Từ lúc máy bay cất cánh, cô gái ngồi bên cạnh tôi cứ mãi thở
dài. Thức ăn người chiêu đãi viên đưa đến cô cũng không buồn đụng đến. Đôi mắt
cứ thẫn thờ nhìn qua khung cửa sổ. Tôi khẽ hỏi: “Em không ăn sao, sáng nay đi sớm
chắc đâu kịp ăn sáng hả.” Cô quay lại nhìn tôi, ứa nước mắt nhẹ lắc đầu, rồi lại
gục đầu xuống đôi bàn tay. Tôi lặng nhìn cô ta khóc, nhìn cách ăn mặc khá đỏm
dáng và thanh lịch, tôi chắc cô cũng thuộc hàng khá giả và có học. Không phải
thuộc nhóm người mỗi khi về thăm nhà, đi máy bay mà ăn mặc như đi dự dạ hội,
vàng vòng đeo đầy người còn hơn đi dự đám cưới. Những ngón tay của cô trơn tru,
không sơn quét, mái tóc thẳng buộc túm gọn gàng. Tôi khẽ thở dài, không biết cô
bạn cùng chuyến gặp chuyện gì đau lòng quá vậy.
Ông khách Úc ngồi bên tay phải đang hỏi cô chiêu đãi viên một lon bia Úc, mà sao cô ta cứ ngẩn ngơ không hiểu ông nói gì, tôi dịch hộ. Ông Úc phía sau cũng than phiền với cô là sao hỏi whisky thì lại đem ra cho người khác mất. Cô ta cũng cứ ngơ ngẩn chẳng hiểu ông ta nói gì, tôi lại một lần nữa làm thông ngôn bất đắc dĩ. Những chuyến bay của Vietnam Airlines lâu lâu lại như vậy, có một số nhân viên phi hành nghe tiếng Anh rất dở, hay chẳng chuyên tâm chú ý nghe? Nhiều khi khách Việt Nam nói tiếng Việt mà còn bị lơ là chẳng nhớ, có lẽ bảy phần mười là con ông cháu cha nên lên máy bay vẫn muốn làm cha và ông của hành khách. Có điều vì là chuyến bay thẳng, chỉ bay trong vòng tám tiếng nên khách vẫn đông nườm nượp. Và dầu sao, lên máy bay này cũng cảm thấy ấm cúng hơn khi đi các máy bay của các hãng hàng không ngoại quốc khác.
Cô bạn đồng hành vẫn ngồi yên lặng lẽ, như đắm chìm vào một
thế giới xa xăm nào đó. Tôi thấy lo lo cho cô, nhưng không tiện hỏi, đưa mắt
nhìn vu vơ xung quanh. Tiếng nói chuyện bằng tiếng Việt ồn ào nghe khá vui tai,
tạo một cảm giác quen thuộc. Những người lớn tuổi có mặt trên máy bay, hình như
ai cũng cảm thấy vui vẻ và háo hức. Đây là cái háo hức được thấy lại quê cũ sau
những ngày tháng quá rảnh rang đến độ chán chường ở hải ngoại. Dạo này trên đường
phố gần các chợ Việt nam, xuất hiện rất nhiều các bà già, ngồi trên một cái ghế
nhựa, bán các thứ để trong xe đẩy như xôi, chè, đậu hũ chiên, các bó hành, rau
sống, các túi ớt nhỏ, v.v... có lẽ cắt từ vườn nhà. Bán không phải vì thiếu thốn,
ở xứ Úc này, trợ cấp xã hội dư giả cho người già, nhưng có lẽ họ bán cho vui, để
có thêm đồng tiền rủng rỉnh đi về Việt Nam cho bà con họ hàng. Có lẽ không nước
nào trên thế giới có số người già trở về Việt Nam nhiều như ở Úc, nơi mà chỉ cần
tám tiếng máy bay là về tới nơi. Đa số các người già Việt Nam tị nạn tại Úc
không phải lo về sinh kế, họ có thể về Việt Nam ở liền một hơi sáu tháng mà tiền
trợ cấp cứ đều đều vào nhà băng tháng hai lần. Ăn ở đã có con cái bảo bọc, tiền
tiêu có nhà nước cấp, sức khỏe có nhà nước lo vẹn toàn. Vậy thì cứ ung dung, mỗi
năm về Việt Nam một, hai lần. Đã có con cái đưa ra phi trường, rồi một nhân
viên Hàng không Việt Nam đã có mặt ở đó, khỏi cần thông dịch. Lên máy bay thì
nhân viên nói tiếng Việt, ở phi trường không cảm thấy lạc lõng, không sợ bơ vơ.
Vậy thì chấp nhất làm gì những lỗi lầm của các phục vụ nhỏ nhặt trên máy bay
khi lòng đang phấn khởi vui như sắp Tết.
Mấy ông Úc phía trước và phía sau lại loay hoay, loay hoay.
“I can’t hear”, “Me neither”. Tôi cũng thử cái head phone của mình, hình trên
TV thì có, mà âm thanh thì không. Mấy người ngoại quốc lao nhao, hình như cả
khoang không ai nghe được cái gì . Người chiêu đãi viên bình thản như không:
“Có lẽ máy hư chị ạ.” Thế là xong, đúng là cứ tự nhiên như người Hà Nội. Có lần
được ăn cả thức ăn thiu, cũng vẫn câu trả lời êm như nhung: “Chắc nhiệt độ hôm
nay nóng quá.” Có lần cả một chuyến máy bay chỉ có hai toilets có thể sử dụng
được. Còn bốn toilets khác mở cửa ra là trên bồn cầu đã chễm chệ một bao rác to
tướng. Và vẫn câu trả lời thản nhiên của đám nhân viên phi hành: “Rác nhiều quá
không có chỗ để chị ạ.” Có phải chỉ vì mình Hàng không Việt Nam độc quyền đường
bay thẳng nên coi hành khách như pha: “Ta phục vụ thế đấy, chê thì đi hãng khác
đi. Đi hãng khác để đổi chuyến hai, ba lần, thủ tục check in/out hai, ba lần,
thời gian kéo dài gần gấp đôi, cái nào hơn.” Thôi thì cắn răng ngồi tám tiếng
cho xong, được cái này mất cái kia, đừng được voi đòi tiên, khó tính quá làm
gì. Thành ra nếu có bật đèn gọi chiêu đãi viên mà không có ai tới thì cũng nên
nhẫn nại, đèn bật quá hai mươi phút thì tự động tắt, tiền điện đã covered trong
vé máy bay, có gì mà ngại. Thấy nhân viên phi hành nào đi qua, có muốn hỏi
khăn, hỏi nước mà được đem đến thì hôm đó coi như may mắn cực kỳ. Nếu buồn thì
đi vào các khoang dành cho các nhân viên phi hành nghe họ rôm rả nói chuyện với
nhau vui như Tết, và xin chớ làm phiền cắt đứt câu chuyện đang vui của họ. Cắt
đứt lời nói chuyện của người ta là bất lịch sự đấy, những người đã ở ngoại quốc
lâu phải biết điều đó chứ. Nhưng cũng có khi gặp những nhân viên phi hành phục
vụ hành khách trên mức đòi hỏi. Một lần đi máy bay lúc còn cho phép hút thuốc
trên máy bay từ ghế số 32 trở xuống, tôi ngồi ghế số 32. Người hành khách phía
trên là người ngoại quốc, ông ta hỏi cô chiêu đãi viên xem ông được hút không?
Cô ấy trả lời không được. Rồi cô ấy tự động đi xuống bảo tôi đổi chỗ cho ông ta
để ông ta có thể hút thuốc. Dĩ nhiên là ông ta đâu yêu cầu điều đó, và dĩ nhiên
tôi không thể theo lời yêu cầu của cô đổi chỗ để ngồi hít khói. Cô này thật
đáng được ông khách ngoại quốc tuyên dương.
Nhưng nói cho cùng ngay ở nước ngoài, vào một số tiệm ăn Việt
Nam, thái độ phục vụ khách hàng của các nhân viên cũng khác hẳn khi khách là
ngoại quốc. Người ngoại quốc vào, đặt thực đơn một chút thức ăn đã ra. Người Việt
Nam ngồi chờ dài cả cổ. Vào những tối cuối tuần, thong thả ăn chậm một chút đã
được nhà hàng ra nhắc khéo đứng lên nhường chỗ cho khách khác, trong khi những
bàn khách ngoại quốc thì thấy họ cứ điềm nhiên, ung dung hưởng một bữa ăn nhàn
nhã. Tại sao lại có hiện tượng kỳ thị như vậy khi chính chúng ta cùng là người
Việt với nhau. Tại sao phải sợ những người ngoại quốc như vậy, tôi cũng chẳng
hiểu nổi. Ừ, nhưng sao tự dưng lại hay nghĩ lung tung, hình như càng lớn tuổi,
cái trí óc lại càng lãng đãng, cứ nhảy chuyện nọ sang chuyện kia.
Tôi quay sang cô gái ngồi bên cạnh, cô có vẻ mệt mỏi, tôi hỏi
cô xem có cần nước uống không, cô gật đầu. Cầm lấy ly nước từ tay tôi, cô khẽ
nói lời cám ơn, rồi uống từng ngụm nhỏ. Tôi khẽ hỏi: “Em về Việt Nam thăm nhà hả,
có chuyện gì không mà sao khóc hoài vậy?” Cô ứa nước mắt rồi như nỗi buồn trong
lòng u uất quá, cô nói thật nhỏ: “Em về tìm chồng em.” Tôi tròn mắt ngạc nhiên.
Cô khẽ kể, qua Úc đã hơn mười năm, bươn chải cho đến lúc làm chủ được một shop
bán quần áo. Ngày ngày ra shop, nuôi ba đứa con ăn học, chồng không đi làm, ở
nhà thư thả đọc sách, trồng hoa, cuộc đời đã tưởng đâu yên ả. Mấy năm sau này,
tiền bạc dư dả, chồng rảnh rang đi về Việt Nam thăm nhà vài lần một năm. Mới
đây, nghe nói ông già chồng bệnh, ông chồng về thăm đã hơn hai tháng, tiền bạc
ôm theo cũng bộn. Tới tuần rồi, nhận điện thoại từ nhà chồng yêu cầu gửi tiền về
cho nhà, cô mới ngã ngửa. Ông bố chồng chả bệnh hoạn gì cả, ông chồng về Việt
Nam chả biết ở đâu. Nhờ bạn bè dò tìm mới biết ông đang thuê nhà ở với một cô
gái chỉ hơn 20 tuổi. Cô vội vã nhờ bạn bè trông shop, gởi con và bổ về Việt Nam
tìm chồng...
Tôi nghe mà chỉ biết im lặng nhìn những hàng nước mắt của cô
xót xa. Những chuyện như vậy giờ hình như nhan nhản. Đó cũng là một trong những
lý do khiến những chuyến đi về Việt Nam của tôi mất đi nhiều hứng thú. Còn gì
vui khi trở lại một nơi mà những hình ảnh êm ái nên thơ bị đồng tiền làm cho
nhơ bẩn, một nơi mà giá trị tinh thần đã xuống dốc từ lúc nào và cuộc sống trở
nên vô cùng chụp giật. Mọi người sống vội vã, hưởng thụ vội vã, nhìn về một
tương lai ngắn hạn hơn là dài hạn.
Nhớ trước đây khi ra thăm miền Bắc, tôi được biết hoàn cảnh
những người đàn bà trong lúc ông chồng đi làm xa, gánh hết giang sơn nhà chồng,
tảo tần nuôi bố mẹ, em chồng, con cái. Đến khi ông chồng trở về, đem theo vợ
bé, bố mẹ chồng cưng con nín lặng, đuổi nàng dâu trưởng ra sau vườn với lũ con
để lấy nhà chính cho con trai và nàng dâu mới ở. Những câu chuyện như vậy xảy
ra đã gần như bình thường trong đời sống, và những người đàn bà trong cuộc chấp
nhận nó như là một định lý của cuộc đời.
Một buổi chiều năm 89, khi đứng đợi phà ở bến phà Bính, cô bạn
Úc cùng làm việc chung đã nói với tôi:
- Sao tao ghét đàn ông Việt Nam quá?
Trả lời cái nhướng mày của tôi, cô bạn nói
Mày nhìn mà xem, nãy giờ tao đếm 57 người đi từ bến phà lên
và những người quanh các quán gần đây. 39 người đàn ông, hoặc chễm chệ trên xe
máy, xe đạp, hoặc vắt vẻo hút thuốc, uống nước trà, tán dóc trong các quán. Còn
lại là toàn đàn bà, hoặc gánh gồng, hoặc ngồi bán quán. Tao bảo đảm với mày bà
nào cũng phải nuôi hoặc bố mẹ chồng, em chồng, con cái và nuôi cả mấy cái ông
chồng để mấy ông có thì giờ rảnh rang như vậy.
Dù tôi có cãi lý thế nào, lý lẽ của tôi cũng quá sức yếu ớt
trước những con số hùng hồn như thế kia, và nhất là vì những hình ảnh ấy diễn
ra ở khắp nơi. Từ những bà cụ già bước không nổi với một rổ con con bán các thứ
vặt vãnh trên hè phố đến những người đàn bà gánh gồng, một bên thúng là đứa con
thơ, bên kia là mấy bó rau nhúm nhó. Biết tới bao giờ, những người đàn ông Việt
Nam mới gột bỏ hẳn được cái ý thức ta luôn là Boss đã bám sâu trong tâm não.
Có một lần, trên phà, gặp một người đàn bà trẻ dắt hai đứa
con gái sinh đôi rất xinh, tôi thích thú nhìn hai đứa bé: “Chị thích quá, sinh
được hai cháu xinh quá.” Mới thế mà người đàn bà đã bật khóc: “Xinh thì làm gì
hả chị, em chỉ thèm con giai thôi.” Chưa kịp hỏi cô đã kể: “Anh ấy bỏ em đi lấy
vợ khác kiếm con giai rồi.” Gia đình ở đây chỉ được sanh hai con, sanh thêm thì
mất việc, nên ông chồng “đành” ly dị vợ để có thể lấy vợ khác kiếm con trai cho
vừa lòng bố mẹ và vừa lòng ông ta. Nghịch lý đã trở thành định lý mất rồi, biết
nói làm sao.
Rồi sau này ở khắp nơi, các quán ăn nhậu, các chốn ăn chơi mọc
lên như nấm; các ông ra ngoài làm ăn là thế nào cũng phải đón đưa ăn nhậu. Vợ
con thui thủi ở nhà để chồng đi giao tiếp bên ngoài, tình trạng một cảnh năm ba
quê của các ông trở nên phổ biến. Rồi các ông Việt Nam ra nước ngoài trở lại
quê hương. Các người đàn bà Việt Nam đi ra ở ngoại quốc tưởng đã thoát được cảnh
tượng một chồng hai vợ nhưng lại có một số người bắt đầu lâm vào những tình cảnh
này. Khi những ông chồng áo mão xênh xang về đến quê nhà, bạn bè, họ hàng săn
đón, đưa đi chơi chỗ nọ chỗ kia, rủ rê vào những chỗ ăn chơi tươi mát. Ở đấy,
dù bao nhiêu tuổi vẫn được các cô gọi là anh ngọt như đường phèn. Cái cảnh
thanh tịnh ở nước ngoài trở nên quá sức boring, người vợ ở nước ngoài bỗng trở
thành một cái ách nặng nề trên cổ. Ở nước ngoài người phụ nữ bao nhiêu công việc,
thời giờ đâu săn sóc các ông tận tình, các ông về quê nhà tránh sao khỏi sa
ngã. Và như thế lại thêm một định lý trở nên định luật.
Tôi ái ngại nhìn cô bạn đồng hành:
- Rồi mấy hôm nay em liên lạc được với anh ấy chưa?
- Dạ em có số
mobile, em có nói chuyện.
- Anh ấy nói sao?
- Anh ấy nói có
chuyện gì đâu, đừng nghe người ta đồn bậy, về Sài Gòn anh ở với người bạn cho
vui, về nhà chật chội, nóng nực.
- Anh ấy biết em
về Việt Nam không?
- Hôm em nói là về,
anh ấy bảo đừng về làm chi, vài tuần nữa anh ấy về.
- Rồi hôm nay anh
ấy biết em về không?
- Dạ biết, anh ấy
bực lắm, nói em là đừng có về, mà nếu về thì về ở nhà, coi như thăm gia đình chứ
chẳng cần kiếm anh ấy làm gì. Để anh ấy đi chơi cho thỏa thích đã, một năm ở
nhà với vợ con mấy tháng, còn mấy tháng phải để cho anh ấy tự do.
Tôi nghe mà cũng
không biết nói làm sao. Cô gái lại nức lên khóc:
- Chị bảo em giờ
phải làm sao.
Tôi cắn nhẹ vành
môi nín lặng. Biết khuyên cô thế nào bây giờ. Chẳng lẽ bảo cô ta là người như vậy
bỏ quách cho xong. Nhưng nói cho cùng, các ông Việt Nam hình như vẫn sống theo
lối cổ. Ông nào cũng muốn mình làm chủ gia đình, được vợ con nể sợ. Chồng cô
này chỉ ở nhà, trông vào đôi tay làm ăn của vợ, tự nhiên ông ta cảm thấy thiếu
thốn, cái self esteem mạnh quá nên khi về Việt Nam, được một người đàn bà khác
nể sợ, cảm phục, chiều chuộng, dù chỉ là vì đồng tiền do vợ mình làm ra, ông ta
cũng cảm thấy thoải mái vì tự ái được ve vuốt. Cũng không hẳn ông ta chán ghét
vợ con, nhưng ông ta muốn được tôn thờ và nể trọng. Cô gái có vẻ hiền nhưng chắc
chắn với một cái shop phải trông coi, ba đứa con phải đưa đón, cơm nước, việc
nhà, việc shop, cô không thể lo lắng chiều chuộng chồng ngọt ngào như các cô
gái ở Việt Nam đối với ông ta khi ông ta trở về với đô la rủng rỉnh, và hứa hẹn
cái viễn ảnh được bảo lãnh sang Úc. Bây giờ điều tốt nhất để khuyên cô nắm giữ
ông chồng mình, là đợi ông ấy trở về, đặt ông ta trở lên lại ngai vàng để tôn
thờ và chiều chuộng, mong rằng tự ái ông ta lại được ve vuốt, và ông ta lại trở
lại với vợ con. Nhưng liệu cô có thực hiện được không, khi công việc hàng ngày
đầy ắp thời khóa biểu và những mệt mỏi trong đời sống khiến cô ta cũng đang tha
thiết cần một sự chia sẻ và nâng đỡ? Và khi một người đàn ông đã có những nghĩ
suy như vậy, ông ta có bằng lòng với khung cảnh hiện tại khi biết là nếu mình
ôm nửa gia sản về bên kia, sẽ có bao nhiêu cô gái trẻ đẹp mời gọi, dù biết chỉ
vì đồng tiền nhưng đồng tiền đó đã nâng giá trị của ông ta lên. Tội gì ở ngoại
quốc làm một cái bóng khi có thể về nước làm một hoàng đế không ngai. “Thà một
phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn leo lét suốt năm canh.” Nhưng mà như
thế thì còn gì hai chữ tình nghĩa và thủy chung. Một chị bạn ở đây đã hằn học
nói: “Sao các ông không bỏ chúng tôi lúc chúng tôi chỉ ngoài 20 để chúng tôi
còn kiếm chồng khác. Bây giờ chúng tôi già thì các ông bỏ, các ông về Việt Nam
lấy vợ trẻ dễ quá mà, còn tụi tui lấy ai.” Nghe thấy cả hai bên cùng có lý.
Nhưng mà bây giờ, ngồi cạnh cô gái này, tôi biết tôi phải tìm một câu nào đó để
khuyên giải cô ta, nhưng khuyên làm sao tôi cũng chẳng biết. Thiệt tình tôi
cũng chẳng tìm ra được câu nào để khuyên cô. Chẳng lẽ khuyên cô bỏ luôn, rồi
cũng chẳng lẽ khuyên cô nên áp dụng cách chiều chuộng tối đa để níu lại ông chồng
cô, khi chính tôi cũng thấy chuyện này cũng khó thể thực hiện được thì làm sao
có thể thuyết phục người...
Tôi chỉ cho cô
gái ngả chiếc ghế ra phía sau để ngả người cho thoải mái, hai chị em im lặng một
lúc, cô ngủ thiếp đi vì mệt, còn tôi lại cứ loay hoay với những ý nghĩ đối nghịch
trong đầu. Người đàn ông Úc bên cạnh lại nhờ hỏi dùm cô chiêu đãi viên là vì
máy bay cất cánh trễ, chuyến bay này xuống phi trường trùng giờ với chuyến bay
sắp tới của ông, làm sao ông làm thủ tục transit cho kịp. Cô ta nói là chuyến
kia sẽ đợi ông ta. Cứ thế tôi làm thông dịch dùm cho ông nên thời giờ qua cũng
mau. Ông này về Việt Nam mỗi năm cũng vài lần, coi bộ mê Việt Nam dữ quá. Mà
công nhận, sau khi chu du các nước khác mới thấy dân Việt Nam quá sức dễ thương
và hiếu khách, hèn chi Tây Việt gì cũng ham về nước cả. Ở Việt Nam đường phố
luôn nhộn nhịp đông đúc, đi tới đâu cũng thấy nở nụ cười, trong lúc ở nước
ngoài, mỗi người là một thế giới riêng biệt, nên vào những mùa đông, trời đã lạnh
hình như lại lạnh thêm vì thái độ buốt giá của những người xung quanh.
Nhớ lại đám đồng
nghiệp cùng qua Việt Nam làm một thời gian. Về nước đến hơn một nửa gia đình
tan rã. Lý do rất dễ hiểu, đến Việt Nam, hưởng qui chế người làm việc nước
ngoài, nhà cửa được cấp, xe được cấp, có tài xế, nhà hai, ba người giúp việc.
Tiền lương, phụ cấp lại cao, nghỉ mát hàng năm. Hết hạn, về nước, thời tiết đã
lạnh lẽo, tiền lương thấp hẳn sau khi mất các trợ cấp, công việc nhà vợ chồng
phải chia nhau ra làm. Đời sống vật chất trở nên nặng nề và khó khăn hơn trước
rất nhiều, và thế là vợ chồng bắt đầu lục đục rồi tan rã. Một số thì các ông chồng
bỏ vợ để bảo lãnh các cô thư ký ngọt ngào như mật, trẻ trung, học thức, rất
thông minh, rất dịu dàng, vô cùng tế nhị và đầy thông cảm với ông xếp bận rộn của
mình. Hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới mắt các ông ngoại quốc trở nên tuyệt vời diễm
ảo, trong khi dưới mắt các bà vợ của các ông ấy thì hình ảnh các cô gái Việt
Nam lại trái ngược hoàn toàn. Còn tôi thì sao, tôi nghĩ thế nào về các cô gái
này, đáng ghét hay đáng thương khi họ cũng chỉ muốn tìm một lối thoát cho mình
và cho gia đình của họ. Họ có ích kỷ không khi quay lưng lại với những gịot nước
mắt của những người vợ bị chồng phụ. Nhưng họ cũng có ích kỷ đâu khi phải lấy
những người chồng xa lạ, có khi lại rất lớn tuổi. Mười phần trăm lấy vì yêu
thương và chín mươi phần trăm lấy để có tấm giấy thông hành ra ngoại quốc. Lấy
chồng ngoại quốc để đổi thay số phận cho mình và cho gia đình, và để cũng
fashioned như người ta khi lấy ngoại quốc đã trở thành thời thượng. Làm sao
trách những cô gái này và cũng làm sao trách được các ông kia khi những người vợ
ngoại quốc này đã luôn nghĩ mình là Lady First, và tự họ đã làm cho các ông chồng
của họ chán ngán.
Tôi cũng biết có
những cô gái Việt Nam rất nghèo khổ. Bạn trai sống và lớn lên trong cùng một
khu phố, có được một việc làm trong các công ty ngoại quốc, có khi chỉ là gác cửa,
hay lái xe. Các cậu này đi làm đem tiền giúp bạn gái đi học Anh văn, vi tính,
giới thiệu bạn gái vào làm cùng sở. Đến khi các cô vững rồi, như những con chim
cánh đã bắt đầu cứng cáp, sẵn sàng chắp cánh bay đến những khung trời sáng sủa
hơn, bỏ mặc bạn trai của mình với những công việc tầm thường của họ. Những kỷ
niệm của cuộc tình ngày xưa giờ chỉ để thả theo gió bay. Nhưng làm sao trách được
khi các cô còn nặng gánh cha mẹ, anh em, và các kỷ niệm ấy cũng là những hình ảnh
xa xót của cảnh nghèo nàn thiếu thốn… Biết trách ai bây giờ, chỉ biết nghĩ đến
cái cuộc sống chông chênh khi mọi kim chỉ nam hình như đều quay lệch về phía
kim tiền óng ánh.
Máy bay đang giảm
dần cao độ. Từ phía dưới đã xuất hiện dòng sông Cửu Long, rồi những cánh đồng,
rồi những khu nhà cửa san sát. Hành khách đã bắt đầu nhấp nhổm khi bánh máy bay
bắt đầu chạm đất. Buồn cười, đã bao nhiêu chuyến bay mà hình như chuyến nào
cũng vậy. Cũng những hành khách đó, những khuôn mặt đó, lúc ở phi trường
Bangkok, Singapore, Malaysia, Sydney, Melbourne, Taiwan, Hongkong thì rất từ tốn,
trật tự bước chân lên máy bay, mà sao cứ tới gần phi trường Tân Sơn Nhất hay Nội
Bài là như thành những người khác, hối hả, chụp giật, dù Việt hay ngoại quốc.
Máy bay chưa ngừng hẳn đã vội vã lấy hành lý, vội vã chen đẩy để ra khỏi máy
bay cho nhanh.
Lần này, máy bay
đậu sát cánh cửa mở vào khu làm thủ tục, hành khách không phải chuyển qua xe
buýt; số khách cũng vắng nên cảnh tượng chen chúc cũng đỡ phần nào. Tôi đi cạnh
cô bạn đồng hành. Mới về nước lần đầu nên cô khá bỡ ngỡ. Kiểm lại cho cô các giấy
tờ cần thiết, tôi bảo cô đứng trước làm thủ tục nhập cảnh, khi nào xong qua cửa
đợi, đi cùng với tôi để đi lấy hành lý. Nhìn dáng cô ngơ ngác đến tội nghiệp.
Những người đàn bà Việt Nam, qua xứ sở mới, dù cố gắng đến đâu, thành công
trong thương trường đến đâu, vẫn là một công cụ trong tay người chồng, người
con. Thoát ra khỏi cái vòng trói buộc của chồng con, họ chợt trở nên hụt hẫng
và bơ vơ ghê gớm. Tôi cũng là một người đàn bà, liệu tôi đã thoát khỏi cái vòng
muộn phiền nghiệt ngã ấy chưa?
Người nhân viên
nhập cảnh uể oải nhìn tấm hộ chiếu và giấy tờ. Nhìn cung cách chậm chạp của anh
ta, tôi chợt nghĩ hay tại mình không bỏ vào trong hồ sơ tờ năm hay mười đô để
anh ta làm nhanh hơn. Đã lâu lắm rồi tôi không có thói quen bỏ tiền vào giấy tờ
khi làm thủ tục nữa. Chẳng biết mình làm như thế là đúng hay sai, thỉnh thoảng
vẫn nghe những mẩu chuyện nói rằng một nhân viên muốn vào làm trong phi trường
không những phải quen biết mà còn phải có lệ phí lót tay sáu ngàn đô Mỹ, rồi phải
đóng thuế mỗi ngày cho một ai đó, và số tiền đó chỉ bảo đảm cho một công việc
trong vòng sáu tháng. Nghe cũng thấy cam go, làm thế nào lấy lại được vốn và có
lời thiệt cũng nhức đầu nếu chỉ gặp những người như tôi, chả có gì để mà giấu
giếm.
Qua khỏi khâu nhập
cảnh, tôi nói cô bạn đợi để vào mua mấy cây thuốc lá miễn thuế về làm quà. Thuốc
lá ở Việt Nam rẻ kỳ lạ so với Úc và Mỹ, hình như chỉ khoảng nửa giá. Cô bạn
cũng theo vào, tôi lấy hai cây thuốc ra bàn tính tiền, cô bạn lấy tới bốn cây,
cô cười: “Thấy rẻ em lấy một số về làm quà, mấy hôm lu bu đâu có mua quà cáp gì
về cho gia đình.” Cô bán hàng hỏi rất kỹ: “Chị đi mấy người, nếu một người, chị
chỉ mua được hai cây thuốc lá thôi.” Rồi các hoá đơn, hộ chiếu cô photocopy lại,
cô cũng viết luôn cả vào tờ khai hải quan một mã số gì đó. Có lẽ tại thiên hạ
thấy thuốc lá rẻ nên mua nhiều quá chăng.
Chúng tôi ra băng
lấy hành lý. Hàng hóa xuống cũng khá nhanh. Từ lúc xuống máy bay tới lúc này
chưa đầy hai mươi phút mà đã thấy hành lý của tôi nhấc ra khỏi băng từ lúc nào.
Thủ tục hải quan cũng mau lẹ. Bên ngoài, đám người đi đón người nhà nhốn nháo
hai bên hàng rào ở lối ra. Cô bạn ngơ ngác nhìn quanh rồi bảo tôi: “Anh ấy
không ra đón em rồi chị ơi, giờ em làm sao?” Tôi bảo cô để tôi đi taxi cùng cô
về nhà chồng của cô trước rồi tôi sẽ về nhà tôi sau. Cô mừng quýnh gật đầu. Trời
ơi, một cô chủ shop lanh lợi như thế mà vào lúc này sao không khác gì gái quê
ra tỉnh. Tôi thật xót xa cho cô.
Mấy người lái
taxi, cò taxi chạy lại “Hai cô về đâu, mười đô thôi.” Tôi lắc đầu, dạo này taxi
nhiều, cạnh tranh dữ dội, đón taxi ngay ở lối ra luôn luôn phải qua trung gian.
Đi bộ thêm vài bước, taxi đầy ở ngoài, lên xe trả tiền theo máy bấm cây số khỏi
nhức đầu, khỏi mặc cả, khỏi sợ bị tính mắc rẻ, xuống xe muốn đưa tips bao nhiêu
thì đưa.
Chúng tôi lên xe,
cậu lái taxi còn trẻ. Các người lái taxi ở Sài Gòn phần lớn có ăn học vì các
hãng đòi hỏi phải biết tiếng Anh để nói chuyện với khách ngoại quốc. Đa số ăn mặc
gọn gàng sạch sẽ và nói chuyện rất nhỏ nhẹ, lịch sự và hiểu biết. Ở Sài Gòn hiện
nay có rất nhiều hãng taxi nên tình trạng cạnh tranh giúp cho sự phục vụ khách
hàng ngày càng cải tiến. Nhưng taxi ở đây nghe nói cũng có loại của tư nhân,
máy chạy cây số đã chỉnh lại cho chạy nhanh hơn, tiền sẽ tính nhiều hơn, nhưng
dù sao dựa trên máy dù máy dởm cũng đỡ phiền phức hơn qua những người cò cốt.
Nghe cũng buồn nhỉ.
Cô bạn xin tôi số
điện thoại và cho tôi số của cô. Anh lái xe vui vẻ hỏi: “Hai cô về đây làm ăn hả?
Ở Việt Nam bây giờ làm ăn nếu có vốn sướng hơn ở ngoại quốc nhiều đó cô.” Tôi
cười: “Muốn làm ăn có lời ở đây phải lanh, phải quen biết, phải liều em ơi. Cô
không có cả ba thứ đó nên thôi làm ở ngoại quốc rồi về đây ăn coi bộ có lý
hơn.” Cậu lái xe cũng cười theo. Cô bạn cũng nhếch miệng cười, cái cười hiếm
hoi từ lúc tôi gặp cô tới giờ làm khuôn mặt cô sáng hẳn lên. Cô này cũng thuộc
loại xinh đẹp mà sao ông chồng có thể bỏ bê được. Đúng là các ông chỉ ham của lạ
và mê của ngọt.
Đường phố Sài Gòn
mới hơn một năm tôi chưa trở lại mà đã thay đổi quá nhiều. Nhịp độ xây dựng của
thành phố nhanh đến chóng mặt. Các con đường ngập tràn cửa hàng, cửa hiệu. Các
tiệm ăn mọc lên như nấm. Số lượng xe xích lô giảm đi một cách đáng kể. Xe chạy
đã cả mười lăm phút tôi mới thấy có một cái xích lô. Không biết những người làm
nghề này làm sao sinh sống. Bóng các người ăn xin nằm vạ vật ngoài đường cũng
không nhìn thấy. Anh lái xe nói dạo này thành phố gần như đã hết cảnh ăn xin.
Âu cũng là một hiện tượng tốt. Tôi sợ cảnh đi vào tiệm ăn, vừa ăn xong đã có những
đứa bé chạy tới bê tô phở thừa trút vào những ống lon dơ bẩn, làm bữa ăn vừa
xong trở nên nặng nề, và người ăn cảm thấy thật tội lỗi khi đã có thể vui trước
những cái đau khổ, đói rách của những người đồng chủng. Tôi cũng sợ cảnh đi tới
đâu, luôn có những cánh tay chìa ra xin tiền, không cho thì áy náy, cho một người
thì cả một đám người từ đâu ùa đến làm bỏ chạy không kịp. Những hình ảnh ấy đã
làm những ngày ở Việt Nam mấy năm trước trở nên u ám sầu bi chi lạ. Rồi cảnh những
đứa bé chỉ vài tháng vứt ở góc đường, với một đứa bé lớn hơn gầy ốm nằm úp mặt
bên cạnh, một tay ôm đứa bé kia, một tay là cái rổ đựng tiền. Không cho thì cầm
lòng không đặng, mà cho thì biết là mình đang tiếp tay cho những kẻ nào đó đứng
sau lưng dàn ra những cảnh đau thương. Nghe nói đã có những người đầu nậu, đưa
cả một làng vào ở lây lất ở Sàigòn, sáng thả người ra ăn xin, chiều gom người lại
thu hết tiền. Nghe thật thê thảm, cũng may những hiện tượng này nghe nói đã
không còn nữa, nếu không những ngày sắp tới của tôi ở đây lại thêm những giờ trằn
trọc khó ngủ và ray rứt.
Trên đường phố
cũng không thấy ai mặc áo bạc màu hay rách rưới. Tương đối đa số ăn mặc rất gọn
gàng, sạch sẽ. Số người ăn diện theo mốt thời thượng như anh lái xe thì vào buổi
chiều chưa xuất hiện. Thường phải khi thành phố lên đèn, thiên hạ mới túa ra đường
đi ăn, đi chơi buổi tối.
Tới nhà chồng cô
bạn đồng hành, căn nhà ở khu phố tương đối tươm tất, hẻm rộng, có đám trẻ đang
chơi dưới hàng cây, thấy các em ăn mặc cũng rất gọn gàng và sạch sẽ. Cuộc sống
vật chất hình như đã có vẻ khá hơn. Cô bạn cám ơn tôi và đi theo đám người nhà
chạy ra tận xe đón vào nhà. Xe đưa tôi về nhà, cái ngõ nhà tôi cũng đổi khác hẳn
đi với rất nhiều nhà mới đang xây cao nghễu nghện. Tôi không hiểu sao những gia
đình thấy không giàu gì lắm mà có thể xây nổi những căn nhà lớn như vậy. Đúng
là không phải việc của mình mà vẫn tò mò và thắc mắc. Con đường bên ngoài đã được
mở rộng, gần như nhà nào cũng mở hàng quán. Buổi chiều, các quán ăn, quán nhậu
đã đầy người.
Những ngày sau đó,
tôi bận rộn đi thăm những người quen, hết người này kéo đi ăn lại đến người
kia. Các quán ăn nhậu ở Sài Gòn mở ra khắp nơi. Các siêu thị nườm nượp người.
Đi trên các phố lớn như Đồng Khởi, Nguyễn Huệ hay vào các nhà hàng lớn, các
hàng quán ở quận một, quận ba, đa số là người Bắc sau 75. Không hiểu sao người
ta có thể giàu nhanh lên như thế. Tuy nhiên, cũng có một số người Bắc ở các
làng quê mới vào làm các nghề vặt vãnh như chạy xe thồ, bán bắp, bán xôi. Nhưng
nhóm này chiếm tỉ lệ rất ít. Các sạp trong chợ phần lớn chủ là người sống ở miền
Nam từ trước 75.
Có một lần tôi
ghé hàng chén bát trong chợ Bến thành. Cô bán hàng ăn mặc rất giản dị, nói tiếng
Pháp trôi chảy, giọng rất đầm với một cô khách người Pháp. Thật lấy làm tiếc
cho một người học hành như thế giờ chỉ quây quần với đám chén bát bán trong chợ.
Nhưng dù sao, thu nhập của các quán hàng trong chợ cũng rất cao. Tốt nghiệp đại
học không có việc làm đầy dẫy, tỉ lệ kiếm được việc làm thu nhập vài trăm đô một
tháng rất ít. Ra chợ bán, có thể kiếm vài trăm đô dễ dàng. Vậy thì có ngại ngần
gì khi ra chợ làm chủ shop của mình, nhìn vào thì thấy vất vả một tí nhưng
tương đối tự do, công việc lại vững vàng. Cơm trưa chỉ việc ngoắc tay đã có người
bưng ngay đến, buổi trưa thưa khách, có thể ngồi vắt vẻo cho người làm móng
tay, móng chân, hay nhờ người trông hàng để chạy đi tắm hơi, massage mặt, gội đầu,
v.v... Buổi xế có thể vừa ăn vặt vừa tán dóc với các bạn hàng bên cạnh, hay rảnh
rang đọc một vài cuốn sách.
Nói đến thú đọc
sách, lúc trước vẫn nhớ đám đồng nghiệp ngoại quốc rất phục dân Việt Nam khi đất
nước coi như không có người mù chữ, khi họ đi trên đường, gần như hầu hết những
người bán hàng, từ tủ thuốc lá lề đường, đến các xe bán hàng, ai nấy nếu rảnh
là lại chúi đầu vào một tờ báo hay một quyển sách. Các đứa bé bán vé số, bán đồ
lưu niệm dọc đường phần đông đi học một buổi, một buổi đi bán. Chẳng cha mẹ nào
để con cái thất học dù nghèo khổ đến đâu chăng nữa, dù biết có hết lớp mười hai
cũng chưa chắc đã có một chỗ ngồi trong đại học, dù biết có tốt nghiệp đại học
cũng dễ gì kiếm ra một việc làm tương xứng với khả năng. Cái truyền thống của
dân tộc hình như vẫn trọng cái chữ và mảnh bằng dù biết nhất sĩ nhì nông, hết gạo
chạy rông, nhất nông nhì sĩ. Nhưng lúc đó hãy hay, bây giờ còn cha còn mẹ, còn
có thể đi học thì hãy cứ đi học cái đã.
Những ngày ở đây,
tôi có cái thú lang thang đến các tiệm sách. Ngoài cửa hàng sách Nguyễn Huệ hai
tầng lầu rất lớn, các cửa hàng sách khác cũng rất lớn. Sách bây giờ đầy ra, đủ
thể loại, in theo đủ mẫu mã. Từ kiếm hiệp, truyện dịch, truyện Việt Nam dài, ngắn,
các tác phẩm khảo cứu, nhạc, truyện thiếu nhi, truyện tranh, v.v... như rừng vậy.
Mấy năm trước, vào hiệu sách nói với các cô cậu bán sách giới thiệu hộ ít quyển
sách hay để mua thật dễ dàng. Các cô cậu này nhìn phần lớn có vẻ là học sinh vừa
tốt nghiệp trung học hay sinh viên đại học nên có vẻ đọc nhiều. Nhưng bây giờ
thì các cô cậu có vẻ lúng túng vì số lượng sách ra quá nhiều, và thị hiếu của
khách hàng cũng muôn màu muôn vẻ. Các cô cậu ấy chỉ có thể nói: Cuốn này thấy
bán rất chạy, cuốn kia của một nhà văn rất nổi tiếng, v.v... Cẩn thận hơn, có
cô cậu còn nói: “Cuốn này bán chạy lắm nhưng không biết có hay không vì cuốn
này được báo giới thiệu nên người ta hỏi nhiều.” Trong các cửa hàng sách, ngoài
sách còn có thể tìm thấy băng, CD, DVD, các đĩa thu software lậu, các dụng cụ
văn phòng phẩm, các đồ lưu niệm, thôi thì đủ thứ trên đời.
Trên khu bán sách
cho thiếu nhi, nhìn như thư viện vậy, các em bé ngồi đầy dưới sàn đọc sách.
Nhìn thấy thật thương và ứa nước mắt. Nhưng nói cho cùng, sách thì nhiều quá,
in rất đẹp, đủ thể loại, thư viện thì không có, các em thích đọc sách chỉ có thể
vào tiệm sách ngồi trên sàn bên cạnh các kệ sách để mà đọc. Dù sao cha mẹ các
em cũng may mắn là con cái không lêu lổng. Và các em này chắc gia cảnh cũng khá
hơn nhiều em bé vẫn đi vào các tiệm bán vé số hay đánh giầy.
Rời tiệm sách tôi
lang thang ra khu Huỳnh Thúc Kháng mua DVD. Thôi thì đủ loại. Các người mua
hàng ngồi trên những ghế thấp, lựa dĩa từ các túi xách đặt trên các bàn nhỏ trước
mặt. Khách cần loại DVD nào là có ngay người chạy đi đâu gần đó lấy về những
túi xách nhỏ đầy nhóc những DVD không hộp cho khách lựa. Họ không để nhiều
trong cửa hàng có lẽ sợ bị công an ụp vào bắt thình lình. Cô bán hàng nói: Chị
mua đợt này xui tại nguồn hàng từ Trung Quốc qua mới bị bắt nên hàng không có
nhiều. Giá một DVD chưa tới hai đô Mỹ, giá CD chỉ khoảng 50 cents. Nhưng CD gốc
giá chính thức chỉ khoảng hai đô Mỹ, chả dại gì mua CD copied về cái nghe được
cái không. CD, VCD sao lại trong nước chất lượng không tốt bằng DVD copied ở
Trung Quốc. Tuy nhiên ở một số nơi vẫn có DVD sao lại trong nước từ những DVD
đã được sao từ Trung Quốc mang về. Mua loại này đem về có thể không xem được
hay dĩa bị đứng, nhảy hình, rất khó chịu.
Đi mua hàng ở Việt
Nam hiện nay khá thoải mái, các cửa hàng dịch vụ quá nhiều nên cạnh tranh nhau.
Giá bán cho Việt kiều và dân trong nước không còn chênh lệch nhiều nữa. Lâu
ngày người dân đã hiểu là những người Việt kiều cũng phải làm ăn khó khăn và chật
vật ở xứ người, chứ không phải đồng tiền của họ là từ trên trời rơi xuống. Hơn
nữa, trong nước lúc sau này sản sinh ra một giai cấp rất giàu, vì buôn lậu, vì
hối lộ, vì gặp thời cơ trúng lớn, v.v... Những người này hạ vị trí Việt kiều xuống
rất nhanh. Vào những cửa hàng ăn chơi, mua bán hàng hoá cao cấp, những người
này vung tiền đô la như nước. Việt kiều về nhiều quá, nên Việt kiều có đi đường
cũng chẳng ai thèm ngó. Tuy nhiên, vào các cửa hàng, một số nhân viên phục vụ
có vẻ vẫn thích Việt kiều vì có lẽ đa số Việt kiều ăn nói lịch sự hơn những người
mới nhờ thời thế mà lên. Rất nhiều siêu thị mọc lên, bán đủ loại hàng, giá cả bấm
sẵn, khỏi lo vấn đề mặc cả. Các nhân viên ở đây cũng mặc đồng phục, đeo bảng
tên. Vào các cửa hàng ở Đồng Khởi, thương xá Tax, các người bán hàng hay nói tiếng
Anh, có lẽ họ tưởng tôi không phải Việt Nam chăng vì các bà Việt Nam đi một
mình thường không vào những khu này, giá mắc nhiều so với ngoài chợ.
Một buổi sáng tôi
bước vào thương xá Tax, mua một tủ đựng nữ trang nhỏ. Đi tìm vòng vo, các cô
bán hàng chỉ lên lầu ba. Lên đó, thấy một cửa hàng để mảng giấy lớn: “Bán đúng
giá niêm yết.” Tôi mừng quá, vậy là khỏi phải qua khâu mặc cả, cái mà tôi vẫn sợ
nhất. Cầm lấy cái tủ nhỏ xíu bằng gỗ vừa ý, thấy giá để 465 000VND (khoảng 30
đô Mỹ). So với giá ở ngoại quốc thì không mắc, cô bé bán hàng khoảng mười mấy
tuổi, nhìn thật xinh xắn và thùy mị, nhẹ nhàng nói: “Cô lấy thì con bớt cho cô
năm chục ngàn.” Tôi cười vì thấy coi bộ những chữ trên tấm bảng trước cửa đã có
vẻ hơi lạc điệu, coi bộ có màn mặc cả rồi, tôi khẽ lắc đầu quay đi, cô bé bán
hàng níu lại, cặp mắt ngây thơ van nài: “Mới sáng ra cô trả dùm con một hai tiếng
mở hàng đi cô”, tôi cười trả đại “ba trăm ngàn thôi.” “Ba trăm con bán không được,
không đủ vốn cô ơi”. Tôi vội quay đi, nhưng cô bé níu lại và ngọt ngào chèo
kéo. Dứt bước ra đi không nổi với giọng nói ngọt như mật và cái nhìn ngây thơ của
cô, tôi ôm cái hộp đi với cái giá ba trăm tám chục ngàn, biết là mình mua hớ mà
chẳng biết hớ bao nhiêu. Sau mới biết ở chợ Bến Thành cái hộp này giá khoảng một
trăm hai chục ngàn. Vậy là mắc hơn gấp ba, dù biết là mình sẽ mắc bẫy mà vẫn mắc
bẫy như thường, một cái bẫy ngọt ngào, như vậy thì đừng trách gì các ông.
Nhớ lại cách đây
vài tháng, cậu cháu trở về sau khi qua làm ở Việt Nam một năm, hai vợ chồng bắt
đầu xào xáo vì một lá thơ gửi sang: “Anh ơi, anh nói với chị là em hiền lắm, em
chịu nhịn, và bằng lòng làm bé, anh nói với chị để bảo lãnh em qua.” Cái hiền
chết người này làm hai vợ chồng cậu cháu cãi nhau hàng ngày, ai bảo cô vợ dữ
quá, người ta chịu nhịn mà cô không chịu nhịn thì làm sao...
Các cửa hàng
massage, tắm hơi, sửa sắc đẹp, cắt tóc cũng mọc lên như nấm. Giá cả tuy rẻ hơn
so với nước ngoài nhưng so với người trong nước vẫn còn cao vọt. Khách hàng của
các tiệm này đa số là các khách nước ngoài, các vị có quan, có chức hay có tiền.
Còn đa số các người đi làm sống vì đồng lương chắc chẳng ai vào đây. Vào đây
các cô gái ăn nói rất nhỏ nhẹ, ngọt ngào dù khách hàng là nam hay nữ, vì đa số
sống nhờ tiền lương thì ít, mà nhờ tiền bo (tiền tips) thì nhiều. Vào đây, nếu
dự trù chi phí khoảng một trăm rưởi ngàn, chi phí này sẽ lên gấp đôi, gấp ba dễ
như không khi các cô ngọt ngào giới thiệu thêm các dịch vụ khác. Các cô gái làm
ở đây còn rất trẻ, chỉ trên dưới hai mươi. Có một số từ tỉnh lên, làm việc và ăn
ở luôn tại chỗ làm. Đa số các cô ngoài giờ làm việc, trải thời giờ trong các tiệm
internet. Cô nào cũng thích chat, để biết đâu có cơ hội quen được một Việt kiều
về làm lễ cưới đón đi.
Các quán internet
mở khắp nơi, đầy các ngõ hẻm, giá chỉ từ bốn đến sáu ngàn một giờ (khoảng 30
cents), nên lúc nào cũng đông khách. Buổi tối thì hình như không thể nào kiếm
ra một máy trống, từ sinh viên học sinh đến các cô công nhân, thợ cắt tóc,
v.v... Ở đây dạo này còn bán các thẻ gọi điện thoại qua internet giá rất rẻ, bảy
chục ngàn đồng gọi được hai ba tiếng. Lại đây thấy các cô bỏ hàng giờ ra thủ thỉ
với các anh bên nước ngoài. Nhiều cô nhìn vóc dáng rất tội nghiệp, không biết sẽ
có bao nhiêu cô may mắn được các anh về bảo lãnh đem qua khi nhìn thấy tận mặt.
Dù sao, những giờ chuyện trò đó cũng là những niềm vui của các cô. Sau khi rời
máy, các cô lại trở về với công việc thấp hèn của mình, đời sống cực khổ nhưng
với lòng tràn trề hi vọng và thoải mái vì đã sống trong những phút đầy ắp mơ ước
ngọt ngào. Đời sống cơ cực quá nên một ngày có được vài tiếng đồng hồ sống
trong ảo tưởng, cũng là một điều hay, và biết đâu may mắn có thể đến với các
cô. Biết đâu, ừ nhỉ, biết đâu đấy, tôi thật lòng cầu nguyện điều hay sẽ tới với
các cô gái này.
Các quán café
cũng mở ra vô số, nhiều quán trang bị rất đẹp. Có quán còn chia ra nhiều khu,
khu dành cho những cặp tình nhân với cây cảnh và nhạc nhẹ, khu có những dòng
thác, dòng suối, khu có ca nhạc sống, và khu có cả các trò chơi điện tử cho trẻ
em. Vào những quán café này thấy như mình đi vào thế giới khác, hồn mềm đi một
chút, nhẹ đi một chút giữa cái nóng bức của Sài Gòn, vào để tránh ánh nắng chói
chang, mịt mờ bụi và khói xe. Nhưng cũng đau lòng khi thấy sao mình xa cách quá
với những người đang bán rong ngoài kia, tuy nhiên tiếng nhạc cũng làm dịu lòng
đi được một chút.
Các nhân viên bán
hàng trong các tiệm phần lớn đều có đồng phục. Các tiệm sang thì các cô cậu bán
hàng ăn mặc đỏm dáng và bảnh bao, con trai mặc quần tây, áo sơ mi ủi thẳng thớm,
có khi có cả veste nữa; các cô gái hoặc mặc áo dài hay áo đầm rất xinh xắn. Còn
ở các tiệm ăn nhỏ thì đa số cũng có mặc đồng phục gồm một cái Tshirt in nhãn hiệu
nhà hàng. Ở nhiều tiệm ăn, còn có một số các cô gái mặc váy ngắn, Tshirts mang
logo của các hãng bia, đem bia mời khách uống.
Giá quần áo rẻ
nên tương đối ai cũng ăn mặc tươm tất. Đàn bà con gái Sài Gòn khá thích ăn diện.
Đa số đều làm móng tay, móng chân, trang điểm kỹ càng khi ra đường. Trên đường,
các cô, các bà đi xe gắn máy thường đội nón, che mặt, mang găng tay rất kỹ để bảo
vệ da. Ngay các người đạp xe ba gác, xích lô hay chạy xe thồ cũng ăn mặc không
đến nỗi tồi tàn. Ở các đầu đường, đầu hẻm nào cũng thường luôn luôn có năm ba
chiếc xe gắn máy đợi khách. Xe taxi thì chỉ nhấc điện thoại năm ba phút là có
xe tới ngay. Các người bán hàng rong, rau cải ăn mặc cũng tương đối gọn gàng
không luộm thuộm rách rưới. Tuy nhiên nhìn những người buôn bán dọc đường, hay
chạy ngoài chợ, người nào nhìn cũng thấy có vẻ mệt mỏi, héo úa và hốc hác,
tương phản hoàn toàn với đám thực khách đi vào các hiệu sang, hồng hào sang trọng
và mập mạp. Ngay cả những cô cậu bán hàng ở các cửa hàng này nhìn cũng rất lịch
sự và tươi đẹp.
Dân chúng tuổi ba
mươi trở lên ở đây rất chịu khó giữ gìn sức khỏe. Trẻ thì sáng sớm đã theo các
lớp thể dục thẩm mỹ, nhịp điệu. Lớp trung niên hay người cao tuổi thường ra
công viên theo các lớp tập dưỡng sinh, múa gậy, thái cực quyền, khí công, yoga.
Buổi sáng sớm, các con đường dọc theo công viên, bờ sông đã nhiều người đi bộ. Ở
các công viên đã nhộn nhịp các nhóm tập thể dục. Tới gần tám giờ sáng các đám
người tập mới rã hết.
Buổi tối, là giờ
đi chơi của đám choai choai. Đường phố đầy xe. Các cô cậu nhà giàu phóng ào ào
trên các loại xe gắn máy mắc tiền, áo quần rất thời trang. Con trai quần jeans,
Tshirts loại hàng hiệu. Con gái thì ăn mặc cũng theo các kiểu thời trang mùa hè
ở ngoại quốc. Nhiều cô mặc hở nguyên lưng, váy rất ngắn nhìn rất mát mẻ. Các tụ
điểm văn nghệ, các quán nhạc sống, tiệm café, rạp hát, tiệm ăn, tiệm kem nghẹt
khách. Ngoài bến tàu, các tàu lớn cũng sáng choang đèn. Một số tàu vừa làm tiệm
ăn, vừa chạy dọc trên sông từ bảy đến chín giờ tối.
Đám thanh niên ở
đây nhảy đầm rất giỏi, tôi có nghe, có đọc về những tiệm nhảy nơi thanh niên
dùng thuốc lắc nhưng chưa đến bao giờ. Chỉ nhớ lại và thấy buồn cười khi những
năm trước về đây làm việc, mỗi lần sở có hội hè, functions, đám local staff nhảy
rất đẹp trong khi mình thì ngồi trơ như phỗng vì không biết nhảy. Dân ở nước
ngoài gì mà quê hầy, thua xa dân bản xứ.
Thành phố nhộn nhịp
đến khoảng hơn chín giờ tối thì bắt đầu thưa vắng. Ở một số con đường của thành
phố giờ này bắt đầu xuất hiện những cô gái ăn sương, níu kéo các xe gắn máy đàn
ông chạy một mình. Lúc nào thấy bóng công an, bóng các cô gái chạy thoăn thoắt
vào các ngõ tối. Ban đêm cũng là lúc các xe đổ rác, quét đường làm việc. Các
công nhân làm vệ sinh mặc đồng phục xanh thẫm, đeo khẩu trang, quét đường bằng
những chổi lúa, lùa rác vào những xe ba gác, rồi đổ những đống rác này vào một
góc đường nào đấy cho xe rác lớn tới mang đi. Thành phố đã không còn những đống
rác cao nghễu nghện như trước, cũng là một điều hay.
Thành phố về đêm,
trong các ngõ nhỏ vẫn thấp thoáng bóng các em bé đi rao mì xực tắc. Tiếng gõ,
tiếng rao buồn thảm thỉnh thoảng lại lẫn vào tiếng rao bánh chưng bánh giò của
những người đàn ông lầm lũi đạp xe đạp len lỏi từng con hẻm nhỏ. Ngoài đường xe
cộ thưa nhưng vẫn có những cửa hàng mở cửa. Có những khu phố hàng ăn nhộn nhịp
suốt đêm. Những người chạy xe thồ vẫn đậu xe đầu những ngõ đón khách suốt đêm.
Những ngày ở Sài
gòn của tôi đã trôi qua như thế, ăn những món ăn hương vị đã không còn đậm đà
như trong trí tưởng lúc ở nước ngoài, đi mua bán lặt vặt, thăm gặp những người
quen biết, những bạn bè cũ. Có những người mới vài năm giàu lên không thể ngờ.
Có những người vẫn đeo đẳng những cuộc sống buồn tẻ và chán nản, nhưng nhìn
chung cuộc sống có khá hơn vài năm về trước dù cũng còn vất vả. Trong xã hội
bây giờ có một số người giàu không thể tưởng nhưng đa số còn khó khăn và có những
người rất là thiếu thốn. Nhìn các bé gái trong lòng tôi thấy rưng rưng, xã hội
vật chất quá cám dỗ, nếu gia đình không khá giả, giáo dục không kỹ càng, chỉ cần
quen biết vài bạn bè xấu là sa ngã quá dễ dàng. Các bé trai cũng vậy.
Các bạn tôi than,
bây giờ giữ con mệt quá, phải cho đi học thêm đủ thứ, nếu không vào lớp không
theo kịp chương trình. Thày giáo nào cũng dạy tư, nếu học trò không học thêm
vào lớp chẳng biết đường nào làm bài tập và bài thi. Bạn bè thì lại cứ lôi kéo
vào những trò chơi xấu, con cái sểnh ra một chút là hư ngay. Lúc trước báo có
đăng một gia đình đưa đón con đi học rất kỹ, bà mẹ đã té xỉu khi công an đến
còng tay đứa con trai vì nó theo bạn bè giật đồ của người ta. Bạn tôi cũng kể
có đứa con còn học tiểu học về nói chuyện là để chọc cô giáo, một đám chung
nhau tiền ra mua Seduxen (loại thuốc ngủ chứa diazepam), một viên có hai ngàn,
chia nhau đứa uống vài viên, để cô giáo vào lớp thấy cả đám học trò đang ngủ vật
vã. Bạn khác lại kể, sợ lắm, con mới học lớp sáu, mà có đứa bạn vào lớp rút ra
mấy tờ một trăm đô Mỹ rủ rê cả bọn đi nhảy đầm, đứa nào không đi thì bị chê
quê. Cứ thế, không theo bạn bè thì bị trêu chọc, theo bạn bè thì hư lúc nào
không biết.
Mỗi lần ra đường
trở về tôi lại đâm ra chóng mặt vì bụi, vì nắng và vì nhịp điệu sống thay đổi
quá nhanh của thành phố, vì cái khoảng cách giữa người thật giàu và thật nghèo
đã trở nên quá lớn.
Thành phố Sài Gòn
như một con xúc xắc quay vòng nhiều mặt trong ngày ở những thời điểm khác nhau.
Ở một thành phố dân số lên đến hơn bảy triệu, sức sống ngồn ngộn, nhưng như một
bộ máy quá tải, không đáp ứng nổi tiến độ phát triển quá nhanh của cuộc sống
nên chắc chắn phải có rất nhiều những chông chênh. Bên bóng những ngôi nhà cao
nghệu vẫn còn những người lao động thấp thoáng đâu đó, đem hình bóng nhoà nhạt
của mình làm bước đệm cho những người có quyền chức đi lên. Bên những ánh đèn lấp
lánh đêm thâu vẫn còn bao nhiêu những thanh niên trẻ lao mình vào cái sáng
loáng của ánh đèn như những con thiêu thân. Bên những ngọn đèn heo hắt trong
ngõ nhỏ, trong những ký túc xá sinh viên vẫn còn bao học sinh, sinh viên miệt
mài học để mong kiến thức của mình sẽ đóng góp được một chút gì cho gia đình,
cho bản thân và cho xã hội, dù biết rằng xác suất thành công rất thấp nhưng vẫn
cố gắng hết mực để biết đâu có cơ hội vươn lên. Bên những người giàu có luôn dư
thừa những bữa tiệc xa xỉ vẫn còn những người chạy gạo từng bữa, vẫn còn những
người bệnh không thuốc không thang. Thành phố vào giờ cao điểm vẫn nườm nượp
nhiều hình ảnh lẫn lộn của những chiếc xe hơi bóng lộn, những chiếc xe gắn máy ồn
ã, những chiếc xe đạp và ba gác cọc cạch, và những người buôn thúng bán bưng.
Tôi đã ở trong
lòng Sài Gòn, với những sáng nắng, những buổi chiều mưa. Lang thang từ những
con đường lớn đến những ngõ nhỏ tồi tàn. Bước chân nhỏ nhoi không đi qua hết nổi
một phần mười thành phố nhưng cũng đủ để nhìn thấy phần nào những muôn màu muôn
vẻ cuả cuộc sống ở đây.
Cô bạn gặp trên
máy bay thỉnh thoảng lại gọi điện thoại than khóc, rồi những tiếng động cơ, tiếng
người nói, tiếng buá đập, cưa máy từ các nhà đang xây trong ngõ suốt ngày làm
tôi cũng mệt nhoài.
Ở được một tuần,
tôi rời Sài Gòn trở về Đà Lạt, nơi tôi đã sinh ra và lớn lên, nơi tôi luôn mong
ước trở về nhưng mỗi lần trở về lại rưng rưng nước mắt khi những người thân xưa
cũ nay đã hoặc mất đi hoặc dời đi sinh sống nơi khác.
Đường đi thật là
xa lạ, từ ngã tư Hàng Xanh, đến xa lộ Biên Hoà, những tên đường lạ hoắc, lại
cũng đã vài lần thay tên làm tôi không thế nào nhớ nổi. Cố hình dung con đường
hồi xưa, mỗi sáng đi xe buýt từ trường Khoa học lên khu Sinh lý Sinh hoá ở Thủ
Đức mà không thể nhận ra. Cố tìm lại cái khúc rẽ vào trường từ xa lộ mà không
thể nào nhìn ra được. Xe đi qua Rừng Lá, Dầu Giây, rừng cao su, cảnh vật cũng
xa lạ không ngờ. Cảnh trí thay đổi quá nhanh hay tại trí nhớ của tôi đã bắt đầu
trở nên mụ mẫm. Định Quán vẫn còn đây với những tảng đá chồng chất, nhưng sao
đã mất cái cảm giác choáng ngợp thuở xưa lúc còn là cô gái bé tí theo cha về
Sài Gòn. Lúc ấy, mỗi tảng đá như ẩn chứa cả một thế giới kỳ bí. Bây giờ mỗi tảng
đá như nằm chơ vơ, vô hồn vô cảm.
Hai bên đường dầy
đặc nhà cửa, chỗ nào cũng thấy xe gắn máy chạy nhan nhản. Các cửa hàng mọc đầy.
Xe lên đến đèo Bảo Lộc, cái cảm giác nhẹ nhàng ngày xưa như đang trở lại, khi
xe vòng lên những đường đèo xanh um bầu lá, thỉnh thoảng có tiếng thác róc rách
bên đường, thỉnh thoảng lại ẩn hiện rặng núi xanh ngắt. Tôi lại được trở về, dù
chỉ trong thoáng chốc với những hình ảnh của ngày xưa.
Càng gần Bảo Lộc,
càng ngửi thấy mùi trà thơm ngát. Các tiệm trà đều mở thêm hàng café hay hàng
ăn để hấp dẫn du khách. Xe ngừng ở tiệm trà Đỗ Hữu ăn trưa. Xuống xe đã nhìn thấy
những quán bán sầu riêng, bơ, chôm chôm và bắp luộc. Bắp ở Việt Nam sao vẫn dẻo
và thơm ngon. Năm ngàn bốn cái, rẻ không ngờ nhưng những người đi cùng xe còn mặc
cả, bốn chiếc ba ngàn thôi. Tôi nhìn thúng bắp, lại một màn tính nhẩm để không
hiểu sao nó có thể nuôi sống cho một gia đình.
Ăn xong, xe lại
chạy qua những đồi trà bát ngát xanh. Nhà cửa hai bên đường cũng mọc lên san
sát, có những ngôi nhà xây dựng rất đẹp, rất bề thế và kiểu cách.
Chạy được khoảng
hơn một tiếng, xe ngừng ở một tiệm bán trà khác. Ở đây bán đủ loại trà, khách
được uống café và trà miễn phí. Các cô gái ở đây còn rất trẻ, chỉ khoảng dưới
hai mươi. Đa số xa nhà, ăn ở ngay tại chỗ làm. Lúc trả tiền, có người cho tiền
tips các cô, các cô bé không dám lấy. Người đàn bà có lẽ là chủ tiệm miệng mồm
nhanh nhẩu: “Các anh cho tiền bo, tụi nó không dám lấy đâu. Các anh bắt tụi nó
bò thì tụi nó bò cho các anh coi chứ cho tiền bo thì không dám lấy.” Vài người
khách sững người trước câu nói này. Tôi không dám nhìn những cô bé đó, lặng lẽ
đi vội ra xe, nghe một nỗi chua xót và căm giận không biết từ đâu ập tới. Ngồi
trên xe mãi, hình như tôi vẫn thấy mình còn đang run rẩy, câu nói không biết là
đùa hay thật của người đàn bà làm cảnh vật hình như càng u ám. Mưa bắt đầu lất
phất ngoài cửa kính, và hình như mặt tôi cũng nhòe nhoẹt nước mắt.
Hai bên đường,
nhà cửa cũng vẫn san sát, nhưng thấy dân ở đây có vẻ nghèo và hiền hơn dân Sài
Gòn. Quanh vùng Bảo Lộc, Ma Đa Gui (chiến khu D cũ) đa số là người ngoài Bắc
sau 75. Công nhận những người dân Bắc thật giỏi, vào khu kinh tế mới Bảo Lộc
hơn mười năm, từ tay trắng, các gia đình này đã trở nên giàu có không ngờ.
Trong khi đám dân trong Nam không khá lên bao nhiêu nếu tính theo tỉ lệ. Có người
cũng nói là số dân từ Bắc vào lên nhanh nhờ họ có thần có thế, có quyền có chức
nên xin giấy tờ gì cũng lọt, và lại có kinh nghiệm đã sống trên đất Bắc; nhưng
nếu nói một cách công bằng, thì chắc cũng nhờ một phần vào tính tháo vát, siêng
năng và cần kiệm của họ. Có một vài hãng tơ lụa làm từ dâu tằm nhưng đã đóng cửa.
Tôi lại chua xót nghĩ tới cảnh hàng ngàn công nhân đã bị mất việc, không biết
những cô gái dệt lụa bây giờ đã trôi nổi về đâu.
Dù cây cối ở các
đồi, các con dốc đã bị chặt bỏ rất nhiều, nhưng Đà Lạt vẫn còn những con đường
và cảnh hồ rất đẹp. Sáng sớm, bóng dáng các em nữ sinh mặc áo dài trắng, áo len
xanh trên đường nhìn dễ thương chi lạ, làm hiện về cả một quá khứ ngọt ngào của
những ngày ngây thơ xưa cũ. Con gái Đà Lạt vẫn má hồng, mắt đen, da trắng, mái
tóc mượt mà , ăn nói ngọt ngào hiền hậu. Hèn chi tỉ lệ lấy Việt kiều khá đông.
Các anh Việt kiều chưa vợ, lên đây gặp các cô gái xinh xắn, mộc mạc xiêu lòng
cưới về nước khá nhiều. Dân Đà Lạt đa số vẫn còn giữ được nếp sống xưa, con gái
đi học về lo việc nhà, quây quần với gia đình, ít chơi bời đàn đúm.
Người Đà Lạt vẫn
như xưa, nhẹ nhàng và hiền hòa, chợ Đà Lạt vào sáng sớm vẫn đầy những người bán
rau cơ cực. Trời rét, những người này quấn mấy lớp khăn nhìn vẫn nghèo và khổ.
Gương mặt mệt mỏi và xanh xao vì thiếu ngủ, thiếu ăn. Các người chạy xe thồ
nhìn cũng không được tươm tất như những người cùng chạy xe thồ ở Sài Gòn. Dân
ít, nên kiếm được đồng tiền cũng khá vất vả. Vậy mà nhịp độ xây dựng trong
thành phố cũng phát triển kinh người. Giá đất tăng vọt trong vài năm nay, những
ngôi biệt thự vẫn xây dựng thật lộng lẫy bên cạnh những ngôi nhà đã bắt đầu đổ
nát. Những người có công việc làm tương đối ổn định hơn nhưng cuộc sống cũng lắm
gam go. Ở chợ các em bé đánh giầy và bán xổ số cũng khá đông. Nhiều em nhìn chỉ
bé độ bốn, năm tuổi, một buổi đi học, một buổi đi bán. Không biết bán được bao
nhiêu. Một gánh rau xà lách khoảng hơn hai mươi kí lô, bán một ngàn đồng một
kí, nguyên gánh rau chỉ bán được hơn một đô, không hiểu họ có thể làm sao nuôi
sống được cả một gia đình. Những người chạy xe thồ cũng nói một ngày kiếm một
hai chục ngàn (khoảng trên một đô) cũng không dễ gì.
Ấy vậy mà sao cuộc
sống lại vẫn cứ trôi đi. Những buổi chiều trời êm, trên ngọn đồi gần sân vận động
đối diện hồ Xuân Hương, tấp nập người ra thả diều. Những con diều đủ màu vẫn phất
phới dâng cao, mặt hồ vẫn phẳng trong xanh, mây trắng vẫn bồng bềnh và hoa cỏ vẫn
tươi tốt. Cuộc sống vẫn hiền hòa thanh thản trong lúc tôi mãi ngồi khóc mướn
thương vay.
Có những tối ngồi
ở Thủy tạ, nhìn sóng dập dềnh, nhắm mắt nhớ lại những khung trời xưa cũ. Bên
tai tiếng đàn chát tai của ban nhạc dân tộc chơi đủ loại bài hát. Tiếng đàn bầu,
đàn tranh, guitare hỗn độn xen lẫn nhau, đã chẳng hoà quyện được mà lại như đối
nghịch ồn ã làm nhà hàng Thủy tạ mất đi cái bản sắc nên thơ của nó. Nhưng có lẽ
nhờ những ồn ào đó mà nhà hàng trở nên đông đảo với số khách đến ăn và nghe loại
nhạc này. Nếu để đèn mờ, nhạc nhẹ như ngày xưa, biết đâu đã thành một nhà hàng
vắng vẻ và có thể đã đóng cửa không chừng. Cuộc sống đã thay đổi, thì tâm tình,
thị hiếu làm sao giữ được nguyên vẹn như xưa.
Buổi tối nhiều
quán café mở khắp nơi, nhưng sau chín giờ đã bắt đầu hết khách, một vài chỗ còn
mở khuya với số khách thưa thớt trên đầu ngón tay. Đà Lạt vẫn chẳng phải là một
nơi chốn ăn chơi. Đêm chạy xe trên những con đường thật yên ắng, nghe rõ cả tiếng
sương rơi và tiếng gió cựa mình, để hồn lắng đi một chút và thấy là Đà Lạt
trong một góc cạnh nào vẫn còn đẹp lắm.
Rời Đà Lạt, trở lại
Sài Gòn, vẫn còn cái cảm giác ngột ngạt như ngày xưa khi xe qua khỏi cái râm
mát của đèo Bảo Lộc để đi vào không khí nóng nực, bụi bậm của miền Nam.
Hai tuần đã trôi
qua, tôi sửa soạn rời thành phố, cô bạn gặp trên máy bay đã nhắn sẽ về cùng
ngày vì cô ta đã đổi vé lại. Đón cô cùng ra phi trường, cô khóc: “Chị ơi, anh ấy
giờ không chịu về, anh ấy bảo em muốn ly dị thì ly dị, tiền bạc chia ra cho anh
ấy về đây sống, chị bảo em phải làm sao?”
Làm sao ư, tôi
cũng chẳng biết phải làm sao, tôi đã sắp lên máy bay, sắp rời cái thành phố mà ở
đó có rất nhiều những nụ cười, những tiếng khóc, những khuôn mặt lạnh lẽo và những
khuôn mặt mệt mỏi chán chường, cũng có một số ít các khuôn mặt phủ phê thỏa
mãn, với thật nhiều những cảnh đời đa dạng. Ở đấy, chắc cũng có rất nhiều người
đang tự hỏi họ sẽ sống ra làm sao đây. Làm sao tôi có thể trả lời, chỉ biết nhắm
mắt nghe hai mi nằng nặng. Với cô gái mới quen, chắc tôi phải cho cô một lời
khuyên, gắng tìm cho cô một lối thoát, chắc chắn là như thế, nhưng lúc này đây,
tôi chẳng biết nói gì. Đầu óc lơ mơ, nghĩ đến một chuyến trở về rồi lại ra đi, hay
ngược lại, tôi đã làm một “chuyến ra đi” từ xứ Úc bình yên, và giờ đây là chuyến
trở về? – tôi thật cũng chẳng biết. Lúc này đây, tôi chỉ biết mình đang ứa những
gịot nước mắt khóc theo cô bạn mới quen. Và Sài Gòn ơi, chào nhé...
Thiên Hương