Bây giờ lão nằm đó. May mắn cho lão là còn một chân và một
cánh tay dù là còn run. Nửa người bên phải đã liệt hoàn toàn do cơn đột qụy
cách đây cả năm trời. Có phục hồi chỉ lần giường, hoặc chống gậy mà đi cũng rất
khó khăn. Bà vợ lão đã theo ông bà sáu, bảy năm rồi. Cô con gái thiểu năng trí
não, lúc nào cũng ngơ ngẩn; nhiều khi nó còn chả lo nổi thân nó nữa là lo cho
ai. Đôi khi nhờ nó làm cho việc gì, phải nói rồi quát mỏi cả mồm nó mới hiểu. Cầm
cái gì thì lóng nga lóng ngóng, lắm khi còn làm rơi vỡ đổ tháo đầy nhà. Có mấy
đứa con của thằng em trai, khi chúng nó không đi làm hoặc ngày chủ nhật thì mới
qua dọn dẹp nhà cửa. Năm thì mười họa chúng cũng nấu cho một món gì đó; tranh
thủ chạy qua bỏ vội xuống bàn rồi lại tất tả lo đi làm. Suốt ngày lão chỉ lo mấy
bữa ăn cho hai cha con cũng mệt bở hơi tai. Tới giờ nấu ăn lão lại tập tễnh xuống
nhà bếp lóng ngóng làm bữa cho hai cha con. Mấy lần vừa nấu thức ăn xong, tay
run bưng thức ăn nóng làm đổ xuống nền nhà, may mà không bị bỏng.
Từ hồi lão về hưu non đến giờ; bạn bè cùng cơ quan chả có ai ghé thăm. Họ mạc,
hàng xóm ít người quan hệ. Vì nghe nói lão làm đâu bên ngành an ninh. Nhất là
thời kỳ cải cách ruộng đất; đã từng tra khảo và giết nhiều người, cả chính đáng
và oan khiên. Thời nay dân chúng đã ý thức được những người lợi dụng chức quyền
mà làm chuyện thất đức. Nên có lẽ họ không muốn tiếp xúc.
Đêm. Đứa con gái không ngủ được cứ ho liên tục. Những khớp xương lão càng đau
nhức hơn, khi trở trời chuyển mưa. Chả hiểu sao dạo này, con chim cú ở đâu cứ nửa
đêm nó bay đến. Đậu trên cây nhãn cổ thụ sau nhà, cứ gào lên: Cú cú cú ... Nghe
như tiếng réo gọi hồn ai oán. Nhiều lúc lão cũng thấy sờ sợ, khi nghĩ về những
thành tích trừ gian diệt ác trong thời gian còn tại ngũ. Thức dậy, lại bàn thờ
đức Phật mà lão đã thỉnh mấy năm nay. Từ khi theo Việt Minh, trong lý lịch lúc
nào lão cũng khai trong mục tôn giáo là không. Nhưng những năm tháng lăn lóc và
gây bao tội lỗi với đồng loại. Lão càng nghiệm ra rằng: “ Phàm là con người làm
sao tránh khỏi: Tham, sân si...? Tựu chung lại chế độ nào cũng đưa ra những
chiêu bài mị dân; để lấy lòng dân và bắt dân làm những tấm bia thịt, cho họ xây
dựng mưu đồ theo ý của họ mà thôi. Khi đã có chính quyền trong tay rồi; họ lộ
rõ nguyên hình những tham vọng tầm thường của con người ra hết. Chỉ có đức Phật
là dạy con người ta: Từ bi hỉ xả...Không mưu cầu danh vọng, tiền bạc. Lão kính
cẩn thắp ba nén hương, quỳ trước bàn thờ, miệng lâm râm đọc kinh. Mong đức Phật
tha thứ cho những tội lỗi của lão đã gây ra trong quá khứ. Những hình ảnh khi
xưa chẳng sao xóa nổi, nó cứ hiện lên...
Sinh ra trong một gia đình cố nông. Từ đời ông nội, đến đời cha cũng chả có được
miếng đất cắm dùi. Kháng chiến chống Tây bùng nổ. Quê lão được giải phóng thành
vùng tự do. Mới tuổi mười sáu lão đã xung phong vào vệ quốc đoàn. Sau khi đã
lên chiến khu học tập quân sự và chính trị; lão được bổ sung vào ban an ninh của
một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Công việc đi điều tra tìm manh mối những người
cộng tác với tề Ngụy và bọn Pháp. Chuyên chỉ điểm những nơi đóng quân, hoặc vũ
khí và quân số của Việt Minh. Có những khi chỉ có mấy người phải luồn lách, đôi
khi đóng giả dân vào vùng tề tìm bắt và xử tử những tên Việt gian. Với lòng căm
thù qua những đợt học tập, lão và đồng đội đã trừ khử cả chục tên ác ôn có nợ
máu với Việt Minh. Trong những khi đơn vị dưỡng quân chỉnh huấn, lão đã được đồng
đội dạy cho biết đọc biết viết.
Còn nhớ một lần có anh cán bộ chính trị giảng giải:
“Chỉ cần những người một lòng sống chết theo Đảng, còn học
thức từ từ đào tạo sau.”
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Hai miền Nam Bắc đã chia đôi theo hiệp định
Giơ Ne Vơ. Miền bắc về tay Việt Minh. Lão được gọi đi học tập mấy tuần lễ, sau
đó được điều động về một vùng nông thôn giáp ranh Hà Nội, vận động tiến hành cuộc
cải cách ruộng đất.
Nhờ tuyên truyền phát động phong trào: “ Ôn nghèo kể khổ”; đã đánh trúng ngay
tâm lý đại đa số bần, cố nông. Lòng căm thù sục sôi bọn địa chủ cường hào ác bá
núp bóng Thực Dân. Những cuộc họp được tổ chức liên tục. Tòa án được mở ngay tại
địa phương. Ngồi trên ghế chánh án là lão; hai bên bồi thẩm đoàn là những ông,
bà bần cố nông. Cả mấy đời cha, ông họ chỉ biết đi cày thuê cuốc mướn, nên chữ
nghĩa lem nhem chữ biết, chữ không. Miễn sao họ căm thù là phiên xử án đó thành
công. Vì mọi tội lỗi đã do lão đề xướng và ghi thành bản án trước cả rồi. Có
gia đình bất chấp huyết thống, con tố cha, cháu tố ông là địa chủ khát máu bóc
lột chẳng từ một ai.
Có một vụ xử án mà lão nhớ suốt đời. Đó là vụ án về một ông bí thư liên xã.
Theo như tài liệu cấp trên cung cấp, lão này đang hoạt động bí mật cho phe Quốc
Dân Đảng. Tra khảo kiểu nào, ông ta cũng một mực kêu oan. Nhưng bản án vẫn được
thực hiện. Lão nhớ nhất hôm xử án, tòa án lập trên những đám ruộng lúa mới gặt,
ruộng đã khô khốc. Khán đài tòa án được làm bằng những cây xoan và những cây
tre gác ngang, trên lót mấy tấm ván. Điều cốt yếu là có tấm băng rôn, có dán những
hàng chữ to to treo trên cao. Sau khi đọc bản cáo trạng, dù ông bí thư cương
quyết không nhận tội. Họ lôi ông lại ụ đất đã được đắp cao, trói vào cây cột.
Đã bị bịt mắt, miệng vậy mà chẳng hiểu sao; ông ta đã giật miếng vải bịt miệng
ra, cố gào thật to: “ Đảng lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ Tịch muôn năm!”.
Sau loạt súng của du kích. Máu tuôn ra từ các vết đạn trên ngực, mặt... Bà vợ của
ông bí thư ẵm đứa con còn nhỏ; cắm đầu chạy lại ôm lấy hai chân ông đã xụi lơ,
lủng lẳng dưới cột xử bắn mà gào lên: “Ối ông ơi! Ông làm cán bộ Việt Minh làm
chi mà chết oan chết ức; chết thê thảm thế này, ông ơi!” Mấy tay du kích cố lôi
bà ta ra khỏi cái cột xử bắn theo lệnh của ông. Co kéo làm sao đứa con bà ẵm
trên tay rơi xuống đất; nằm kêu khóc thảm thiết. Những giọt máu từ các vết bị bắn
chảy xuống đỏ thẩm loang lổ trên người đứa bé. Lúc này mấy tay du kích mới
buông bà ra; để bà ẵm đứa con lên. Mọi người đứng nhìn chẳng ai dám mở mồm nói
gì; chỉ thấy có người lấy vạt áo quệt nước mắt. Ông cán bộ bí thư liên xã bị xử
bắn được ít ngày; thì đội sửa sai về xác định ông ấy bị xử oan. Những hình ảnh
ông bí thư cứ suốt đời theo ám ảnh lão.
Nhờ làm cán bộ cốt cán, nên một số cán bộ nòng cốt địa phương; nhất là mấy cô
nhà nghèo cố nông tự dưng đổi đời. Họ coi lão như một Thánh con, bảo gì nghe nấy.
Ỡm ờ lão tán tỉnh ngỏ lời yêu đương; các cô nàng cứ mê tít. Ngoài miệng thì
xoen xoét mẫu mực, nhưng sức trai phơi phới như thế; làm sao thịt để trước miệng
mèo mà liếm mép nhịn thèm cho đành. Khi ra đi lão cũng có gửi lại một cô cốt
cán cái bầu tâm sự. Lỡ thì họ cắn răng chịu mang tiếng chửa hoang. Chứ có ma
nào dám hé mồm mà tố cáo lão. Chả biết có kẻ ác mồm nào đặt ra câu ca dao, lũ
trẻ chăn trâu đi đâu cũng gân cổ lên mà hát: “Đội về đội dựa vào mông, đội đi đội
bỏ trống đồng ai mang?”
Hết vùng này tới vùng khác; lão đã kết tội hàng chục người. Đến khi có lệnh sửa
sai, các cuộc đấu tố mới được ngừng lại. Lão được điều về đơn vị khác; cách xa
những nơi lão đã từng làm cải cách ruộng đất. Biết chắc chắn rằng nhiều người rất
căm thù lão; nhất là những gia đình đã theo Việt Minh có người nhà bị chết oan ức.
Nhiều lúc lão cũng thấy mình nhuốm quá nhiều máu đồng loại. Nhưng rồi lại chặc
lưỡi tự an ủi mình: “ Tội lỗi chính là các ông cấp trên ra lệnh, còn lão chỉ là
tên đồ tể thi hành mệnh lệnh mà thôi.”
Chiến tranh chống Mỹ bùng nổ. Vì đã có nhiều thành tích trong trừ khử ác ôn thời
kháng chiến chống Pháp. Lão được điều vào miền Nam; vẫn làm trong ban an ninh
tình báo và diệt ác ôn. Đã điều tra phá tan nhiều tổ chức điệp ngầm, và bắt được
một số ác ôn xử tội.
Nhớ và ân hận nhất về một lần xuống đồng bằng bắt một tay xã trưởng của phe Quốc
Gia. Vì đây là vụ án quan trọng, nên cấp trên chỉ thị chính lão phải đi theo tổ
an ninh. Xuống vùng ấp chiến lược, ăn chực nằm chờ trong hầm bí mật nhà dân. Gần
cả mười ngày mới tóm cổ được tay xã trưởng. Trên đường đi hôm đó, khi phải đi
qua ngọn đồi: “ Tọa độ chết” bị tụi pháo binh Mỹ bắn ác liệt quá. Cả tổ cứ vừa
chạy vừa phải lôi kéo tay xã trưởng, ngã lên ngã xuống. Để khỏi phải vướng
chân, và chạy nhanh ra khỏi tọa độ pháo kích của địch. Lão ra lệnh cho tổ an
ninh, bắn bỏ tay xã trưởng cho rảnh nợ. Khi về báo cáo sự việc lên cấp trên là
tên xã trưởng bỏ chạy; nên mới bắn bỏ trừ hậu họa. Chả biết tay xã trưởng đó
quan trọng thế nào; mà mấy ngày sau các sĩ quan an ninh về điều tra. Họ tách
riêng và hỏi từng người một. Rốt cuộc rồi cũng lòi ra cái tội giết người vô cớ
là do lệnh của lão. Trong khi đó người mà lão cố tình giết dọc đường; lại là một
sĩ quan tình báo chìm quan trọng của ta. Do mất liên lạc lâu ngày, nên chỉ có
cách bắt cóc như vậy; thì mới an toàn và chắc chắn. Thế là lão bị kết tội và
đưa về tuyến sau.
Vì đã có nhiều năm phục vụ trong quân đội và có nhiều thành tích diệt ác. Cấp
trên đã ém nhẹm cái vụ giết người ẩu của lão, mà cho về hưu non.
Về quê suốt ngày lão cứ sống thui thủi, rất ít khi gặp họ hàng, bạn bè; vì nghĩ
về quá khứ của mình. Cưới vợ đã cả chục năm vì nhiệm vụ lão cứ đi biền biệt.
Năm thì mười họa mới được dăm ngày về thăm nhà. Chẳng hiểu do lão hay vợ, tháng
ngày cứ trôi đi mà chả thấy vợ có bầu bì gì cả. Đâu đến khi vợ chồng lão đã
chòm chèm tuổi bốn mươi, bà vợ mới có chửa. Hai vợ chồng hồi hộp chờ đợi từng
ngày. Ngày vợ sinh ra một hài nhi cũng đầy đặn chân tay như mọi đứa trẻ khác.
Ngặt một nỗi khuôn mặt nhăn nheo, hình như cái lưỡi lúc nào cũng lòi ra khỏi miệng,
đôi mắt xếch lên trên, đôi tai nhỏ dị thường, lỗ mũi nhỏ và tẹt... Hỏi thì bác
sĩ bảo: “Con ông bà bị bệnh Down, sau này trí nhớ, chức năng sẽ không bình thường
như mọi đứa trẻ khác.”
Đứa con gái ú ớ trong cơn mê, hòa tiếng chim cú liên hồi đang gào: Cú, cú
cú...trong đêm thanh vắng nghe rờn rợn. Hình ảnh về những khuôn mặt máu me mà
lão đã kết tội bị bắn, hoặc bị đâm bằng dao găm; trợn mắt nhìn lão đầy căm thù.
Họ đang sấn tới le lưỡi, giơ hai tay lên định bóp cổ lão. Miệng lão càng đọc
kinh nhanh hơn: “Nam mô a di đà Phật, Nam mô a di đà Phật...” Vẫn không xua được
hình ảnh những oan hồn, đang tranh nhau đòi lão phải trả mạng. Lão hét lên tối
tăm mặt mũi không còn nhìn thấy gì...Bật ngửa người nằm lăn trên nền nhà.
Trời sáng rõ, đứa con gái đã tỉnh ngủ. Nó gọi bố mãi chẳng thấy lão trả lời như
mọi khi. Nó dò dẫm đi ra nhà ngoài, mắt ngơ ngáo vấp phải lão đang nằm bất động
dưới nền nhà. Nó nhe răng cười theo bản năng:
-Thế bố không thích nằm ngủ trên giường mà lại nằm dưới đất cho mát à?
Chẳng nghe lão mắng nó như mọi khi. Nó ngồi lên giường nhìn lão với con mắt khờ
dại, lâu lâu lại mỉm miệng cười:
-Ngủ dưới đất mát lắm sao bố ngủ mãi vậy?
Việt Thắng