12 July 2022

TẠI SAO - Ngự Thuyết

(But why does she not speak? Euripides - Alcestis Nhưng tại sao nàng không nói?)

Anh đạp thắng gấp. Bánh xe siết lên mặt đường sỏi đá. Chiếc Jeep rùng rùng mấy cái rồi dừng hẳn để lại trên đường hai vạch dài song song. Một người đàn bà vừa chạy vụt qua trước mặt xe. Đường vắng. Anh tắt máy, nhảy nhanh xuống xe, cau có nhìn theo, miệng lẩm bẩm gắt. Không, đấy là một cô gái còn trẻ lắm, khoảng trên 20 tuổi. Cô gái đã bước lên lề đường rồi, bỗng vội vã quay lại. Cô rụt rè tiến đến gần anh, ấp úng:

“Xin lỗi ông. Tôi, tôi ...”

Anh nói như quát:

“Cô ẩu quá. Có ngày rồi đời. Cái đồ ...” Anh định mắng.

“Thưa ông nói chi?”

“Có ngày rồi đời!”

Anh nhủ thầm mình nói cái lối miền Trung này có lẽ cô ta không hiểu. Nhưng cóc cần. Không trả lời câu hỏi, anh nói tiếp:

“Có răng không. Có sao không cô?”

Cô gái bỗng nhìn anh chăm chú. Khuôn mặt cô bỗng như tỏa sáng, đôi mắt dường như vừa bắt gặp một điểm khuất xa xôi nào đó, loé lên những màu sắc lạ. Đến lượt cô cũng không trả lời câu hỏi của anh, nói ngập ngừng, giọng nói cao hẳn lên, nghe như tiếng reo vui:

“Ô, ô, lạ chưa. Thưa, thưa có phải ông là bác sĩ ... bác sĩ Khoa?”

“Đúng vậy. Nhưng sao cô biết. À, hình như ...”

Anh dừng lại nửa chừng, lim dim mắt, cố nhớ. Hình như, hình như cái quái gì nhỉ. Cái bực dọc bỗng tan biến nhanh. Trước người đẹp anh dễ dàng quên mọi bực dọc. Cô bé này trông là lạ, có duyên ngầm, có sức lôi cuốn bí mật. Và nụ cười không thành tiếng đó, giọng nói ngập ngừng nghe quen quen đó, anh cố nhớ. Mà quá khứ như bị sương mù dày đặc bao phủ. Lẩn quất, trốn tránh. Kín bưng. Anh không thể nhớ gì thêm nữa.

“Chắc ông quên rồi...Quên tôi rồi. Mà cũng phải thôi. Chuyện xẩy ra khá lâu, đã trở thành xưa cũ đối với ông. Nhưng tôi thì ... nhớ lắm. Dạ, dạ, dĩ nhiên phải nhớ.”

Cuối câu nói là một nụ cười thầm lặng, không thành tiếng. Cười bằng mắt, bằng khuôn mặt xinh đẹp bỗng sáng ngời ra. Anh giàu tưởng tượng chăng? Không phải thế đâu, anh từng gặp những cái nhìn làm tối sầm trời đất khi anh bỡn cợt một cách thô bỉ, vô lối trước những người đẹp kênh kiệu anh từng gặp. Anh biết đó là tính xấu khó ưa, nhưng anh không chịu bỏ. Anh biết anh còn nhiều tính xấu khác nữa. Còn khuôn mặt này thì sáng ra, làm sáng cả một vùng không gian chung quanh.

Đúng, anh vẫn quên, nhưng anh cứ nói, “Làm sao tôi quên cô được.” Cô nào đây? Gặp người đẹp nào anh cũng tán riết, mà người đẹp trên cõi đời này đếm sao cho hết, nhớ sao cho xuể. Nhưng thú nhận quên sẽ “mất thớ”. Anh nói khỏa lấp:

“Này cô, hãy khoan nói cái chuyện cũ đó cái đã. Tôi cũng nhớ chứ. Nhớ rất rõ. Để tôi lái chiếc xe đậu sát vào lề đường đâu vào đấy, rồi ta nói chuyện tiếp.”

Cô gái nhắc lại, như thách thức, như biết trước rằng anh chẳng nhớ được gì:

“Nói chuyện tiếp tức là nói cái chuyện cũ đó cái đã, phải không thưa bác sĩ?”

Thấy cô này có vẻ “chịu chơi”, anh mời mọc ngay như anh vẫn thường làm như thế, có khi thành công, có khi bị từ chối thẳng thừng:

“Trời nóng quá. Hay hai anh em ta hãy vào quán nước ngay đây kiếm cái gì uống. Rồi tha hồ nói chuyện cũ ... và chuyện mới nữa nhé.”

Cô gái có vẻ bỡ ngỡ, nhưng nhận lời.

*

Trận đánh vô cùng ác liệt. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ dằng co, cầm cự, cuối cùng quân địch đã tháo chạy mất hút sau những ngọn đồi chập chùng, bỏ lại trên chiến địa mấy chục xác chết, và một số thương binh không kịp mang theo. Thương vong bên ta cũng không ít. Cây cối quanh vùng ngã nghiêng, lá xanh bị băm vằm vãi ra đầy mặt đất. Những thân cây to lỗ chỗ nhiều dấu đạn, cành gãy nát. Nhiều ngọn cây gục xuống trông như đầu người tử tù vừa lãnh viên đạn ân huệ. Cỏ thì có đám cháy đen, có đám úa đỏ, trên đó loang lổ những vũng máu còn tươi. Dăm ba túp lều bỏ hoang cháy tiêu hết mái, hết phên, còn trơ lại nền đất đen, và vài cái cột làm bằng cây mít cong queo cháy hơn một nửa. Lại có nhiều hố bom dù trong trận vừa xẩy ra không có phi cơ oanh kích.

Thì ra nơi đây từng là trận địa, nhưng cây cỏ đã mọc lên xanh um, hố bom đã trở thành vũng nước vào mùa mưa có cá lội, và vào mùa khô thì đấy là những cái lũng khá sâu cỏ tranh cao hơn đầu người chen nhau mọc. Nay lại trở nơi này. Đánh nhau. Cây, lá. cành, cỏ lại tan hoang. Đã đánh nhau gần 20 năm rồi. Nhiều dịp trở lại giết nhau nơi chốn binh lửa cũ. Những “dấu binh lửa” ấy cũng có thể gây chút chạnh lòng nơi người tình cờ qua đó:

Dấu binh lửa nước non như cũ

Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương [1]

Nhưng đối với người lính trận dãi dầu, trở lại những chiến địa cũ nay lại sắp trở thành nơi tàn sát nhau một lần nữa, lòng hẳn không khỏi cảm thấy chùng lại, buồn rầu, ngán ngẩm. Hôm qua đánh, hôm nay đánh, ngày mai lại tiếp tục đánh. Cho đến khi nào?

Trong khoảnh khắc, trời đất bỗng nhiên hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Như tắt hơi. Như nín thở. Chỉ còn mơ hồ như thể nghe thấy từ những đám cỏ cháy đen tiếng rể cỏ trong lòng đất muốn trở mình cùng với vô vàn côn trùng bị thiêu đốt lại ngo ngoe tìm chút hơi thở. Xa xa tiếng suối reo như trong quá khứ. Nhưng không nghe thấy tiếng chim. Trong khi gần chân trời thấp thoáng mấy cánh quạ đen, và kênh kênh.

Bỗng rì rầm tiếng động cơ. Một xe bọc sắt xuất hiện. Từ trên xe nhảy xuống mấy chiến binh và một sĩ quan. Đấy là nhóm y tá và Khoa, trung uý y sĩ của tiểu đoàn Nhảy Dù vừa chạm trán với Cộng quân. Trong cấp số của tiểu đoàn Nhảy Dù có bác sĩ quân y. Họ vội vàng chạy nhanh đến những thương binh nằm rải rác sau những mô đất, trong những bụi rậm còn bốc khói, kêu cứu, rên la. Và họ “lựa thương” – ưu tiên săn sóc, hoặc cho tải thương bằng trực thăng những chiến sĩ bị thương nặng. Thương binh của quân địch cũng thường được chiếu cố, nhưng không tận tâm bằng.

Dường như tiếng rên rỉ rất nhỏ đâu đây văng vẳng trong gió. Một y tá đi cạnh Khoa bèn đứng lại ngoảnh mặt nghe ngóng, rồi chậm rãi đi lần đến một đám cỏ tranh cao hơn đầu người còn sót lại nằm dưới một lũng thấp. Hố bom cũ. Tranh vốn dễ cháy. Những đám cỏ tranh khác quanh đấy đều cháy rụi đến tận gốc.

“Thưa bác sĩ. Bác sĩ, bác sĩ ơi, tới ngay đây!” Người y tá la lớn.

Khoa vội vàng tới. Một người con gái mặc đồ đen, mang dép râu, nằm thoi thóp trong đám cỏ tranh, rên khe khẽ. Tóc rối tung che gần hết khuôn mặt tái mét, máu ướt đẫm ống quần quần đen rách nát hòa lẫn với đất, cát, bụi. Bên cạnh hông, một khẩu AK. Khoa nhận thấy mạch của cô gái xuống thấp quá, đã mất nhiều máu. Chẳng biết cứu sống được hay không, nhưng nếu chậm trễ, cái chết chắc chắn đến. Nhân tiện có một bạn đồng ngũ của anh bị thương nặng, anh sắp xếp cho trực thăng đưa ngay bạn về thẳng Tổng Y Viện Duy Tân của thành phố Đà Nẵng, thay vì đến Bệnh Viện Dã Chiến, anh cho cô Việt Cộng về đấy luôn thể.

Sau đó, Khoa được nghỉ phép mấy ngày. Anh về thành phố, tìm đến nhà người bạn thường tổ chức “khiêu vũ gia đình”. Và tìm gái. Đời lính, cái sống, cái chết kề cận. Thì phải tận hưởng những giây phút còn hiện hữu trên cõi đời này. Hiện tại mà thôi, anh ngẫm nghĩ. Sá gì mục tiêu lâu dài viển vông, sá gì tương lai mù mịt. Chỉ cần những dự tính cho vài ba ngày sau là đủ. Câu nói dân gian “sống rày thác mai” nghe như tiếng réo gọi thường trực bên tai anh. Cho nên có dịp là anh sống hết mình, tung hê, thác loạn. Thời gian nghỉ phép là cái dịp đó. Tuy thế anh cũng không thể nào quên người bạn đồng ngũ đang được chữa trị tại Tổng Y Viện. Anh rất quý bạn bè.

Thăm bạn tình cờ gặp người con gái của phe địch được săn sóc gần đấy. Và anh nhớ ra, dừng lại bên giường bệnh, hỏi han vài câu chiếu lệ.

Cô bị mấy mảnh đạn xuyên vào ống chân, chạm vào xương, mất máu nhiều. Tóc cắt ngắn luộm thuộm không uốn, mặt mày xanh xao, gầy guộc, phờ phạc, nhưng sức khoẻ ổn định. Người y tá khu đó nhắc khéo cho cô biết rằng nhờ bác sĩ Khoa này cô mới được đưa ngay vào đây và được cứu sống. Anh không để ý đến nhan sắc của cô, chỉ nghe được tiếng nói khe khẽ, khó khăn, ngập ngừng:

“Thưa bác sĩ, tôi, tôi thật không ngờ. Được. Được ...Tôi không biết nói, nói sao,cho ...”

“Cô khỏi nói. Nghỉ ngơi cho mau khoẻ nhé.” Anh vui vẻ đáp.

“Dạ, dạ. Tôi xin cám ...”

Anh ngắt lời:

“Có răng mô. Có gì đâu. Đó là nhiệm vụ của tôi. Chúc cô mau bình phục. À mà cô tên chi?”

“Dạ, dạ tên Hằng, thưa thưa ...”

Anh khoa tay, rồi từ giã bằng cái nắm nhẹ vào bàn tay xanh xao của người bệnh.

Anh dốc chai bia uống cạn, nói tía lia:

“Xin lỗi tôi nhớ lộn. Vâng, cô tên Hằng chứ không phải Hà. Bây giờ chắc chắn tôi không bao giờ quên nữa đâu. Đã ghi xương khắc cốt rồi. Hằng, Hằng Nga, người đẹp cung trăng. Cho phép tôi gọi cô là Hằng nhé. Cho thân mật.”

“Dạ, dạ, tùy bác sĩ.”

Anh kín đáo ngắm người con gái anh gặp lần đầu tiên cách đây 3 năm trong trận đánh gần Quảng Trị. Nay, như một phép lạ, cô đã trở thành một thiếu nữ quá đẹp mà anh không thể nào nhận ra nổi trừ giọng nói. Thế là anh cảm thấy lòng phơi phới, không mảy may nhớ gì đến cái chuyện suýt xẩy ra tai nạn. Mái tóc ngắn đằng trước được uốn cong cụp vào trán, che gần một nửa khuôn mặt; nốt ruồi đen bên mé cằm mà anh muốn đưa tay sờ cho biết thiệt hay giả; nụ cười âm thầm không thành tiếng nở ra từ hai làn môi son nhạt trông như nửa cánh hoa hồng hàm tiếu; giọng nói khe khẽ, ngập ngừng nghe thân ái như đã yêu nhau từ bao giờ. Và cái dáng thon thon trong chiếc áo dài lụa trắng tha thướt,quần cũng lụa trắng mỏng.

Có khi anh thoáng liếc thấy phần “hở hang”nơi người đẹp. Không phải là cái phần trên khá lộ liễu của cặp vú như kiểu trang phục Tây Phương, mà là hai hình tam gíác cân hai bên hông của Hằng, tạo nên bằng đường viền của tà áo trước, tà áo sau, và lưng quần. Cái tam giác nhỏ nhắn bỏ ngỏ đó để lộ một chút da thịt của người con gái khi ẩn khi hiện theo dáng đứng, dáng ngồi, hay bước chân đi. Khi thấy Hằng có vẻ ngượng ngập, anh vội nhìn nơi khác. Anh nghĩ đàn bà thật khó hiểu, và tự mâu thuẫn nữa. Cố ý phô bày những nét lôi cuốn, nhưng khi thành công nghĩa là lôi cuốn được thì lại tỏ ra bất mãn. Có khi thiếu đường muốn đưa người ta ra toà vì cái tội sách nhiễu tình dục bằng mắt! Hay đấy là cái tội quá sỗ sàng chăng? Vậy người bị lôi cuốn phải biết cách thưởng ngoạn, nghĩa là chỉ nhìn lén lút, kín đáo, vụng trộm thế nào cho cả hai bên đạo đức giả đều có thể ngấm ngầm hiểu nhau thôi.

“Thưa bác sĩ, bác sĩ mới về phép ... phải không ạ?”

“Sao Hằng biết? Nhưng ... nhưng ...” Anh bắt chước cô gái làm bộ ngập ngừng.

“Dạ?”

“Nhưng Hằng đừng nói thưa bác sĩ. Nghe nó khách sáo lắm. Đã quen biết nhau, Hằng gọi tôi là anh đi. Tôi chắc chắn lớn tuổi hơn Hằng mà.”

Từ đó giao du giữa hai người ngày càng thân mật, đằm thắm. Khoa nhiều khi tự hỏi mình đang yêu? Vô lý. Mình còn có thể yêu như thời mới lớn? Mình khác những năm trước đây nhiều lắm, muốn nhỏ dại lại chăng? Không còn chuyện gặp người đẹp nào cũng tìm mọi các tán tỉnh, có khi chung sống trong một thời gian ngắn, rồi mau chán, mau quên. Từ khi gặp Hằng, anh dành tất cả ngày phép cho cô. Nhiều lúc anh còn bịa chuyện khẩn cấp năn nỉ bạn bè thay thế cho anh năm ba ngày tại đơn vị để anh được thêm thời gian gần gũi nàng.

Anh đưa Hằng đi ăn tại những nhà hàng sang trọng ở Đà Nẵng, ở Huế. Thuê thuyền chạy dọc trên con sông nước trong veo, thơm và đẹp ra đến tận cửa biển rồi quay vào trung tâm thành phố. Còn thì giờ cho thuyền đi ngược lên phía thượng nguồn. Bay vào Sài Gòn vô vũ trường. Vô phòng ngủ. Để thay đổi khung cảnh – Hằng muốn thế -- anh mặc áo thường dân, cùng Hằng về những vùng thôn quê Miền Tây thiếu an ninh, nhìn đồng lúa bao la, nghe tiếng súng xa, và ôn lại thời gian hai người còn ở hai bên chiến tuyến.

Có khi qua vườn mía cây cao quá đầu, ngoại ô Sài Gòn, cặp tình nhân ngồi bên nhau, nằm bên nhau trên tấm trải tình tự say đắm. Như sống trong một thế giới thần tiên hoàn toàn biệt lập với loài người.

Hết tiền lương tháng thì anh mượn quanh bạn bè. Cũng may anh được bạn bè thương mến và tin tưởng nên anh không bận tâm lắm về vấn đề tài chánh.

Nhưng cái “đòi hỏi cuối cùng” của anh thì Hằng nhất quyết không đáp ứng.

“Em cổ lỗ lắm. Anh, xin anh tha thứ. Thôi, thôi anh. Khoan đã anh. Em xin anh. Em sợ. Anh đã định ... đã định mình sẽ lập gia đình mà. Lúc đó chưa muộn.”

“Vâng, nhất định là vậy. Sao em còn hỏi tới hỏi lui chuyện đó. Em chưa tin anh?”

“Dạ, dạ. Em tin anh lắm. Không có chút nghi ngờ nào cả. Nhưng khi nào hả anh?”

“Khi nào về chuyện gi?”

“Khi nào mình ở hẳn với nhau.”

Anh nghĩ ngợi khá lâu:

“Càng sớm càng tốt. Chỉ có điều ...”

“...”

“Cái chiến tranh khốn nạn này biết ngày nào mới chấm dứt. Lỡ anh ...”

Hằng thảng thốt chăm chú lắng nghe. Anh nói tiếp, giọng rầu rầu:

“Anh có mấy thằng bạn thân từ thời còn Trung Học. Rồi lên Đại Học cùng thi vào được Y Khoa Sài Gòn. Và cũng thật lạ là cùng vào binh chủng thiện chiến Nhảy Dù này. Càng thiện chiến càng tha hồ đụng trận, thì càng mau ... mau từ biệt cuộc đời. Đã có mấy thằng ... Vợ con mẹ goá con côi.”

Bỗng anh chợt thấy mình nói ba hoa hơi nhiều. Và lỡ lời. Anh cảm thấy bàn tay Hằng nắm chặt tay anh, cặp mắt lộ vẻ hoang mang, hoảng hốt. Anh hiểu ra ngay, cố tìm cách khỏa lấp theo cái kiểu “ba trợn” của mình :

“Em sao vậy. Đó là anh nói đến bạn bè. Anh thì khác, em yên tâm. À, à, tối nay mình ăn cái gì cho lạ miệng nhỉ?” Anh làm bộ nhíu mày suy nghĩ. “Hay là ta thử cùng nhau tới Ngã Ba Ông Tạ?”

Nàng ngơ ngác:

“Để làm gì vậy anh?”

“Ăn thịt chó.”

Hằng không hưởng ứng lối nói đùa đó, lạnh lùng trả lời:

“Em tu, không ăn được đâu.” Nói xong cô ngồi dậy sửa mái tóc, lặng lẽ nhìn những ngọn lá mía dài, uốn cong, đu đưa trong gió. Anh cũng không còn muốn nói đùa nữa. Mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng.

Một con cào cào từ cây mía bay đến đậu ngay trên chiếc ví của Hằng. Anh trở mình chồm tới đưa tay định túm lấy hai cái chân sau của nó. Để làm gì, anh không biết. Hình như nó cảm nhận được sự nguy hiểm dù hai con mắt lồi của nó có lẽ không trông thấy gì, nó bay vụt lên không trung càng lúc càng cao. Hai người nhìn theo. Bỗng chẳng biết từ đâu xuất hiện một con chim sâu bay nhanh theo hướng con cào cào. Cả hai mất hút cuối vườn mía. Hằng quay lại nhìn anh nói:

“Thôi mình về đi anh.”

“Cho anh nằm yên bên em thêm một chốc nữa nhé. Một chút thôi.”

Anh ngẫm nghĩ. Cô này tính sai rồi. Chẳng trước thì sau, kết cục cũng thế thôi. Đầu vườn hay cuối vườn có khác gì nhau. Nếu thật sự yêu nhau thì đừng tính chuyện lâu dài. Mà muốn tính cũng không được. Không hứa hẹn, không đám cưới. Con gái ai lại đi lấy chồng lính vào thời buổi loạn ly để chóng trở thành quả phụ hay sao? Nhưng cô nàng quá “cổ lỗ”. Vấn đề là ở đó. Thôi, từ từ hẵng tính. Anh nhớ câu nói khơi khơi, rất vô trách nhiệm, Hãy để những gì khó khăn tự giải quyết lấy.

Bố là Thượng Úy, liệt sĩ. Chỉ có hai bố con sống bên nhau, cô thương yêu bố vô cùng. Thật ra cô vốn là người Miền Nam, được bố mang theo tập kết ra Bắc năm 1954 lúc cô còn trong trứng nước. Cũng lạ. Mẹ ở lại trong Nam với đứa con trai lớn hơn cô 4 tuổi. Cô không biết tại sao mẹ và anh không theo bố, và anh lấy họ Nguyễn, tức là họ mẹ. Có lẽ bố mẹ không thuận thảo nhau, ai đi đường nấy. Bố kể lại anh cô hồi nhỏ có lần chạy ra đường cái chơi một mình bị xe nhà binh cán gãy chân, phải bó bột nằm nhà thương cả tháng trời. Cô không bao giờ quên những gì bố nói, và những gì bố dặn dò khi cô đã vào Trung Học và trở một thành thiếu nữ xinh đẹp nhất trường.

Nay bố không còn. Tứ cố vô thân, cô tình nguyện vào Bộ Đội sau khi xong Trung Học hệ 10 năm ở Miền Bắc. Cô theo binh nghiệp cũng có phần muốn theo gương bố, cô tự hỏi. Rồi bị bắn gãy ống chân, được cho vào bệnh viện lớn chữa trị như đã nói trên.

Cô còn trẻ lắm, mới 17 tuổi, bình phục nhanh chóng. Bị đưa vào những khoá Chiêu Hồi, thoạt tiên cô miễn cưỡng tham dự. Vốn ít nói, thông minh, cần cù, chăm chỉ, cô tranh thủ giành thì giờ rảnh rỗi học đánh máy chữ, tốc ký, học y tá, rồi học luôn cả lớp kế toán tài chánh. Môn gì cô cũng thấy mới lạ, môn gì cô cũng thích. Cô nhận thấy ngay rằng cuộc sống trong Nam rất dễ chịu, thoải mái. Với những mảnh bằng cấp tốc, cô xin được một lúc ba việc làm. Cô chọn làm nhân viên kế toán cho một công ty khá lớn, và ở hẳn trong Sài Gòn. Cô thông minh, ý tứ, giỏi nên tiến nhanh trong nghề nghiệp.

Nhưng Miền Nam cũng lạ thật. Chuyện chính trị, ngay cả trong lúc dầu sôi lửa bỏng, cũng không được chú trọng mấy. Không phân biệt trắng đen rõ ràng, ai là bạn, ai là thù. Đối lập nhau về ý thức hệ, chủ nghĩa, nhưng nếu là bạn thì vẫn là bạn, không ám hại nhau, không thủ tiêu nhau. Và không kể lể ơn nghĩa rườm rà. Cứu cả một mạng sống, rồi quên bẵng kẻ chịu ơn, ôi cái ông bác sĩ đó. Con người không bị ràng buộc chằng chịt, không ai phải khom lưng đội ơn ai cả. Không ơn Bác, không ơn Đảng. Cha mẹ sinh ra con, đùm bọc, nuôi nấng công lao như trời biển, nhưng nếu cứ kể lể, đứa con cũng dọn nhà đi ở nơi khác huống hồ nhà nước đối với người dân. Hơn nữa, đối kháng không bị coi là phản động, mà là góp ý. Đời sống tư không bị canh chừng dòm ngó. Không ai bị đưa vào nhà tù hay nhà thương điên khi đả kích kẻ cầm quyền. Có phải đấy là bản chất của xã hội tự do, dân chủ chăng? Theo thời gian, Hằng yêu dần cuộc sống mới.

Cô thường nhớ đến cuộc gặp gỡ chớp nhoáng với người ân nhân, Bác Sĩ Khoa. Cái ông kỳ lạ, nhưng làm cô suy nghĩ nhiều. Hôm ở giường bệnh, mình nói chưa xong lời cám ơn, ông đã biến. Và cái nắm tay hấp tấp. Phải tìm ông ấy. Và phải biếu người ta tí quà. Cô chưa quen nếp sống trong Nam, không có nhiều tiền, không biết món quà phải như thế nào cho xứng đáng với ơn cứu sống. Cô nhớ hồi còn ở Bắc nghèo khổ, người ta quý cây viết máy hiệu Parker và chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Cô đã mua được cây viết, gói lại cẩn thận, cất trong đáy va-li. Nhưng bận bịu quá, nào đi học thêm, nào kiếm sống, cô chưa có thì giờ đi dò la tìm địa chỉ của ân nhân.

11/2. Cái tình cờ thật lạ lùng, suýt bị tai nạn, lại được gặp người mình muốn tìm. Ông này ba hoa, nói nhiều. Khác tính mình quá. Thích gọi bằng anh? Cũng được chứ sao. Anh trổ tài tán tỉnh, càng lúc càng sôi nổi. Đúng là cái loại đàn ông đàn điếm gặp người nào vừa mắt là ra sức chiếm đoạt. Và khi chiếm đoạt xong, có lẽ chẳng bao lâu sẽ ruồng bỏ. Con đâu có ngu, con nhớ lời bố. Nhưng khổ nỗi, đấy lại là ân nhân. Thưa anh cho tôi xin rút bớt vài ý nghĩ không được tốt về anh nhé.

25/4. Dường như bên trong cái dáng ngông nghênh bất cần đời, đằng sau lời nói lung tung, vung vít, có cái gì chạm được ... khó nói quá ... chạm được cuộc sống thật. Nó thô tháp, trần trụi, và có phần bi thảm. Yêu? Anh gặp em là yêu ngay, không chút phân vân. Lại huyên thuyên? Và khát sống? Muốn gì vậy? Nhưng đồng thời anh sợ ngày mai. Cũng tội nghiệp. Dù gì chăng nữa, mình phải đề phòng, cảnh giác.

12/5. Nhận được thư thăm hỏi sức khoẻ. Viết cũng như nói, ba hoa chích choè. Mình hơi khó chịu nhưng sẽ không bao giờ tỏ cho anh biết điều đó. Sợ? Sợ gì vậy?

10/6. Lại thư. Chịu khó viết thư nhỉ. Càng nồng nàn, càng suồng sã, càng dữ tợn. Mình không ưa ái lối tỏ tình quái đản đó.

28/7. Lạ chưa. Tôi mong thư anh. Sao lâu quá không thấy.

29/10. Anh bị thương. Xa xôi thân gái. Không thể bỏ dở công việc làm ăn, làm sao đi thăm? Chỉ biết cầu mong chóng bình phục.

31//12. Đánh nhau dữ dội. Ngã ngũ thì mình sẽ đứng phe nào? Cuối năm rồi. Bồn chồn mong thư. Hay anh đã quên tôi? Hay lại bị thương? Mong anh bình yên.

23/1. Chàng, gọi là chàng một mình như thế nhé cho nó lãng mạn. Chàng sắp về phép khá lâu. Là bao lâu? Đánh nhau liên miên làm sao về được? Hay đào ngũ? Không, chàng không bao giờ đào ngũ, mình biết rõ, dù luôn miệng lên án chiến tranh. Và đồng thời lên án cái nguyên nhân của cuộc chiến, tức là lên án “bọn xâm lăng” Miền Bắc. Làm mình lúng túng. Vâng, mình theo phe nào? Mình vốn là bộ đội, nay càng ngày càng thích cái cuộc sống hồn nhiên nơi đây, và đã trở thành người Miền Nam rồi. Vậy giả dụ Miền Bắc thắng trận, liệu mình có được yên thân không? Hay phải tìm cách trốn tránh. Còn nếu Miền Nam thắng, thì mọi chuyện có lẽ sẽ đơn giản hơn. Mình sẽ lại được trở về nơi mà mình đã sống suốt tuổi thơ ấu, và tuổi hoa niên? Biết bao nhiêu kỷ niệm.

Hơn một năm đã trôi qua kể từ ngày họ gặp lại nhau khi chàng lái xe jeep, và nàng băng qua đường. Từ lạ đến quen, từ ngộ nhận đến hiểu biết, từ sơ đến thân. Và họ yêu nhau. Một lần, Hằng kể cho Khoa nghe chuyện cũ. Cha đi tập kết, Hằng theo cha, mẹ ở lại trong Nam với người anh. Và họ mất hẳn liên lạc. Về sau, cha tử trận.

Cha nàng tử trận? Trận nào, anh tự hỏi? Có mình trong trận đó không? Lỡ có? Thấy lôi thôi, Khoa muốn kết thúc câu chuyện ngay, bô bô nói – anh có cái tật ăn nói ẩu tả:

“Hết chuyện cũ bây giờ hãy nói chuyện mới. Cô Việt Cộng của tôi bị tôi bắn trúng ngay vào đùi cách đây 3 năm, ô tôi nói lộn rồi, bị tôi bắn vào ống chân. Chắc còn nhớ và còn giận. Hồi đó cô mấy tuổi?”

Hằng không trả lời, bắt bẻ:

“Anh bắn em bao giờ vậy?”

“Bạn anh hay lính của anh bắn thì cũng như anh bắn.”

“Thế à.”

“Nhưng cô chưa trả lời câu tôi hỏi. Hồi đó em mấy tuổi?’

“Dạ, 17 tuổi.”

“Vậy anh hơn em 4 tuổi.”

Vào thời buổi loạn lạc, anh, gia đình anh tản cư mấy lần. Hồi cư đi học trễ, anh phải khai trụt xuống 2 tuổi lúc làm Chứng Chỉ Thế Vì Khai Sinh. Thật ra anh hơn Hằng 6 tuổi.

“Mà này, cô Bắc Kỳ phải nói vâng mới đúng.”

“Dạ, hồi còn bé em nói thế. Sau vô Nam nghe dạ dạ thật lạ tai nên bắt chước dùng thử. Sau quen mồm, xin bác sĩ tha lỗi.”

Hai người cùng cười vui vẻ.

“Lại còn chuyện này mới hy hữu chứ. Em từng bị bắn gãy chân thì cái chân của anh cũng đã từng bị gãy.”

Nghe ngang đấy, Hằng ngạc nhiên. Cô chăm chú nhìn anh như muốn khám phá ra điều gì, và rụt rè hỏi, giọng run run:

“Anh nói đùa. Phải không anh?”

Khoa cười to:

“Sao lại đùa. Chuyện này không phải là chuyện đùa được.”

Anh đụng trận nhiều lần, mảnh đạn ghim vào người nhiều nơi, chưa lấy ra hết, có mảnh còn sót trong đầu. Cố nhiên đạn trúng chân cũng có, nhưng nhằm nhò gì. Gãy thì được nghỉ phép nối lại. Xong thì trình diện đơn vị. Xa đơn vị cũng nhớ.

Cô lại dịu dàng hỏi tiếp:

“Dạ, em tin anh không nói đùa. Nhưng ... nhưng em muốn biết đó có phải ... có phải là đúng sự thật hay không?”

“Ô hay, hôm nay em lạ nhỉ. Hỏi lẩn thẩn hoài. Dĩ nhiên anh có khi nói láo, nhiều khi nói láo nữa là khác, nhưng lần này chắc chắn không nói láo đâu.”

Hằng im lặng, quay mặt đi nơi khác. Anh cầm hai vai nàng từ từ xoay người nàng lại nhìn sâu vào khuôn mặt buồn rười rượi. Đôi mắt nàng rưng rưmg, đỏ hoe. Khoa nằn nì hỏi tại sao. Hỏi mãi Hằng cũng nhất định không chịu trả lời. Anh bực tức đứng dậy quay ngoắt người bước ào ào ra khỏi nhà.

Rồi đánh nhau dữ dội. Đơn vị thiện chiến của anh nay cầm cự nơi này, mai trấn đóng nơi khác, toàn là những tuyến lửa sắt máu. Thương vong khủng khiếp cho cả ta lẫn địch. Không chút nghỉ ngơi, không tranh thủ được một ngày nào để tìm thăm người yêu, anh nhớ Hằng như điên, như cuồng. Anh lấy làm lạ tưởng rằng đi suốt cuộc hành trình dài trong chiến tranh, trong bom đạn, thần chết vờn vờn nhảy múa ma trơi, thì mình đã trở thành ù lì, chai sạn, tàn nhẫn, đểu cáng. Nhưng từ lúc gặp lại Hằng sau khi nàng nằm bệnh viện, cái phút ban đầu ấy, nghe giọng nói thỏ thẻ ngập ngừng, nhìn cặp mắt hoang mang sợ sệt, trông cái dáng gầy gầy khép nép, đã bước lên lề đường còn rụt rè quay lại, anh cảm nhận ra rằng, tuy miệng hầm hè, cự nự theo thói quen, mà lòng thì êm ả vô cùng. Như bỗng dưng chợt thấy lại một hình ảnh nào đó của thời thơ ấu thanh bình xa xưa nơi quê cũ, có tiếng chim kêu lảnh lót trên cây bàng cao nhất xóm, có mấy con chuồn chuồn bay đứng một chỗ trên không báo động cơn mưa sắp tới, có giọng hò ru em nghe buồn ngủ quá của o gái bên nhà láng giềng, có dòng sông thơm và mát chảy êm đềm qua các cồn các bãi.

Hay là còn lý do nữa là trước một người mình đã cứu sống mà mình quên bẵng như sỏi đá lăn lóc bên đường, rồi bỗng một hôm người đó tìm đến để xác nhận sự tồn tại, mình mới biết cuộc sống này đáng yêu đến dường nào.

Và nay, anh vẫn băn khoăn khi nhớ lại lần gặp cuối cùng không biết tại sao Hằng bỗng dưng trở chứng không chịu nói một lời. Thế mà đã gần một năm trời trôi qua bặt âm vô tín. Anh tự trách mình nóng nảy quá, cứ tưởng lần gặp kế tiếp anh sẽ bình tĩnh dần dần hỏi lại cho ra lẽ. Nào ngờ tình hình chiến sự biến chuyển nhanh chóng quá, đơn vị anh đụng trận không ngớt, và khi không đánh nhau thì phải cấm trại một trăm phần trăm trong suốt nhiều tháng.

Rồi Miền Nam thua trận. Anh và đơn vị của anh chiến đấu mãnh liệt cho đến khi vị Tổng Thống cuối cùng ra lệnh bỏ súng đầu hàng. Anh trình diện đi tập trung theo lệnh Quân Quản của chế độ mới, nghĩ rằng chỉ mươi ngày thì được trở về với đời sống thường dân như được thông báo. Thì sẽ vào Nam tìm Hằng ngay.

25/3. Sao tôi khổ đến thế này. Thông thường nỗi khổ được san sẻ sẽ giảm bớt đi, nhưng trong trường hợp này, nó không thế. Chắc chắn nó sẽ tăng lên gấp bội. Cho nên em không thể nói cho anh biết được. Càng nói càng đau lòng cho cả hai. Em chịu đựng một mình anh nhé, để anh yên tâm sống. Đúng họ, tuổi ăn khớp, lại thương tích ống chân hồi bé. Anh có nói bị gãy chân hồi bé? Đúng, anh có nói như thế mà. Ô hay, làm như thần hồn nát thần tính. Thì còn nghi ngờ gì nữa. Vậy anh là anh ruột của em. Không được! Phải xa nhau! Mãi mãi!

5/11. Cuối cùng, sau gần một năm rưỡi, cũng tìm được khu rừng nơi anh bị tập trung cải tạo khổ sai. Mang được một ít thuốc chữa sốt rét, kiết lỵ. Một chai nước mắm, một ổ bánh mì không, một ổ bánh mì thịt. Lặn lội hơn ba ngày đi thăm nuôi mà chỉ có chừng đó. Nhưng biết làm sao. Ngồi cách xa nhau nói chuyện, có cán bộ đi lui, đi tới canh chừng nghe ngóng. Thế mà anh cũng lén cho biết sẽ vượt ngục.

13/2. Trời Phật che chở, anh đã về. Ôm chầm. Anh không dám ngồi lâu trong nhà. Hẹn hôm sau gặp anh tại nhà của bạn anh, anh N. để bàn chuyện vượt biên cùng gia đình N. Anh hôn ham hố, say sưa. Khổ thân cho tôi, đau đớn, sượng sùng. Rồi anh vội đi ra khỏi cửa, biến nhanh trong đêm đen.

Anh Khoa của em,

Em không bắt đầu lá thư bằng “anh yêu” như mọi lần nữa. Anh! Em khổ lắm. Nhưng em cũng phải để lại cho anh vài dòng. Anh nhận được thư này thì em đã đi xa. Em đi vượt biên theo diện bán chính thức do một ông người Tàu tổ chức. Chẳng biết sẽ đi về đâu.

Em thương anh vô cùng, chắc anh biết. Nhưng thôi, hãy quên em đi. Và đừng hỏi vì sao.

Số kiếp của anh em mình là thế đó. Được gặp nhau ngắn ngủi để xa nhau mãi mãi.

Xin anh giữ gìn sức khoẻ, và cầu mong anh luôn luôn tai qua nạn khỏi.

Em,

Hằng

Khoa cầm lá thư, sững sờ. Anh mở ra đọc đi, đọc lại mấy lần. Vợ chồng N. chờ anh cho biết Hằng viết gì trong thư. Anh lắc đầu, lẩm bẩm: Tại sao.

5/2022

Ngự Thuyết