Vè:
“Con vỏi con
voi,
Cái vòi đi trước,
Hai chân trước
đi trước,
Hai chân sau
đi sau,
Còn cái đuôi
đi sau rốt.
Tôi ngồi tôi kể
nốt,
Cái chuyện con
voi.”
Voi bố, voi mẹ,
voi con... đều là “Ông Bồ”! Dân đi rừng thường tỏ lòng tôn kính gọi con tượng
là “Ông Bồ”, cũng như dân đi biển nói “Ông” thay cho tiếng cá voi thường tình.
Voi bố là “ai” không “ai” biết! Ở một nơi nào đó và vào một ngày đẹp trời hay
giông bão nào đó, “Ông” đến với “em”, biến em thành voi mẹ, một thứ voi mẹ góa
phụ, không chồng mà chửa, tự nhiên như thiên nhiên, không thắc mắc, không áy
náy, vô lương tâm một cách rất đạo lý.
Mạnh ai người ấy sống, cho dù có đi với nhau hàng đàn thì cũng chỉ là thói quen vui chân chứ mỗi kẻ đều vẫn độc lập tự do hạnh phúc. Thức ăn cây cỏ trong rừng tùy ý ai muốn ăn thì ăn, nước suối ai muốn uống thì uống, rất cộng sản chủ nghĩa. Chỉ có khoản nhảy đực thì mới cần có hợp tác song phương, nhưng khi ấy đôi bên “đánh động” lẫn nhau cho đến lúc sự tự nhiên xảy ra. Rồi xong. Đường ai nấy đi.
Những tháng ngày
mang nặng đẻ đau và ngay cả phút giây voi mẹ đẻ ra voi con thì voi bố chớ hề biết.
Voi con từ trong bụng mẹ tụt ra sau đít rơi trên đám cỏ rồi lồm cồm bò dậy, ngã
tới ngã lui, mãi rồi cũng đứng lên được. Mẹ ngửi, mẹ liếm, mẹ ủi, mẹ dùng vòi
săn sóc con. Voi con tự nhiên cũng tìm ra chỗ có sữa mà rúc vào, mà bú, mà mút,
trong khi voi mẹ vẫn đủng đỉnh vặt lá rừng nhai.
Thời chiến tranh,
bom đạn bắn phá rừng xanh cũng gây xáo trộn cuộc sống của các “Ông Bồ”. Thậm
chí có những đợt bom B52 trải thảm xoá đi nguyên cả một đàn voi vì “không ảnh
hơi nước” được giải đoán là “đoàn người”, voi chết thay cho người, muông thú hy
sinh thay cho người, nhưng nào có ai biết tới, cũng như có những buôn người rừng
chết oan thay cho người kinh, cũng chẳng ai biết tới, hoặc là có biết tới thì
cũng chẳng để làm gì! Những sự cố đó chỉ là “tai bay vạ gió”, “tên bay đạn lạc”!
Chiến tranh chấm dứt, các Ông Bồ “nói riêng” cùng với bao nhiêu muông thú “nói
chung” của chốn rừng xanh tưởng sẽ được hưởng hạnh phúc thái bình, ai ngờ thảm
họa còn kinh hoàng hơn bao giờ hết.
Rừng bị tàn phá
khắp nơi, người người phá rừng, nhà nhà phá rừng, từng đơn vị phá rừng, từng sư
đoàn, quân đoàn phá rừng. Bộ đội cụ Hồ phá rừng, cán bộ nhà nước phá rừng, và cả
những đoàn tù binh cũng bị điều động vào sự nghiệp phá rừng. Thời gian tù binh
sĩ quan Cộng Hòa do quân quản có bộ đội dẫn đi phá rừng thì được gọi là nhà nước
quốc phòng làm việc cho nhà nước lâm nghiệp, thời gian sau đó có công an áo
vàng dẫn đi phá rừng thì gọi là nhà nước nội vụ làm việc cho nhà nước lâm nghiệp.
Trước sau gì cũng đều do nhà nước lãnh đạo cả! Và ở đâu cũng là phong trào thi
đua lập thành tích cao để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội.
Những bộ óc sáng
tạo dám nghĩ dám làm đã đưa công cuộc phá rừng lên hàng chính sách, cải tạo đất
hoang thành đất nông nghiệp. Rừng là đất “hoang”, chặt gỗ đem bán lấy tiền bỏ
túi lại được tiếng là khai hoang! Nơi nào lập trại tù là nơi đó trở thành căn cứ
xuất phát đi phá rừng. Các sĩ quan ưu tú của chế độ Cộng Hòa xưa kia nay biến
thành những thợ rừng, tiến vào rừng sâu hạ gỗ đem về cho trại làm tài sản, cán
bộ thì phóng lửa đốt cành lá, cả hai, quốc cộng, cùng nhau “phá sạch đốt sạch”
cánh rừng. Xưa kia công binh Mỹ “bóc vỏ trái đất” phải dùng các xe ủi đất hạng
nặng và thuốc khai quang, nay cai tù và tù binh, quốc cộng hợp nhất, “bóc vỏ
trái đất” chỉ bằng tay với rựa và cưa xẻ!
Rừng Lá bị phá từ
Quốc Lộ 1 vào tới tận chân núi Mây Tào. Chỉ trong vòng mươi năm phe thắng trận
dẫn phe bại trận tới đây lập trại giam, mật khu Rừng Lá nổi tiếng rậm rạp âm u,
bỗng biến mất, hóa thành một nông trường cải tạo nổi tiếng thu hút nhiều anh
ba, anh tư, anh năm, anh sáu... trên trung ương về thăm, nhân thể ở lại dưỡng sức
ít ngày. Các anh ở lại nghỉ ngơi tại một căn nhà nổi trên hồ Thiên Ân, có các đồng
chí công an phục dịch “cơm no rượu say”, lại được tiếng là “đi thực tế”, kiểu
như thời trước cấp trên xuống xã ấp, gọi là “thăm dân cho biết sự tình”.
Một đêm thanh vắng,
từ trong trại giam các tù binh nghe súng nổ vang ngoài rừng, lại tưởng có biến
cố hay có cuộc vượt ngục, nhưng sáng sau đi cuốc đất mới được biết đêm qua có
con voi mẹ bị bắn chết. Voi mẹ chết chỉ vì nó có cặp ngà lớn, để lại voi con
còn đang phải bú mẹ. Voi con chưa biết tự kiếm ăn được và cũng không biết đi
đâu, nó cứ quanh quẩn bên ngoài hàng rào trại giam kêu khóc thảm thiết. Trại
trưởng sợ bị vạ lây vì voi Rừng Lá được coi là loài thú hiếm quí cần được bảo vệ.
Nghe đâu thống kê nhà nước ước tính cả vùng “rừng vàng biển bạc núi kim cương”
chỉ còn có một... trăm voi. Mẹ nó bị bắn chết lấy ngà chưa điều tra ra kẻ vi phạm
pháp lệnh nhà nước, nay voi con cứ đứng ngoài hàng rào mà khóc như ăn vạ, lỡ cấp
trên sinh nghi... thì bỏ mẹ. Bèn sai đám tù xúm vào đẩy voi con đi xa hàng rào
về phía rừng. “Ông Bồ” con nặng mấy tạ không đi được vì đói, đẩy mãi mới xa được
một quãng nhưng sáng sau lại thấy nó nằm ở nhà lô sát trại. Các tù nhân còn phải
lấy phần củ sắn của mình nấu cháo loãng đổ vào miệng voi con cho nó sống cầm
hơi. Tù đã đói, phần ăn khoai sắn ít không đủ no, nay lại phải chia sớt cho
“Ông”, đúng là... cái họa.
Xác voi mẹ mất cặp
ngà, dân quê xóm Sông Giêng kéo vào lóc thịt đem về nấu... cháo. Bộ xương thì
công an trại giam K2 ra hốt về đổ đống trong kho củi bếp trại, dự tính sẽ nấu
“cao voi”, không rõ để chữa bệnh gì! Dân địa phương bàn tán với nhau rằng cặp
ngà voi lớn quí đang được treo ở phòng khách tư dinh bí thư thành ủy theo ý muốn
của phu nhân, nhiều người biết nhưng cuộc điều tra không ra manh mối, không bắt
được thủ phạm.
Voi mẹ thì như thế,
voi con thì như thế, những con còn lại chạy tán loạn vào rừng, mấy hôm sau
chúng trở lại giẫm nát phá tan hoang rẫy bắp của dân. Một người làm rẫy thấy
các “Ông” hùng hổ đi tới bèn tỏ lòng cung kính, quì đập đầu xuống đất lạy như tế
sao nhưng các “Ông” không tha, một “Ông” giẫm người ấy lòi ruột chết ngay tại
chỗ.
Buổi tối các bạn
bạn tù ngồi trên sạp nứa ăn cơm chung, xong uống trà hút thuốc lào vặt. Người
tù thi sĩ cầm cây đàn guitar từng tưng dạo vài khúc, hát nho nhỏ tặng cho bạn
nghe bài ca mới soạn:
“Chiều, bị hai
dãy núi cao bịt mắt,
những đám mây
còn lại
biến thành con
thiên nga khổng lồ.
Trong hơi nước
đầu tiên của mùa thu,
con thiên nga
mù,
vỗ đôi cánh
san hô,
lờ lững trôi về
mô…
Thiên nga hỡi,
mi chớ bi thương vì mù lòa,
Đây mắt ta,
đôi mắt xa xôi ta tặng ngươi,
Hãy tìm đường
qua núi.
Thiên nga ơi,
mi chớ hoang mang vì chiều tối
Đây tim ta với
tình yêu xưa thắm tươi,
hãy cầm lấy ra
khơi,
đem về chốn xa
xôi,
nơi, có người
ta mến thương,
đang ngóng
trông bên trời. “ (*)
Tác giả “Bụi Tầm Xuân”
ngồi bên nghe chợt thấy ban tự quản nằm cạnh hé mắt liếc sang, bèn chột dạ, e
ngại, lái sang chuyện khác. Thi sĩ “Người Đi Qua Đời Tôi” không đàn hát nữa
mà nói chuyện con voi con:
– Ở đây nó không
được đoái hoài chứ... “xuất cảnh” sang nước ngoài “cu tí” sẽ được quí như vàng.
Tác giả “Trắng
Chiều” nói:
– Đem con voi con
tặng nước bạn nào đó làm quà có hơn không là để đây cho tù nuôi nợ!
– Thụy Điển họ
luôn luôn bênh Việt Nam trên trường quốc tế, lại viện trợ cho cả một cái nhà
máy giấy Bãi Bằng... lớn nhất Đông Nam Á, sao không đem “cu tí” này “cống” vua
Thụy Điển gây cảm tình “hữu nghị quốc tế bền vững”, tù khỏi bị bớt phần ăn và
khỏi phải đẩy đít “Ông Bồ” về rừng.
Chuyện cống voi
tán dóc bâng quơ, không hiểu tại sao bất ngờ chiều hôm sau trưởng trại dẫn
“phái đoàn” các anh lớn ra tận nhà lô xem voi con. Họ đứng chỉ trỏ bàn tán với
nhau gì đó rồi trở về ngôi nhà nổi trên hồ Thiên Ân. Những ngày sau trưởng trại
theo các “anh lớn” về thành phố. Khi trở lại Rừng Lá, trại trưởng chạy hộc tốc
ra nhà lô kêu các bác tù già đẩy voi con về cơ quan. Voi con được ở trong vườn
xoài ngay sau văn phòng trưởng trại và hằng ngày được bếp cơ quan nấu cháo gạo
trắng có thịt đổ vào miệng... bắt ăn. Các bác tù già khỏi bị bớt phần củ sắn
cho nó. Rồi voi con được chở đi thành phố. Một thời gian sau nữa trên đài truyền
hình số 9 chiếu hình voi con lên phi cơ phản lực của hãng hàng không quốc tế
đi... Thụy Điển. Bản tin nói thủ tướng chính phủ nước ta gửi quốc vương Thụy Điển
con voi quí làm quà tặng để kỷ niệm tình hữu nghị thắm thiết lâu đời giữa hai
nước. Đi theo voi con còn có các thú y sĩ và các chuyên viên sở thú để lo săn
sóc cho... sứ giả.
Ở trong nhà giam,
các bạn tù ngồi ăn quà thăm nuôi của “anh ta” mới tiếp tế. Câu chuyện lại nói về
voi con.
– Không ngờ “ông
bồ” đi nước ngoài thật.
– Mà lại đi đúng
nước Thụy Điển.
– Xung quanh đây
chắc có… KGB.
Mọi người cười ồ,
một người nói:
– Chuyện xảy ra
như thiệt. Lộ trình lý tưởng nhiều người thèm. Bước 1: từ rừng chuyển về thành
phố. Bước 2: từ thành phố… lên phi cơ đi tuốt. Còn kẹt trong rừng thì còn lâu mới
có bước 2.
– “Anh ta” lên
thăm có nói gì không?
– Bà tùy viên văn
hóa sứ quán nước Thụy Điển mới đến thăm “anh ta”, nói, tôi sẽ về và gia đình
tôi sẽ đi Thụy Điển.
– Như vậy là ông
sắp có bước 1. Sắp theo voi con. Sắp thành “Ông Bồ”. Mong lắm thay.
Thấy ban tự quản
từ trong nhà cầu đi ra lên chỗ nằm, bác già nói:
– Có nói chuyện
con voi cho “anh ta” nghe không?
– Có. Và “anh ta”
biểu tôi hỏi anh muốn ăn món gì lần thăm nuôi tới sẽ đem lên.
Người tù già buột
miệng:
– Cua biển. Thèm
một con cua Huỳnh Đế ram muối.
Lần thăm nuôi
tháng sau “anh ta” gửi chồng đem vào cho nhóm “biệt kích văn hóa” một... sọt
cua biển. Nhà thi sĩ sắp xếp các món quà vợ cho, miệng nói:
– Đó, ông đòi cua
biển thì có cua biển, tìm mãi mới mua chui được loại này. Cua Huỳnh Đế phải ra
biển Sa Huỳnh mới có, chịu thua.
Tác giả “Một Mai
Khi Hòa Bình” còn có lời nhắn: “Tù mọt gông mà không bỏ được cái tật ăn nhậu hưởng
thụ, đòi hỏi đồ quốc cấm. “
– Chính mình phải
chào thua “anh ta”, tưởng nói chơi ai ngờ “anh ta” làm thiệt. Thời buổi tất cả
để xuất khẩu lấy ngoại tệ thì thứ này đúng là đồ quốc cấm!
Thi sĩ kể chuyện
thăm nuôi:
– Công an khám
xét quà tiếp tế thấy sọt cua thì chê: Mấy cái anh này buồn... cười ở tù không
xin thịt... lại xin cái thứ cua còng này... để làm gì không biết. Ngu ơi là
ngu! Bèn cho mang vào trại.
Cả mấy anh em chẳng
người nào biết xoay xở ra sao với cái sọt cua. Người này đùa cho người kia việc
làm món. Tối hôm đó cua trong sọt bò ra khắp phòng giam, sáng sớm đã có bạn tù kêu
ré lên:
– Ối giời ơi, con
gì lạ quá, lâu lắm rồi tôi không thấy cái thứ này, trông như khủng long!
Các “nhà biệt
kích văn hóa” phải hùa nhau bò dưới nền đất nhòm vào các gầm sạp ngủ tìm bắt
đàn cua trốn trại. Bắt đủ hết. Đầy sọt. Không con nào trốn thoát. Trại giam xã
hội chủ nghĩa con kiến cũng không thoát chứ đừng nói con cua. Chạy lên Trời
cũng kéo xuống cho đi học tập cải tạo, chỉ trừ chui xuống... lỗ!
Cuối cùng nhà thi
sĩ phải điều đình với anh trực phòng ở lại nhà giúp “ram muối” mớ cua biển tội
nghiệp. Trưa lao động về, mỗi nhà “biệt kích văn hoá” một con “cua ram muối kiểu
nhà hàng nổi”, còn bao nhiêu mời bạn tù xung quanh. Đương nhiên không quên ban
tự quản nằm bên.
Vừa gặm càng cua,
bác già nói:
– Sang trọng!
Tác giả “Bụi Tầm
Xuân” phê:
– Từ nay chừa nhá
cái tật bốc đồng đòi hỏi.
Thi sĩ ra lời:
– Nhưng mà đúng
thật là... sang trọng!
*
Thi sĩ làm nghề
cuốc đất trên cánh đồng. Bác già làm nghề gánh nước tưới rau bên bờ suối. Sáng
xuất trại hai người theo đội mình đi hai ngả, tối về gặp nhau trong phòng giam.
Bác già hỏi thi sĩ:
– Muốn ăn cá tươi
không?
– Sao
không.
– Cá lóc sống bắt
dưới suối lên còn dãy đành đạch. Không phải cá khô thăm nuôi tiếp tế. Muốn
không?
– Muốn.
– Thế thì thành lập
hợp tác xã sản xuất!
Bác già lập kế hoạch,
thi sĩ cuốc đất gặp nhái phải cố bắt sống, nhốt trong bao ni lông có đục lỗ
thông hơi, đừng quên bỏ trong bao nhúm đất tạo môi trường thiên nhiên cho kẻ bị
giam cầm bớt đi phần nào nỗi bức bách! Tối đem mồi về nộp, hôm sau bác già sẽ cắm
câu ở bờ suối, được cá lóc hai người sẽ có món tươi, cải thiện bữa ăn, tiết kiệm
ngân sách gia đình, bớt chi tiêu thăm nuôi, vợ con ở nhà đỡ khổ. Kế sách kinh tế
đầy triển vọng.
Nhưng thi sĩ tỏ vẻ
hoài nghi:
– Xưa nay ông chỉ
biết... ăn chứ đâu biết bắt cá?
Bác già hăng tiết:
– Tôi ra chỉ
tiêu, “một nhái, hai lóc”.
– Đùa!
– Ông cứ bắt nhái
đem về nộp cho tôi, chỉ tiêu “một nhái hai lóc” tôi chịu trách nhiệm. Hay là muốn
kỳ kèo thêm bớt, hơn thiệt, thì tăng năng suất lên “một nhái ba lóc”.
Thi sĩ phi một bi
thuốc lào xong nằm xuống đong đưa võng cười mỉm:
– Làm sao bắt được
nhái, bước khởi đầu đã rất khó rồi.
Bác già giảng giải:
– Đi cuốc đất ông
không thấy sao, nhái sinh sống dưới những khe đất, khi ông cuốc, động ổ, nhái
nhảy ra tháo chạy, ông liệng cuốc nhảy tới vồ, mà nhớ là phải vồ chặn đầu...
– Giỡn hoài, người
sao nhanh bằng nhái, thoắt một cái là nó đã biến vào trong cỏ cây...
– Rất khó và rất
vất vả mới chộp được một con nhái, nhưng nên nhớ... “lao động là vinh quang”!
Phải mất nhiều
công sức mới có... thành quả. Muốn ăn cá lóc sống phải bỏ công sức lao động.
Thi sĩ nản
lòng:
– Thua, chịu thua
trong công cuộc đấu tranh gian nan này...
Bác tù già “động
viên” thi sĩ:
– Chưa gì đã...
chủ bại, phải “tiến công nổi dậy, nổi dậy tiến công” thì mới ăn. Vả lại nếu cứ
đều tay với cái cuốc suốt buổi thì cuộc đời nhàm chán quá, thỉnh thoảng phải có
đột biến cho công cuộc sản xuất thêm phần sinh động. Lâu lâu gặp con nhái quăng
cuốc nhảy tới vồ cho có hoạt cảnh. Cũng như viết tiểu thuyết, thỉnh thoảng phải
thêm vào tí action cho tình huống linh động.
Chợt thi sĩ nghĩ
ra một sự lạ:
– Người ta phải mất
vài ba con nhái may ra mới câu được một con cá, ông sao dám một nhái vài ba con
lóc?
– Thế mới tài
tình! Cách mạng là phải “sáng tạo”.
– Lại phét!
– Đấy rồi ông
coi.
Nhà thi sĩ bắt
nhái có ngày được mấy con, nhốt trong bao ni lông theo đúng tiêu chuẩn giam giữ
hiện đại và nhân đạo. Ông cũng phải trả giá bằng những vết trầy đầu gối, nhưng
không sao vì đúng là mưu sinh có giúp cho thời giờ lao động cuốc đất thêm phần
sinh động bớt nhàm chán. Ông có bị cán bộ võ trang coi tù phê phán, nhưng thi
sĩ biện minh rằng thịt một con nhái lột da rồi chế biến cũng thành món ăn cải
thiện. Cán bộ thông cảm.
Vào những ngày lễ
lớn của cả nước, trại giam thường mổ bò (trong Nam) mổ trâu (ngoài Bắc) cho tù
nhân liên hoan. Trại giam đông vui cả ngàn tù nhân, nên bữa ăn chia phần mỗi
người cũng được một miếng thịt hoặc miếng da to bằng đốt ngón tay. Một con nhái
lột da rồi cũng tương đương với khẩu phần thịt mừng lễ đại thắng mùa xuân! Vì
thế một con nhái được tù nhân gọi là một con bò. Có tối khi bàn giao tù nhái
thi sĩ khoe với bạn già là bắt được tới những 3 con bò!
Công cuộc làm ăn
cải thiện bữa ăn tươi tiến hành được một thời gian dài nhưng chẳng thấy bạn già
mang được con cá nào từ suối Lạnh về. Số nhái thi sĩ bắt được đem nộp đã lên tới
mấy chục con bò, nếu tính ra cá lóc sẽ là cả trăm con. Có hỏi tới thì bạn già
nói là cứ “từ từ”, chuyện đâu còn đó. Bác già còn than là số lưỡi câu bị cắn đứt
mất khá bộn, công cuộc làm ăn có “sự cố”. Cũng tại lũ rắn nước vô duyên nhưng
tinh ranh, không mời mà chúng cứ tới xực hết những con mồi nhái móc ở lưỡi câu,
phá vỡ luôn một kế sách kinh tế rất tự túc tự cường.
Một hôm bác già
đem về một lon cá rồng rồng kho mặn. Khi ăn cơm thi sĩ hỏi “món gì vậy” thì bác
già đáp cụt lủn “cá lóc”. Rồi còn hỏi:
– Ngon không?
– Ngon.
– Công trình vừa
cuốc đất vừa vồ nhái của ông đã được đền bù đấy nhá. Nguyên một bầy rồng rồng cả
mấy trăm con chứ không ít đâu, phải dùng cái mùng ngủ của tôi mới vớt được.
Cách mạng là tài tình và sáng tạo.
– Nhưng không có
lòng hiếu sinh. Cuộc tàn sát toàn “đàn bà và trẻ em”.
– Chỉ có trẻ em,
không bắt được đàn bà. Đàn bà tuy thương con nhưng cũng nhanh chân vượt thoát
chạy ra đằng xa nhìn lại lũ con bị bắt trong cái mùng oan nghiệt chụp xuống.
Anh đàn ông nào đó lại còn nhanh hơn, biến mất trước khi xảy ra cuộc tàn sát tập
thể!
– Thôi đừng nói
thêm nữa về tình nghĩa và lòng nhân đạo.
Những bữa ăn của
hai người bạn lại vẫn tiếp tục là thực phẩm tiếp tế của tác giả “Đêm Nghe Tiếng
Đại Bác”, và họ không bao giờ bàn đến kế hoạch mưu sinh thoát hiểm hoặc là cải
thiện bữa ăn nữa cả. Chuyện cóc nhái cũng bỏ qua luôn không ai nhắc tới. Nhưng
sau này khi viết tiểu thuyết, kỹ thuật “đột biến” vẫn thường được sử dụng để
cho câu chuyện kể không rơi vào tình trạng lặng lẽ. “Tính” action trong khi viết
tiểu thuyết cần thiết đến độ có khi không có nhái, tác giả vẫn thỉnh thoảng phải
quăng cuốc nhảy vồ! Cũng có khi phải làm ra vẻ cuốc trúng hũ vàng. Cũng có khi
phải làm ra vẻ cuốc trúng trái mìn nổ chậm! Không có nhái phải tính kế khác
thôi! Nhưng có nhái hay không có nhái thì việc cuốc đất vẫn là việc cuốc đất!
Bù vào đó trong
khi ăn thi sĩ thường hay kể chuyện Tàu cho bạn nghe đỡ buồn.
*
“Một hôm tướng
quân kéo đoàn tinh binh qua vùng trang trại của phu nhân. Phu nhân ăn mặc xiêm
y lộng lẫy ra tận đầu làng đứng đón, hai bên có hai tì nữ theo hầu. Tướng quân
xuống ngựa tiến tới, phu nhân vái chào, hai tì nữ quì lạy, tướng quân tỏ vẻ hài
lòng. Phu nhân thưa:
– Thiếp xin
kính mời tướng công ghé vào tệ xá để tiện thiếp được hầu hạ tướng công cho bõ với
nỗi niềm mong nhớ qua bao tháng ngày dài chờ đợi.
Tướng quân thuận
ý cầu mong của người đẹp. Phu nhân xin tướng quân cho đóng binh ngoài cánh đồng,
chỉ mình tướng quân sánh vai cùng phu nhân vào trang trại. Trong dinh cơ tráng
lệ đèn nến sáng choang, yến tiệc được dọn ra, phu nhân dâng rượu tẩy trần, đoàn
tiện nữ múa hát.
Tướng quân
hoan hỉ uống chén rượu do phu nhân nâng lên tận miệng, người thấy ngà ngà say,
lâng lâng thanh thoát, thân thể như nhẹ bổng, bay cao. Phu nhân nói:
– Tướng công
cũng đã biết tính tình của thiếp, ngay từ hồi nhỏ, thiếp đã không muốn cho ai
hơn mình điều gì. Ngày Tết có con bé hàng xóm mặc chiếc áo mới, lại là chiếc áo
mà thiếp từng thèm muốn, thế là thiếp bắt con bé hàng xóm phải quì xuống, cởi
chiếc áo mới ra nộp cho thiếp. Thiếp còn cấu véo con bé bầm da rách thịt để trừng
trị nó về cái tội dám có cái mà thiếp ham thích.
Tướng quân nằm
bất động, muốn cử động mà sao không cử động được. Phu nhân thưa:
– Vì quá yêu
thương tướng công, không muốn mất tướng công về tay người khác, cũng không muốn
tướng công rời xa tiện thiếp, cho nên tiện thiếp đã dâng lên chàng thứ rượu có
pha chất độc đặc biệt làm tiêu tan hết nội lực trong cơ thể của người rồi. Từ
nay người vĩnh viễn giã từ cái thế giới của chốn giang hồ. Tửu lượng đặc biệt
đã phế bỏ tất cả võ công vô địch của tướng công, người đã yếu đuối còn hơn cả một
người yếu đuối, để tiện thiếp có thể thừa hưởng toàn bộ thể xác cũng như tâm hồn
của chàng cho riêng mình.
Phu nhân gọi
con hầu bưng ra một cái khay khảm bạc, trên khay có một tờ giấy đã viết sẵn chữ
và một con dao cán nạm vàng, lưỡi dao sáng loáng, phu nhân cầm con dao giơ lên
trước mặt tướng quân:
– Trước khi
thiếp yêu thương chàng, xin tướng công hãy ký vào tờ quân lệnh trạng này cho đại
hùng binh ngoài kia được tự do trở về quê quán của họ mà sinh sống. Tướng công
dừng chân tại chốn bồng lai này hưởng hạnh phúc thì bao nhiêu quân sĩ dưới trướng
của người cũng cần được hưởng hạnh phúc với vợ con tại quê hương làng mạc của họ.
Phu nhân cầm
tay tướng quân giúp cho người điểm chỉ lên tờ giấy, rồi nàng sai con hầu đem tờ
quân lệnh trạng ra cánh đồng truyền cho ba quân. Xong phu nhân vén tay áo dùng
con dao xinh xắn xẻo từng miếng thịt của tướng quân. Xẻo tới đâu tướng quân quằn
quại tới đó. Tướng quân rên lên đau đớn, máu tuôn ra thấm chiến bào, lệ trào đẫm
mặt mũi. Đôi mắt phu nhân sáng rực lên niềm hạnh phúc vui sướng!
Nàng thủ thỉ
bên tai chàng:
– Từ nay tướng
công mới đích thực là tình nhân của riêng thiếp.”
*
Người nghe phát
biểu:
– Phịa!
Người kể:
– Không phịa, kể
theo chuyện Tàu, nhưng có “xào nấu chế biến” thêm bớt chút đỉmh.
Thi sĩ vừa kể
chuyện vừa dùng nước trong lon guigoz tráng mấy cái bát nhôm ăn cơm. Thi sĩ hắt
bát nước rửa chén ra ngoài cửa sổ bỗng có tiếng quát ở ngoài vọng vào:
– Anh nào trong ấy
hắt nước cả vào mặt cán bộ làm nhiệm vụ ở ngoài này.
Cả phòng giam
đang ồn ào bỗng nín khe. Ban tự quản vội vàng làm phận sự “rút kinh nghiệm”.
Trong phòng giam rộng năm gian nhốt một trăm tù chỉ có hai ngọn đèn vàng mờ mờ
tù ngồi gần còn nhìn thấy mặt nhau, nhưng bên ngoài trời tối đen như mực chẳng
thể thấy vóc dáng cán bộ nhà nước ra sao, chỉ nghe tiếng mắng vọng vào:
– “Bố lếu bố
láo!”
Bác già nói nhỏ với
thi sĩ :
– Rút kinh nghiệm,
nghe chưa! Tạt nước bẩn vào mặt người ta như thế ai mà chịu nổi. Nên nhớ theo
lý luận của lực lượng võ trang nhân dân thì lính gác là chức quyền cao nhất ở
chiến tuyến!
*
Thi sĩ về và cùng
gia đình đi Thụy Điển thật. Đúng như lộ trình bà tùy viên văn hóa sứ quán cho
biết. Gia đình được hoàng gia giúp đỡ tận tình để lập lại cuộc sống. Thi sĩ được
các nhà văn hóa địa phương đãi tiệc, chợt nhớ tới bạn còn trong chốn khốn cùng,
bèn chạnh lòng làm bài thơ:
Lửa, Thấy Từ Stockholm.
“Thomas von Vegessack quẹt
diêm:
Lửa đèn, lửa bếp, lửa lò sưởi
Ngọn nến bữa ăn chiều lung linh
Quặn lòng quê xa bạn tù tội
Phương đông: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ
Quê ta bao nhiêu ngũ hành sơn
Bếp ai tro lạnh chiều nay nữa
Lửa gì đâu lửa tủi lửa hờn
Nắm xương ai gửi rừng Xuyên Mộc
Ngọn đèn nào, xao xác gió mưa
Cơm kêu, kẻng gõ, miệng khô khốc
Con đóm đêm xưa có lập lòe
Bạn ta nữa, chân núi Mây Tào
Mười bảy năm, rừng sâu, sức cạn
Chiều khổ sai, khoai sắn ra sao
Lửa nào sưởi cho lòng đủ ấm
Tha lỗi nhé, miếng ngon nuốt nghẹn
Vui riêng, cứng lưỡi, thốt không
đành
Cháy mãi cùng ta vậy, nghe nến
Ngọn lửa anh em ngày tái sinh.” (*)
Một thời gian
sau, cuộc sống ổn định, thi sĩ tìm đến vườn thú quốc gia, hỏi thăm mãi mới ra
chỗ ở của sứ giả Việt Nam. Trước dinh cơ có treo tấm bảng bằng chữ Thụy Điển và
chữ Anh, nói rõ tiểu sử, xuất sứ, giòng giống và tặng phẩm từ Việt Nam. Voi con
đã lớn. “Ông Bồ” ở một chỗ khang trang đẹp đẽ chứ không bờ bụi như hồi mẹ chết.
Thi sĩ nhìn “Ông” nhưng “Ông” không nhìn thi sĩ. Bây giờ, ở đây, thi sĩ nhận ra
“Ông”. Bây giờ, ở đây, “Ông” không nhận ra thi sĩ. Di dân thấy sứ giả muốn bắt
quàng thì bắt. Sứ giả đâu cần nhận họ!
“Ông” không biết
một tí gì về người đã phải góp sức đẩy đít đun “Ông” về vườn xoài chờ ngày đi sứ.
“Ông” cũng không biết rằng thi sĩ và nhiều người tù khác đã phải chia sớt cái
phần ăn khoai sắn nấu cháo cho “Ông” cầm hơi thuở “Ông” sa cơ mà chưa gặp thời.
“Ông” cũng không biết một tí gì về cuộc tán dóc, bâng quơ chuyện đem voi đi cống...
của các nhà “biệt kích văn hóa”. “Ông” hoàn toàn vô tư. Thế cho nên thi sĩ chỉ
biết đứng lặng nhìn “Ông”. Thi sĩ muốn bày tỏ một tình cảm với “Ông”, muốn tặng
“Ông” một cái gì, một bài thơ chẳng hạn, muốn cho “Ông” một món ăn, một củ
khoai củ sắn chẳng hạn… nhưng ở đây người ta cấm du khách chọc thú và cấm cho
thú ăn, “mọi chuyện đã có nhà nước lo”. Thôi thì đành đứng nhìn “Ông” mà nhớ lại
một thời khổ nạn đã qua.
*
Trưởng trại lên
lon vùn vụt. Năm 1975 từ Thanh Hóa vào Nam coi tù, anh ta mới là thuợng sĩ công
an. Hành hạ tù một thời gian anh lên sĩ quan, rồi làm trại trưởng đeo lon thượng
úy. Sau vụ voi đi sứ anh ta lên đại úy rồi tiếp sau đó lên ngay thiếu tá. Sự
nghiệp cai tù của anh đã trải qua nhiều vụ quan trọng, dưới tay xiềng xích của
anh đã có nhiều tù nhân thuộc mọi giới. Có các bộ trưởng chính khách miền Nam,
có các linh mục tu sĩ nhà thờ Vinh Sơn, dòng Đồng Công Thủ Đức, các vị thượng
toạ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, có các nhà văn, nhà báo… Khi
các nhà “biệt kích văn hóa” được về anh ta đeo lon trung tá. Sẵn có uy tín, anh
ta lên bộ nội vụ xin lãnh số sĩ quan tù binh còn lại hơn trăm người gồm các cấp
tướng và tá về trại Rừng Lá để anh ta quản lý. Anh đổi cách đối xử và xưng hô.
Anh gọi tù sĩ quan là các bác và để các bác sống thoải mái chờ ngày về… đi Mỹ!
Có lần anh ta nói:
– “Thằng em” chỉ
học lớp 3, không bằng các bác, nhưng thằng em cũng lên cấp tá và thằng em… chơi
đẹp.
Một đội lao động
đặc biệt gồm các vị tướng và đại tá tù binh khoảng năm chục người, nhà lô ngay
bên bờ Suối Lạnh, gần đập thủy điện. Đội trưởng là cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh,
sáng sáng dẫn các bác tù binh quí phái ra nhà lô lao động, nấu cà phê, mì, ăn
sáng, giặt giũ áo quần phơi trên dây. Rồi trồng rau, trồng cỏ, trồng hoa gì tùy
ý. Trưa nấu ăn trưa xong mắc võng ngơi. Chiều lại trồng hoa, trồng cỏ, trồng
rau gì tùy ý. Xong nấu ăn tối xách về trại. Trước khi về các bác xuống suối tắm.
Ở các đội lao động khác tù thường tắm truồng. Đội này không thấy bác nào tắm
truồng, mà khi thay quần lót các bác còn vào trong nhà lô kín đáo.
Một hôm đang tắm,
có con rùa lớn nổi lên ngay “Mé Nước”, bác đại tá có lẽ là trẻ tuổi nhất trong
số các đại tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tắm gần đó nhanh tay vớ chiếc cuốc
vung lên bổ xuống một chiêu, máu loang bãi tắm, con rùa nổi lềnh bềnh, vớt lên
bờ thì chết. Rùa cân nặng 43 ki lô, xẻ thịt mời tất cả đội kể cả các bác bịnh nằm
trong trại, mỗi bác được gần 1 kí thịt. Nhưng có ba bác không xài. Ba bác già
kiêng không ăn món thịt rùa? Hay các bác tỏ lòng kính trọng thần kim qui? Những
ngày sau trong trại tù và cả ngoài trại tù đều có lời bình rằng... rùa thiêng Rừng
Lá Suối Lạnh nổi lên dâng gươm cứu quốc nhưng các vị tướng sĩ không nhận! Chuyện
đến tai trại trưởng, anh ta than uổng, phải chi nếu có bác nào nhận kiếm phất cờ
khởi nghĩa thì cho... “thằng em” theo.
Anh ta đang thời,
lại có các anh lớn trên trung ương nâng đỡ nên anh ta muốn làm gì thì làm muốn
nói gì thì nói. Muốn đốt một căn nhà anh bật quẹt ném cả bật lửa vào cho cháy
khiến các công an và tù chạy đồ đạc ra không kịp, anh đứng nhìn lửa cháy mắt
long lanh, anh nói “phải giải quyết táo bạo”.
Mấy năm trước có
anh công an thách đố tù binh anh nào không muốn lao động thì... ngồi nghỉ đi,
trung tá nhảy dù Nguyễn Lô bèn vứt mẹ nó cái “ki” khiêng đất xuống rồi...
ngồi nghỉ, thì bị anh ta ra lệnh đem đi nhốt. Thời gian sau này dường như tình
thế đã có những đổi thay, khi TV Sài Gòn xuống thu hình, công an bắt Nguyễn Lô
cầm cuốc làm cỏ để quay phim, Nguyễn Lô nói “Tôi không chơi được cái trò... khỉ
đó!”, mọi người xung quanh tưởng phen này ông tiểu đoàn trưởng nhảy dù lừng lẫy
sẽ bị nó cùm mút mùa, ai ngờ khi tay công an dẫn Nguyễn Lô lên báo cáo xin đem
nhốt thì liền bị anh ta cự “Ông ấy không thích... đóng phim thì thôi chứ việc
gì mà nhốt người ta”. Nguyễn Lô thời chiến lừng lẫy, thời tù cũng lẫy lừng, có
lần tay trưởng trại này đã nhận xét “họ là những người kiên cường đáng phục.”
Anh ta có một dàn
cung nữ 5 cô do anh ta tuyển chọn từ khu B nữ tù. Cả 5 cô đều nhan sắc mặn mà,
tù nam gọi là “ngũ long công chúa” vì 5 cô không phải lao động nặng nhọc, chỉ
lo bán “căng tin” và ở riêng rẽ trong một ngôi nhà bên bờ suối. Các cô không được
có tình ý với ai, cũng không ai được tán tỉnh các cô kể cả công an coi tù chứ
không riêng gì tù, ấy vậy mà cũng có mấy tay bị đem đi cùm vì tội lai vãng đến
khu vực cấm. Tất cả đều phải hiểu ngầm là 5 cô của riêng trại trưởng. Thỉnh thoảng
anh ta vung vẩy trong bộ quần áo pyjama sọc màu phanh ngực... đi tới căn nhà có
các cô ở để... kiểm soát một lát rồi đi ra. Không một ai biết chuyện gì đã xảy
ra và xảy ra với ai bởi vì các cô gái xinh đẹp vẫn đi qua đi lại, đi ra đi vô,
từ căn nhà ở sang gian hàng “căng tin”. Các cô không phải mặc quần áo tù có
đóng dấu, các cô mặc đồ bộ kiểu cọ màu sắc đẹp đẽ, tươi mát, thướt tha. Mỗi năm
trong đợt giảm án cô nào cũng có tên trong danh sách “ân xá” sáu tháng, một
năm, có cô được tới một năm rưỡi... Ngày về của các cô sớm muộn nhanh chậm là
tùy thuộc ở thái độ của các cô chấp hành cải tạo tốt hay khá...
Một hôm có anh tù
nam trẻ tuổi uống thuốc trừ sâu tự tử ở trạm thủy điện, khiêng vào bệnh xá, còn
đang cấp cứu thì lại phát giác ra một cô trong dàn “công chúa” cũng đang mê man
bất tỉnh ở nhà bờ suối. Y tá bơm nước rửa ruột cho hai người nhưng thấy nguy kịch
bèn chuyển đi bệnh viện tỉnh Phan Thiết. Hai ngày sau anh tù nam chết ở bệnh viện,
năm ngày sau cô tù nữ công chúa thoát chết trở về trại giam. Nàng nhoẻn miệng
cười “tại em uống có một nửa!” Trại trưởng cử cán bộ thân tín lên bệnh viện lo
việc chôn cất anh tù nam ở ngay nghĩa địa tỉnh. Trại trưởng tiết lộ với các bác
tướng “tôi cho nó bộ ván thượng hạng tốn năm trăm ngàn”, không ai hiểu vì sao
anh ta lại phải xuất tiền trại ra nhiều thế để o bế người tù trẻ dại thảm tử,
trong khi thường nhật tù chết chỉ được nằm trong bộ ván gỗ tạp do nội bộ sản xuất
để sẵn ở xưởng mộc. Bà mẹ nạn nhân từ Biên Hòa được báo tin lên chôn con khóc “Ới
con ơi, mẹ có một mình con, sao con không chờ mãn án về mẹ cưới vợ cho, việc gì
con phải tranh giành gái, ghen tuông, với chúng nó để rồi chết thảm vậy con!”
Cô nữ tù công chúa cũng không được ở “căng tin” ngoài trại mà phải vào bán
“căng tin” bên trong trại. Năm con rồng cái còn có bốn.
Về sau trại trưởng
tuyển thêm hoa hậu mới, nhưng dời các nàng từ chân núi Mây Tào về chân núi Chứa
Chan cho các cô làm dịch vụ du lịch ở đó. Nói là dịch vụ du lịch chứ thật ra chỉ
là một cái bar do các cô làm chiêu đãi viên, một thứ “quán biên thùy” mở ra
trên ven quốc lộ đón khách thập phương, kinh doanh thu nhập, làm kinh tế cho trại.
Một công chúa có hỗn danh là “Mai bụi” đẹp mê hồn, người thay thế cho công chúa
“Mai bò” cũng đẹp mê hồn đã hết án về Sài Gòn, một ngày đẹp trời nàng “Mai bụi”
lặng lẽ giã từ “ban” em đi theo một tay giang hồ nào đó. May mắn nàng Mai trốn
thoát, công an của trại trưởng đi truy kích mấy ngày không tìm lại được đành về
tay không. Công an đã có thành tích truy kích bắn chết tù nhân “Hải đèn cầy” trốn
trại, vì thế anh ta vẫn vững vàng ở chức trưởng trại. “Hải đèn cầy” cũng là một
tù nhân chung thân nổi tiếng, Hải là tên, “đèn cầy” là do những vết sẹo phỏng
trên mặt, do anh ta bất khuất không chịu nhục dưới tay tên “đầu gấu” hồi ở khám
Chí Hòa, Hải nói anh là người không phải là chó nên anh không ăn cứt, bọn chúng
đè anh ra úp bát nến nấu sôi vào mặt anh cháy thành sẹo. “Hải đèn cầy” khi bị
chuyển tới trại Rừng Lá đã tuyên bố khẳng định là sẽ vượt ngục, tù chung thân
thì phải tự giải phóng thôi, đằng nào cũng giá chót. Hai lần vượt ngục trước bị
bắt lại, lần thứ ba bị bắn chết. Tội nghiệp!
Riêng hai nàng
Mai xinh đẹp thoát ra được ngoài đời liệu có dịp nào gặp nhau không? Điểm độc
đáo là cả hai nàng Mai, không chỉ có sắc đẹp não nùng, mà còn là những “tay
súng bá vàng” nổi tiếng trong các “phi vụ” đánh ngân hàng thời trước.
Trưởng trại này
là tay nhiều thủ đoạn, mánh khóe, anh ta thường nói với các bác tướng tá cứ thoải
mái nghỉ ngơi chờ... đi Mỹ. Có lần anh ta còn phàn nàn sao lâu quá không thấy
trên gửi lệnh thả về để các bác đi cho sớm kẻo các bác gái ở bên ấy chờ đợi tội
nghiệp. Anh ta còn dặn rằng “Đi rồi khi nào trở về nhớ... thằng em chơi đẹp”.
Các bác tù già cũng khôn vô cùng, chẳng bác nào nói gì, im lặng là vàng! Kệ anh
muốn nói hươu nói vượn gì thì nói, chúng ông cần yên thân!
Trưởng trại còn
khoe với các bác, trên bàn làm việc của anh ta có tấm hình voi con đang bước
lên máy bay. Tấm ảnh là một bằng chứng của thành tích. Anh nói:
– Voi và Rùa là
những biểu tượng tốt của quyền uy. Nếu lần sau bắt được Rùa quí xin các bác cho
“thằng em” đổi một lợn thịt, thả Rùa xuống hồ Thiên Ân nuôi, biết đâu mộng bá
vương sẽ ứng!
Khi các tù binh
sĩ quan chế độ cũ về hết thì anh ta đã đeo lon thượng tá. Sau đó anh lên chức Cục
Phó Cục Trại Giam phía Nam, mang cấp bậc đại tá, được đi Tàu “tham quan”. Văn
phòng của anh vẫn đặt ở Rừng Lá. Bấy giờ Rừng Lá sạch banh không còn cây rừng
nào nữa, công cuộc phá rừng đang tiến lên những ngọn núi của dãy Mây Tào. Hồ
Thiên Ân được dựng lên thêm mấy ngôi nhà nổi nữa để các “anh lớn” xuống an dưỡng.
*
Thi sĩ nhận được
thư của người bạn mới ra tù đã sang Mỹ, trong thư nói:
“Ông muốn làm báo
thì phải rời đảo Phú Quốc về Sài Gòn, Phú Quốc làm gì có người đọc báo. “Anh
ta” muốn làm con “đường tự do” thì cũng phải về Sài Gòn, làm “đường tự do” ở
Phú Quốc cho ai đi... Ở Phú Quốc ông chỉ có thể “trồng tiêu”... Về đây đi ông.
Con cái nó lớn cả rồi, đứa nào muốn ở lại Phú Quốc trồng tiêu thì ở, bằng
không, thế giới rộng mở chúng muốn đi đâu sinh sống tùy ý. Nhưng ông muốn làm
báo thì phải ở Sài Gòn này. Trước khi sang nhớ tới sở thú chụp hình “cu tí” xem
nó bao lớn...”
Thi sĩ nghe lời bạn
chuyển sang Mỹ ở, trước khi đi có đến thăm “Ông Bồ” một lần nữa và chụp một tấm
hình “Ông” đang giương vòi lên cao như đang gầm. “Ông” vẫn lạnh lùng thản nhiên
không quen biết ai. Thi sĩ vẫn chỉ biết phận mình, đứng cô đơn nhìn “Ông”, muốn
hỏi “Ông” vài điều mà không hỏi được, muốn nói chuyện với “Ông” mà không nói được,
muốn cho “Ông” biết đôi điều tin tức về chốn cũ mà chẳng biết làm cách nào. Cho
nên đành ngậm ngùi từ giã ra đi.
Ở Sài Gòn thi sĩ
mãi làm báo mà quên làm thơ. Nghiệp báo chí nó đã vận vào người. Nhưng mà người
bạn già một hôm nói cho ông biết rằng sẽ có một ngày ông lại bỏ làm báo để trở
lại làm thơ, bởi vì thơ phú cũng là cái nghiệp. Làm thơ, làm nhạc... cho nó
sang trọng!
Một hôm ông được
nghe kể lại chuyện Rừng Lá. Một vụ thanh trừng lẫn nhau về quyền lợi khai thác
khu rừng Hàm Tân, kết quả là tay đại tá công an Cục Phó Cục Trại Giam và bè
phái bị bắt bỏ tù. Các “anh lớn” của anh ta ở trung ương không còn tại vị nữa,
họ cũng đang lo cho cái thân họ chưa xong nên không người nào bao che cho anh
được. Anh mất chỗ dựa, anh đã hết thời. Voi quí thì đã ra đi mất hút. Rùa
thiêng chưa bắt được...
Suốt một đời tận
tụy vì sự nghiệp giam giữ người, nay bị người giam giữ anh ta chịu đâu có thấu.
Đang là cai tù nay xuống làm tù, xuống đến tận cùng của sự đày đọa, làm sao anh
ta chịu đựng nổi. Trong phòng giam, anh bị một tay “đầu gấu” áp dụng luật giang
hồ của nó. Nó và đồng bọn cho anh chọn lựa, một là bát cứt hai là bát đèn cầy nấu
chảy đang sôi, anh chọn cái nào tùy anh. Chúng nó ngọt ngào nói tự nguyện ăn
bát cứt để tỏ lòng qui phục thì khỏi bị trừng trị úp bát nhựa nấu sôi vào mặt.
Anh hoàn toàn tự do! Hoặc làm người hèn hoặc làm người hùng! Anh rùng mình nghĩ
đến sự đau đớn của da thịt bị nhựa sôi đốt cháy, anh rùng mình nghĩ đến bộ mặt
sẹo sau này. Đại tá Cục Phó Cục Trại Giam không muốn làm người như tù nhân
chung thân “Hải đèn cầy”, đại tá tự do lựa chọn ăn bát phân. Vừa ăn anh vừa ói,
nước mắt trào ra...
Nhưng đêm đó anh
ta treo cổ chết trong nhà cầu!
Vụ án không có
chính phạm nên sau đó được xếp lại, bọn đàn em của anh bị trả về đơn vị và chỉ
bị “xử lý nội bộ”, sa thải khỏi ngành, họ ra làm nghề đi rừng ở địa phương tiếp
tục lên núi Mây Tào chặt cây lấy củi về bán làm kế sinh nhai độ nhật.
*
Ngồi hút thuốc uống
trà ở ngoài hiên quán cà phê trên đường Bolsa, nói chuyện mây bay gió thổi, thi
sĩ đưa cho bạn bè xem tấm hình con voi chụp ở sở thú nước Thụy Điển, “Ông Bồ”
ngự trong chuồng trại rất sang trọng, tuy đã hơi già nhưng “Ông” vẫn béo tốt to
khỏe sạch sẽ không lam lũ như các đồng loại còn ở quê nhà. “Ông” vô tư... không
có vẻ gì là nhớ Rừng Lá, nhớ núi Mây Tào, nhớ nơi “Ông” sinh ra... “Ông” hoàn
toàn không biết một tí gì về chốn cũ đã có những biến đổi, đàn voi rừng Hàm Tân
đang bị di chuyển lên vùng Trường Sơn lạnh giá, công cuộc “chuyển trại” đã có
thương vong, hai chết! “Ông” thản nhiên thành “công dân” nước người, “Ông” thản
nhiên mang “quốc tịch” khác, “Ông” không còn dính líu gì tới miền đất quê
hương, nơi mà mẹ “Ông” đẻ ra “Ông”, nơi bà bị sát hại. “Ông”, một kẻ xa lạ!
Khi móc túi lấy
tiền trả chủ quán, thi sĩ lựa ra trong mớ mấy đồng “đô la” nhầu nát một mảnh giấy
nhỏ, đưa cho người bạn già nói “còn đây là quà tặng ông ngày ra tù”. Mở ra thấy
bốn câu:
“Đình chùa lụt lớn. Tượng gỗ trôi
Anh là tượng đất. Anh ở lại
Đất lại hoàn đất, tha hồ cười
Ta cười tới bao giờ mới thôi.” (*)
(HB. 2001)
Thảo Trường
(*) Thơ Trần Dạ Từ.