượng, vạn vật
không phát hết mùi, mũi xứ người chắc cũng nhạy không kém mũi xứ ta, nhưng tiếng
nước người cho chân thối, cá thối, tiền thối, chính trị cũng thối cả loạt, muốn
phân biệt phải dùng thêm từ mô tả, không có chữ nào, chỉ bằng chính nó, thoả
mãn cái biết của khứu giác như trong tiếng ta. Một lúc nào đó, người ấy thậm
chí có thể quên cái vỏ âm thanh của những từ Việt chỉ mùi, nhưng bản thân những
mùi đã từng có một tên riêng ấy, từng là những thực thể đặc thù ấy, trong sâu
thẳm không dễ gì hoà chung làm một với thối và chỉ thối. Giữ được mùi quê như
thế, thụ động và ở tít một nơi ẩn khuất nào đó trong lòng, theo tôi đã là bảo
quản gốc gác. Với người viết, ai biết giữa một mùi mong manh đã mất tên và một
nền tảng nhận thức được mệnh danh chắc nịch, cái gì nhiều sức khuấy động hơn?
Cộng đồng Việt nhỏ bé ở bên ngoài lại có một phẩm chất đặc
biệt: nó bảo tồn rất nhiều khía cạnh văn hoá Việt mãnh liệt và cuồng nhiệt hơn ở
chính quốc. Một lúc nào đó, tôi e rằng các học giả muốn truy tìm dấu tích lịch
sử dân tộc Việt, thay vì đi Hà Nội có lẽ phải đến Quận Cam. Cội rễ có thể bị bật
tung tại chính chỗ phát sinh, nhưng lại dai dẳng sống sót ở những vùng biên xa
xôi nhất. Việt Nam hải ngoại là một vùng biên như thế. Xin lấy già nửa thế kỷ
lưu lạc của văn chương tiền chiến làm ví dụ. Lấy lời than năm 1917 của Phạm Quỳnh,
một trong những nhà khuyến Việt nhiệt thành mà bi đát nhất, làm mốc, rằng Quốc
ngữ khi ấy còn sài đẹn ấu trĩ như tiếng bi be của đứa lên ba, khiến bậc cao sĩ
“ngồi hầu chuyện các văn-nhân thi-sĩ nước Tàu nước Tây vẫn còn sướng hơn“, và
“trong khi họp-tập năm ba anh em ngồi với nhau, bàn những chuyện thiết-tha, nói
những điều tâm-sự, mà đương câu chuyện phải pha một hồi tiếng Tây hay điểm mấy
câu tiếng Tàu“, thì tiếng Việt không đầy hai thập kỷ sau của văn chương tiền
chiến là một thành quả vĩ đại. Hai thập niên sau nữa nó đã ngắc ngoải, và chậm
nhất là sau Hiệp định Genève, miền Bắc đã kết thúc thời kỳ quá độ ngôn ngữ, để
các thế hệ sau đó có thể yên tâm mà nói giọng hiện thực xã hội chủ nghĩa thuần
khiết. Thế hệ tôi quả là miệng không uống giọt sữa nào, bút không chấm giọt mực
nào của tiền chiến. Lại hai thập niên sau, nếu nước Việt không tái thống nhất,
có lẽ tôi chẳng có dịp thử nếm mùi vị của một quá khứ không xa ấy. Cả một nền
văn hoá tiền chiến theo chân người-Bắc-54 di cư mà cố thủ trong lòng hồi cổ, và
sinh sôi trên mảnh đất Nam bộ vốn không quá khắt khe. Rồi lại hai thập niên sau
nữa, Nam bộ ấy đã đổi khác, muốn gặp văn chương tiền chiến phải tiếp tục di tản,
giạt mãi tới vùng chót, bám gót người Việt hải ngoại. Ở tít nơi hạ nguồn này, một
thành quả từng là vĩ đại mãi mãi là vĩ đại. Một nửa thế kỷ chen vào giữa xua đuổi
không có giá trị gì. Tôi từng ngẩn ngơ, khi đọc thơ của một tác giả hải ngoại
cùng lứa, thấy xuân mộng, hồn mơ, cõi tiên, quan san, tống biệt, hận thu, đêm
liêu trai, trăng mất ngủ, gió về đâu, sầu mấy kiếp, lệ vơi, tình rơi, đời ơi,
trời hời…, như lạc vào bảo tàng văn học. Như vậy cũng có thể phỏng đoán, chẳng
hạn tiếng Việt hiện thực xã hội chủ nghĩa nếu có mất mát tại chính quốc, chắc
còn chỗ trú lâu dài nơi người Bắc tị nạn đời mới tại Đông Âu. Bảo hoàng hơn vua
là tính cách muôn thuở của tỉnh lẻ. Càng xa nguồn càng bị trói không giãy nổi
khỏi nguồn. Như thể văn chương Việt hải ngoại đau ruột thừa triền miên mà không
dám cắt phăng cái mẩu nợ nần ấy.
Vào chính lúc này, khi xã hội Việt Nam ở bên trong đang lên
cơn truyền thống dân tộc, như nó đã từng lên những cơn kích động kỳ lạ khác mà
không sẵn rơ-le tự ngắt, liệu một nhà văn Việt ở bên ngoài có nên mạnh dạn vứt
đi chiếc cân tiểu ly thường thủ sẵn trong tay áo, bên này là dân tộc, bên kia
là thế giới, hay không. Cái dụng cụ tinh tế ấy chưa từng dùng được cho một tác
phẩm nặng cân nào của văn học Việt đương đại. Vả lại, cái đầu của nhà văn Việt
thì hoan nghênh một sự hài hoà kết hợp, mà lòng thì nghiêng về truyền thống
hơn. Văn chương Việt ra ngoài nước ắt có sứ mệnh làm một nền-văn-học-đau-lòng-con-cuốc-cuốc,
lại càng viết bằng bụng nhiều hơn bằng đầu, yêu cái đã có hơn đam mê cái chưa
có, ngoái nhìn cội rễ xa ngái hơn khao khát những vùng đất lạ ở sát nách, chăm
bẵm những lý tưởng nghệ thuật của cha ông mình để lại như con đẻ, còn lý tưởng
của cha ông kẻ khác là con ghẻ, bằng mặt mà không bằng lòng. Tôi không dám cho
thế là dở. Nếu cái đã có đủ đồ sộ thì ở tù trong đó chắc cũng được sung sướng.
Có lẽ nhiều người mãn nguyện như thế hơn tôi tưởng. Khi đọc D. H. Lawrence chẳng
hạn, tôi không bất giác coi ông là nhà văn Anh dù ông viết tiếng Anh về nước
Anh, sau này vỡ lẽ rằng ông cả đời lưu lạc. Còn khi đọc một số đồng nghiệp Việt
ở hải ngoại, tôi bất giác cho rằng họ chưa bao giờ rời nước Việt, mặc dù các
nhân vật của họ đi gần khắp thế giới, chỉ trừ đi Phi đen. Văn học Việt hải ngoại
không thiếu Việt Nam. Mà thiếu thế giới.
Ngay cả sự thiếu thốn tiếng Việt ở bên ngoài, theo tôi cũng
là một trở ngại cần thiết. Chúng ta đáng được cái handicap này thử thách hơn những
chướng ngại khác từng biết. Mỗi người cầm bút đều hơn một lần than thầm, hoặc
kêu ầm, về sự bất lực của ngôn ngữ, rằng cái gì mà ngôn bất tận ý với bất tòng
tâm tòng tình. Như thể điều mình muốn diễn đạt vượt quá sức tải của ngôn ngữ.
Tôi không công nhận cái bi kịch nghề nghiệp đó. Ngôn ngữ cũng như thời gian, là
vô cùng và vô lường, nhưng ai cũng có một phông thời gian và một kho từ vựng ít
nhất là vừa vặn cho chính mình. Vốn liếng ấy không thể bất cập nhu cầu của bản
thân, mà chỉ bất cập nhu cầu của kẻ khác. Nếu chỉ thuần túy sống trong môi trường
ngôn ngữ Việt, dù có là một thiên tài cũng chỉ đi đến hết cái giới hạn của tiếng
Việt hiện có, hay nói cách khác, lên đến đỉnh cao của những nhu cầu diễn đạt hiện
tại của dân tộc. Những nhu cầu ấy, có trời chứng giám, tự biết chừng mực của
mình. Trong suốt lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam, không một nhà lập
ngôn quan trọng nào của chúng ta không cùng một lúc đứng vững cả hai chân, một
trong tiếng Việt, và một trong ít nhất một ngôn ngữ khác. Chính sự bất lực tạm
thời và tất yếu của tiếng Việt trước nội dung cần diễn đạt của một cộng đồng
ngôn ngữ khác như chúng ta hằng chứng kiến trong cuộc sống lưu lạc, vâng, chính
nó là cái may trong cái rủi của nhà văn Việt xa xứ. Ta hãy xem hắn có những cơ
hội gì.
Hắn có thể vừa bị cuốn theo ông chủ ngôn ngữ mới, vừa trung
thành trong giới hạn cho phép với bà chủ cũ, là vốn liếng tiếng Việt mang theo.
Trong trường hợp này, sớm muộn hắn cũng rời bỏ văn chương tiếng Việt. Mỗi năm
viết dăm bảy trang là cố gắng cuối cùng của hắn, để chăm sóc một kỷ niệm về tiếng
Việt hơn thực sự dùng tiếng Việt. Rồi hắn sẽ thử viết bằng ngôn ngữ mới. Bằng một
ngoại ngữ. Và có cảm tưởng mình cũng không tồi. Dường như sự tầm thường của hắn
trong tiếng Việt có thể biến mất trong ngoại ngữ, chí ít hắn trở nên khúc chiết
và ít bay bướm hơn. Tuy mỗi khi trở về với tiếng Việt hắn lại xoàng như cũ,
nhưng điều đó không quan trọng, vì chẳng cộng đồng văn chương nào thiếu bóng những
thành viên như thế. Quan trọng là, hắn không còn đặt kỳ vọng ở tiếng Việt, và đấy
là sự giải phóng: giải phóng hắn, để hắn tự do đi tìm một ngôn ngữ khác. Và giải
phóng tiếng Việt. Khỏi một mối tình hờ. Công cuộc giải phóng này không thể xảy
ra ở Việt Nam.
Hoặc hắn quyết liệt tẩy chay cái ngôn ngữ lạ mặt kia ngay từ
đầu, và trong thế phòng thủ đơn độc cũng có thể kiêu hãnh mà đi hết giới hạn đã
định của mình. Văn giới Việt Nam hải ngoại biết không ít những cuộc đi nhẵn nẻo
đường cùng như vậy. Giãy chết cũng có thể hùng tráng, và tang lễ hoàn toàn có
thể đẹp.
Hoặc hắn phải nhảy vọt. Vượt khỏi một lãnh thổ ngôn ngữ, một
giai đoạn ngôn ngữ, một số phận ngôn ngữ cho trước. Tôi tin rằng, sinh lực của
Việt ngữ phụ thuộc vào những thành tựu vượt rào như vậy, chứ không nhất thiết
còn hay mất ở việc vốn từ bên ngoài có bị tiêu lẹm, có kém cập nhật chút ít so
với ở Việt Nam.
Tiếng Việt trong nước hiển nhiên có những cách nảy nở ngoạn
mục của nó, và công trình ngôn ngữ của một tập thể cả trăm triệu người nhất định
là trên tầm cỡ của một cố gắng cá nhân. Ngôn ngữ chính thống không mấy tiến bộ,
vẫn nhiệt liệt quán triệt đẩy mạnh phát huy như đã biết đến hết tập cuối, song
phần còn lại rực rỡ hơn bao giờ. Tôi có cảm giác, người Việt chưa từng ăn nói lắm
kiểu sinh động, hấp dẫn, khôi hài, giàu liên tưởng và mắc những lỗi ngôn ngữ
tuyệt vời như trong vòng vài thập niên vừa rồi. Nôm hiện đại đang ở đỉnh cao,
tuy vẫn không phải là ngôn ngữ lý tưởng để suy tư trừu tượng hay thúc đẩy luận
lý, nhưng dồi dào để diễn đạt những tâm tình và kinh nghiệm trực quan của con
người và thời đại. Nếu muốn thì gần như bất kỳ nhà văn Việt hải ngoại nào cũng
có thể mỗi năm về nước để vỗ béo tiếng Việt đã gầy guộc chút ít của mình. Song
nhu cầu Việt ngữ của văn giới hải ngoại xem ra không cấp thiết đến mức như vậy.
Tiếng Việt của miền Nam trước bảy lăm mang theo đến giờ còn dùng đủ và thậm chí
là chốn cố thủ cuối cùng cho một ý thức phản kháng nào đó. Nếu ngày mai, lý do
lưu vong của chúng ta không còn nữa, liệu có bao nhiêu nhà văn Việt đang sống ở
hải ngoại, chỉ vì cái nghiệp của tiếng Việt, chỉ vì e “mất nguồn sáng tạo”, e
“mất gốc” mà quyết định trở về?
Phần mình, tôi ra khỏi Việt Nam vài năm trước, công việc cho
phép gặp vô số nhà văn sống lưu lạc, đến mức tôi có cảm tưởng rằng du mục là một
trong những điều kiện nghề nghiệp của một nhóm văn sĩ càng ngày càng đông đúc.
Quê hương họ là những cuộc hành trình. Phản bội quê hương là dừng lại quá lâu một
chỗ.
Phạm Thị Hoài