Di ảnh Ông Lê Xuân Điềm, Thiếu Tá Cảnh Sát, Bộ tư lệnh Cảnh
Sát Sài Gòn. Ông sinh năm 1924. “Học tập cải tạo” tại K2 trại cải tạo Tân Lập,
Vĩnh Phú. Mất ngày 10/2/1979 tại trại K2.
Tác giả
qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, là một kỹ sư từng làm việc tại Kia-Tencor San
Jose, California. Với bài viết về Mẹ trong mùa
Mother’s Day 2019, ông cho biết có người cha sĩ quan tù cải tạo chết ở trại
Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa. Bài viết mới kể về chuyện người mẹ và tác giả
thăm nuôi đúng vào những giờ phút sau cùng của người cha trong trại tù cải tạo.
Tựa đề đầy đủ của bài viết: “Ba Tôi, Những Giờ Phút Sau Cùng và người bạn tù
trên đất Mỹ” được rút gọn theo nội dung.
Vượt qua
bao nhiêu cửa ải khó khăn, thủ tục nhiêu khê cuối cùng chúng tôi mới cầm được tờ
giấy ra thăm ba tại trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú.
Tháng 2 năm 1979, hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi hoàn tất mọi chuẩn bị sau cùng, chúng tôi cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ tuyến Cao Bằng Lạng Sơn để về ga Ấm Thượng. Hành lý mang theo là hai bao tải đồ ăn gồm lương khô, thực phẩm, thuốc men, áo quần…bất kỳ cái gì cũng cần thiết cho người đang “học tập” cải tạo. Năm 1978, tôi đã thăm được ba lần đầu tiên, đã biết trước địa điểm, lại háo hức mong gặp ba, chuyến đi lần này diễn ra suông sẻ nhanh chóng hơn trước rất nhiều.
Xuống ga Ấm
Thượng, vượt qua gần 30 km đường bộ, 2 lần gọi đò qua những dòng sông nước chảy
xiết, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 Tân Lập Vĩnh Phú vào lúc nửa
đêm. Chuyến đi vất vả nhưng mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất
nhiều. Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức
không ngủ được. Nằm bó gối ở một góc phòng, trong tiếng ễnh ương rên rĩ, tôi
nhìn ra bên ngoài từ khe hở của vách tre lá của nhà khách ở một vùng đất gần
biên giới Việt Hoa xa xôi, và cảm nhận cái nỗi thê lương của những tháng ngày
mà ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo, đã và đang trải qua.
Tiếp chúng
tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất hình sự. Tôi đưa giấy tờ,
trình bày lý do, và xin phép được gặp ba. Gã cầm giấy tờ đi vào bên trong. Độ
khoảng 15 phút, gã đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm đăm. Gã nói: Rất tiếc không
thể để hai người gặp tù nhân này được. Ông nhà đang bị kỷ luật vì vi phạm nội
quy trại. Hai người có thể để thức ăn và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho
ông. Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và năn nỉ. Gã một mực cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi
càng lúc càng khóc to hơn.
Càng bị từ
chối, nỗi uất ức càng lớn, bà bắt đầu nằm lăn ra sàn đất. Vừa la vừa lết, vừa
khóc vừa hét. Gã công an lúng túng không biết xử lý cách nào. Những người đến
thăm nuôi và cả những cán bộ của các bàn bên cạnh đều hướng về phiá chúng tôi.
Tình hình căng thẳng đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào.
Hai người thầm thì nhỏ to gì đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu
dọng.
Thật ra
chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà đang bị kỹ luật bị
giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi. Tuần sau bà quay lại. Tôi sẽ
cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi bình thường. Còn bây giờ bà cứ để thức
ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận tay ông nhà, không thiếu một thứ gì.
Năn nỉ ỉ ôi
cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ chắc là hết cách.
Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần. Nhìn khuôn mặt có vẽ hiền lành của viên
sĩ quan công an, tôi nghĩ gã có vẻ thiệt tình. Tôi nói nhỏ với mẹ, mình vê
thôi, ba bị kỷ luật. có xin cũng không được. Chịu khó về Hà Nội ngủ lây lất. Tuần
sau lên lại hy vọng họ giữ lời hứa cho gặp được ba lâu hơn.
Trong khi
quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng cho ba, bỗng dưng
tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ đem nước chè xanh
cho những người đến thăm nuôi. Để ấm nước xuống bàn, người này đi chầm chậm về
phiá chòi vệ sinh sau khi ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin
phép gã cán bộ công an đi vệ sinh.
Bước vội
vào phía trong vừa kịp thấy dáng khòm khòm của người tù nhân bước ra. Tôi bước
vào, nhìn quanh cái chòi tiêu, tiểu được xây tạm bợ bằng lá tranh với cánh cửa
tre nửa kín nửa hở. Tôi ngồi xuống và nhìn quanh vách tre lá. Tôi có linh cảm
hình như người tù nhân muốn cho tôi biết một điều gì đó. Tôi cố nhìn thật kỹ.
Quả đúng như linh cảm, trên góc đòn tre phía trái của cầu tiêu, tôi thấy một mảnh
giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc một dòng chữ: “Ông Điềm bệnh nặng.”
Hoảng hốt
tôi vội chạy ngược vào phòng tiếp tân. Dằn cơn xúc động tôi kéo mẹ ra góc phòng
báo tin. Mẹ bình tĩnh và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại
bàn tiếp tân và nói: Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ
vừa đi vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày. Gã cán bộ nói láo trơn tru: Ông bị biệt
giam ở nơi rất xa, phải tuần sau chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.
Đến lúc này
nỗi uất ức trong lòng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn: “Mấy ông nói
láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp. Các
ông có còn là con người không?”
Đến lúc này
thì mẹ tôi không còn biết sợ là gì nữa, Tất cả những oán hận chất chứa trong
lòng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể ngăn được. Cả phòng khách của
K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào. Nhiều người bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn
dưới sàn đất cứng ngắt. Gã cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan
lúc nãy. Gã dịu giọng nói với chúng tôi: Xin bà bình tỉnh Mời bà và anh vào
trong, chúng tôi sẽ giải quyết. Nói xong gã ra lệnh cho hai tay công an dìu mẹ
tôi vào căn phòng phiá trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết
chuyện.
Căn phòng sạch
sẽ hơn phòng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói: Bây giờ tôi xin nói thật
về tình trạng của ông nhà. Thật ra ông đang bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa
chạy cho ông. Nay bà đã biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp ông. Ông nhà đang nằm
ở bệnh xá, tôi sẽ cho người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát. Nói xong gã
bước ra, nói nhỏ gì đó với công an trực.
Gã công an
bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút gì đó gã trở về, bước đi gấp gáp, hấp
tấp. Lại thì thầm to nhỏ với viên chỉ huy. Tôi linh cảm có chuyện không hay. Lần
này viên sĩ quan trầm giọng: Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù
chúng tôi đã tận tình chữa trị, nhưng vì sức yếu, ông nhà vừa mất cách đây 5
phút. Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ đưa bà đi gặp ông lần cuối
cùng.
Nghe tin dữ,
mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la. Không từ nào mà bà
không đem ra. Không nhân vật nào bà không réo tên chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc
đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc
rồi bắt đầu cười ngây dại. Tôi ôm mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn
làm thần kinh tôi như tê liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ
ngất đi.
Khoảng 15
phút sau, chúng tôi được dẫn di gặp ba. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ đơn sơ gọi
là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ. Ba nằm trên một
giường tre, thân hình gầy guộc, khuôn mặt ốm nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm
chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội vàng không dài thòn như lần đầu tôi gặp.
Hình như đã
hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi bệt xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi
ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm choàng lấy ba. Vẫn còn hơi ấm của một cơ
thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt trừng trừng nhìn ba. Hình như tôi thấy
trong mắt mẹ màu đỏ của máu. Sẽ không bao giờ tôi quên được cái hình ảnh của ba
và mẹ tôi trong bệnh xá trại K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất
thêm một lần nữa khi tôi định kéo mẹ đứng lên.
Sau này qua
một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang hấp hối nhưng ba
tôi biết. Lúc đó ba đã rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống để găp mẹ một lần và
ba cố gắng húp được vài muỗng cháo trắng. Những muổng cháo trắng cuối cùng trước
khi ra đi mãi mãi. Giá mà tay cán bộ có một chút tình người thì có lẽ mẹ cũng
được gặp ba một lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của một cuộc tình ba
mươi mấy năm. Tôi biết ba đã không đành lòng ra đi. Đành lòng sao được hả ba,
khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc, chỉ còn cách một bước chân thôi mà mẹ
không thể nói với ba những lời yêu thương sau chót, để được nghe một lời trăn
trối sau cùng. Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên lòng ra đi rồi
có ngày mẹ, ba và chúng con sẽ lại gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng.
Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở nào.
Để xoa dịu
mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù nhân tương đối đàng
hoàng. Từ trước, đã có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được bó vào các
manh chiếu mây tre rách rưới và được chon vùi sơ sài trong các mảnh đất trống
bên trong trại. Ba có lẽ là người đầu tiên đưọc ưu tiên có hòm làm bằng gỗ ván
thông dù rất mỏng dính. Chôn theo với ba là mấy bộ đồ rách bươm. Cũng có 4 người
tù khiêng quan tài. Phía trước và phía sau có 4 công an đi cùng. Cũng có ly
hương là cái chén ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu
của ba còn sót lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng
lẽ đi về phía một đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi,
tôi để ý thấy có những gò đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh.
Nơi chôn ba
là một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào vội một lớp đất
không sâu lắm, hòm được đặt xuống và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một sĩ quan
cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận cùng biên
giới Việt Hoa. Một mình, cô đơn, lạnh lẽo. Mẹ không còn nước mắt để khóc. Suốt
buổi lễ cứ nhìn trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy oán
hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặt môi đến tươm máu. Thôi ba ơi, hãy
yên nghỉ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.
Trước khi
trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập ghép bằng hai
nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.
Hai năm
sau, thương ba nằm một mình hiu quạnh, mẹ con tôi trở ra lại trại Tân Lập cùng
với một người đảo mộ thuê từ Hà Nội. Không xin được giấy phép bốc mộ, nửa đêm
chúng tôi đã lén lút đào chui và trải qua những giờ phút gian truân, nguy hiểm.
Cuối cùng chúng tôi cũng đem ba về nằm bên cạnh ôn mệ trong mảnh đất phía sau
nhà, dưới chân núi Ngự Bình Huế.
Từ khi đem
được ba về nằm ấm cúng bên cạnh những người thân yêu, cuộc sống của gia đình
tôi từng bước thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn. Có quá nhiều cái tình cờ, may mắn
mà dù không muốn tin, tôi cũng phải tin có sự che chở của ba, có sự sắp đặt của
ơn trên. Và nhờ đó gia đình mẹ và 9 anh em chúng tôi vượt qua được những ngày
tháng khó khăn, tủi nhục, đen tối để đến cuối năm 1998 toàn bộ gia đình đoàn tụ
trên miền đất thật xa quê nhà nhưng tự do này.
Là những
người cuối cùng trong đại gia đình qua Mỹ theo diện đoàn tụ, vợ chồng chúng tôi
cùng 3 con nhỏ về sống tại thành phố nhỏ Tulsa thuộc tiểu bang Oklahoma. Vào cuối
năm 1998, khi chúng tôi mới đến cư ngụ, Tulsa là một thành phố hiền hoà nhưng
cũng thật buồn và trầm lắng. Người Việt không nhiều, nhưng may mắn cũng có một
vài chợ Việt Nam, một vài quán ăn người Việt, không ngon lắm nhưng cũng làm vơi
đi nỗi nhớ nhà của những đứa con mới vừa lưu lạc.
Lúc vừa mới
đến, thấy gia đình 5 người chưa có công việc làm, mấy người bạn đề nghị chúng
tôi đi xin housing và chế độ trợ giúp cho người low income. Vào thời đó ở cái
thành phố đất rộng người ít này, việc xin trợ cấp của chính phủ tương đối dể
dàng. Ai cũng khuyên vì với tuổi đời gần 50, một vợ và 3 con còn nhỏ, tội gì phải
đi làm cho vất vả, ở nhà của chính phủ, con cái có nhà nước lo, sáng kéo nhau
ra quán cafe, chiều tập trung tại một nơi nào đó cùng với bạn bè, xem đánh cờ
và ngồi tám chuyện ngày xưa. Vừa nhàn, vừa có tiền tội gì phải vất vả mưu sinh.
Đâu phải ai cũng có điều kiện để xin được trợ cấp như gia đình tôi đâu.
Nhưng đó
không phải là con đường của tôi sẽ đi. Đứa con của một sĩ quan tù cải tạo chết ở
biên giới Việt Hoa ngày nào sẽ không thể sống như thế. Thế là, sau thời gian đầu
chuẩn bị cho những việc cần thiết, lấy bằng lái xe, ở tạm nhà người em gái,
chúng tôi bắt đầu cho một cuộc sống mới trên một miền đất xa lạ này.
Vợ tôi xin
vào làm phụ bếp trong một nhà hàng Việt Nam. Tôi và đứa con đầu nhờ có bằng TOEFL
nên đăng ký đi học đại học trở lại. Ngoài giờ học, cháu đi làm thêm công việc
phục vụ nhà hàng, tôi nhờ có chút tay nghề sửa máy tính và tivi, xin vào làm
technician cho hãng bán máy móc điện tử COMPUSA. Hai con nhỏ đi học ở trường gần
nhà.
Tiền lương
không cao lắm, nhưng với vật giá không đắt đỏ và con người hiền hoà của một
thành phố nơi nhà thờ nhiều hơn nhà dân này, chúng tôi đã có những bước khởi đầu
hội nhập không quá đỗi khó khăn. Và quan trọng là tôi được đoàn tụ với mẹ, các
em, và cùng với gia đình riêng, chúng tôi đã sống không giàu có, nhưng lương
thiện, đầy đủ và tự do.
Có quá nhiều
điều để kể về những ngày tháng trên một miền đất không phải là nơi tôi sinh ra
này, hy vọng sẽ có trong một bài viết khác, ở đây tôi chỉ muốn nói đến những mối
nhân duyên mà ông trời đã sắp đặt liên quan đến câu chuyện của ba tôi, người sĩ
quan tù cải tạo chết tại trại K2 Tân Lập Vĩnh Phú tháng Hai năm 1979.
Cuộc sống ở Tulsa phải nói là rất dể chịu và an bình. Với sự
tằn tiện và chịu thương chịu khó, chúng tôi cũng mua trả góp được một căn nhà
nhỏ, tạm đủ cho một gia đình 5 người, những ngày tháng an bình và hạnh
phúc.
Nhưng rồi năm 2000, sau khi lấy lại bằng đại học, tôi xin được
việc làm tại KLA-TENCOR ở San Jose, Ca. Nghe tôi định di chuyển về San Jose, bạn
bè, người thân ai cũng bàn ra. Thứ nhất tôi đang sống an nhàn, mọi việc ồn định,
lên San Jose, tuy lương cao hơn, nhưng nhà cửa, cuộc sống đắt đỏ, lạ lẫm, chắc
chắn sẽ khó khăn vất vả hơn nhiều. Làm lại từ đầu, có trụ nổi không hay lại
khăn gói trở về như một số người ở bên này.
Nhưng, với tôi, quan trọng không phải là đồng lương cao thấp,
đường đi dễ dàng hay vất vả, bằng phẳng hay gập ghềnh, mà là một công việc phù
hợp với cái kiến thức và cái khả năng được đào tạo của mình, trong một ngành
nghề mình yêu thích. Thế là gia đình nhỏ, 5 người chúng tôi một lần nữa khăn
gói đi về một thành phố xa lạ hơn, một nơi được xem như đắt đỏ vào bậc nhất nước
Mỹ để kiếm sống.
Cho đến bây giờ trải qua gần 20 năm, với biết bao thăng trầm,
thời gian, với tôi, thời gian ở San Jose vẫn là một quãng đời đáng sống. Có nhiều
điều để nhớ lại, nhưng trong phạm vi bài viết, tôi muốn nhắc đến, chính là cái
duyên, cái tình cờ sắp đặt của thượng đế, của định mệnh khi chính tại miền đất
này, tôi đã gặp lại hình bóng của người cha thương yêu.
Đầu năm 2001, khi tôi đang làm tại KLA-TENCOR, lúc đó nhà cửa
rất là hot. Tôi tìm mãi mới thuê được căn nhà 4 phòng ngủ. Giá thuê không hề rẻ,
1800USD một tháng. Trả tiền nhà rất vất vả khó khăn, mất toi ½ số tiền lương
hàng tháng. Chúng tôi quyết định tìm người cho share lại bớt một phòng. Đúng
lúc có một technician mới vào làm trong dây chuyền của tôi mới được tuyển vào
làm việc, cần nơi ở. Thế là thoả thuận về ở chung. Vừa tiện đi làm chung xe, vừa
sẽ chia tổn phí, tiện lợi đôi bề.
Ở một thời gian, làm chung với nhau cả năm, trong một dịp
tình cờ khi nhờ ông bạn share phòng cắt tóc giùm, qua cuộc nói chuyện, phát hiện
ra ông bạn cùng nhà mấy lâu nay củng là một sĩ quan từng đi "học tập cải tạo".
- Anh đi tù ở đâu?
- Tân Lập, Vĩnh Phú
- K mấy?
- K2. Biết ông Điềm không?
- Biết quá đi chứ.
Thế đó. Quá bất ngờ hơn, khi người share phòng bấy lâu lại
chính là người đã đưa cho tôi mảnh giấy báo tin ba tôi đau nặng tại phòng thăm
nuôi K2 trại cải tạo Tân Lập ngày nào. Không thể nói hết sự kỳ diệu của định mệnh,
khi sau 22 năm ngày mất, một sĩ quan tù binh cải tạo gặp lại người con của một
bạn tù trên một đất nước quá xa vùng đất biên giới xa xôi. Không diệu kỳ sao được,
khi trong hàng triệu người Việt lưu lạc, có mặt trên hàng chục quốc gia, sống
trên hơn 50 tiểu bang của Hoa Kỳ, tôi gặp lại đúng một người duy nhất đã đút
cho ba tôi những muỗng cháo trắng cuối cùng trước lúc lâm chung. Người đã sống
với ba trong những tháng ngày bi thảm đó. Một trong 4 người bạn tù khiêng cha
tôi về miền đất lạnh.
Từ xưng anh, từ đó tôi gọi là chú, chú L. Hai chú cháu có những
đêm thức trắng để kể chuyện về ba tôi. Chú là người báo cho ba tôi biết hai mẹ
con chúng tôi đang đợi chờ mỏi mòn tại phòng thăm nuôi. Duy nhất, chú là người
bên ba để chứng kiến những giọt nước mắt cuối cùng tức tưởi của một người đang
hấp hối. Chú là người duy nhất nhìn thấy cặp mắt mong đợi mỏi mòn của ba. Dù chỉ
gần nhau trong gang tấc, trước khi ra đi vẫn không thể nhìn nhau một lời sau cuối.
Cám ơn chú L. Người bạn tù của ba tôi, ân nhân không bao giờ
quên được của tôi. Sau khi nghỉ hưu, chú về ở với con gái nghe đâu ở tiểu bang
Minnesota xa xôi. Chưa một lần chúng tôi gặp lại nhau. Nhưng dù ở bất cứ nơi
đâu, cháu cũng cầu mong chú và những người thân yêu thật nhiều may mắn và bình
an. Và tôi tin rằng ở một nơi nào đó thật xa xôi, ba vẫn luôn dõi theo và che
chở cho gia đình chú cũng như cho mẹ con chúng tôi. Nếu có một kiếp sau, con vẫn
sẽ là con của ba, người tù cải tạo chết ở miền đất biên giới Việt Trung, ngày
10 tháng 2 năm 1979.
Lê Xuân
Mỹ