Chị Ngâu ăn xong món bún thịt nướng chán chê, còn lại một ít
thì không ăn nổi nữa. Chị đẩy những đĩa đồ ăn thừa sang một bên. Nhà hàng này nổi
tiếng với món bún chả Hà Nội của miền Bắc dù nhà hàng ở thành phố Sài Gòn miền
Nam. Chồng chị, anh Cheng vừa đứng lên đi về phía cuối nhà hàng tìm nhà vệ
sinh, chỉ còn hai mẹ con chị trước mặt bàn với bát đĩa, và đồ ăn thừa ngổn
ngang. Thằng Vàng của chị mới lên 4 tuổi chỉ ăn mấy miếng thịt nướng với bún rồi
quay ra uống nước ngọt, nhất định không ăn thêm miếng thịt nào nữa. Chị cũng
nâng ly nước ngọt và bâng quơ nhìn quanh, ánh mắt chị dừng lại nơi hình ảnh 2
người ăn xin ngay bàn khách bên cạnh bàn chị. Một thằng bé và một bà già đang
túm áo nó như sợ bị bỏ rơi hay đi lạc mất nhau.
Thằng bé chìa tay xin tiền, thực khách bàn ấy có người móc túi dúi cho nó ít đồng, nhưng thằng bé chưa vội đi, nó nhanh chóng thu gom những đồ ăn thừa trên bàn và đổ vào trong một cái túi ni lông mang sẵn rồi mới rời khỏi bàn. Khi nó quay mặt ra, tim chị bỗng giật thót lên một cảm giác lạ lùng, hình như thằng bé có cái gì rất gần gũi, quen thuộc với chị? Và khi chị cố tìm cách nghiêng người nhìn bà già thì chị thất thần, chị như chợt lên cơn nhức đầu đến quay cuồng chóng mặt.
Họ đang đi về phía bàn của chị, chị Ngâu hồi hộp, bối rối chỉ
sợ anh Cheng về tới, chị vội quay mặt đi hướng khác để 2 người ăn xin này đừng
bén mảng đến bàn chị. Nhưng thằng bé đã đứng cạnh chị rồi, tiếng của nó cất
lên, van vỉ cầu cạnh:
– Bác ơi, làm ơn làm phước cho cháu xin tiền nuôi bà cháu…
Không thể không quay mặt lại, chị rùng mình thảng thốt vì
gương mặt thân quen của thằng bé và bà già thì đang nhìn thẳng vào mặt chị bằng
cái nhìn ngay đơ vô hồn. Chị vừa nhẹ lòng vì thoát nỗi lo ngại vừa thêm thảng
thốt vì biết bà đã bị mù.
Chị nhanh chóng mở ví tiền rút ra một nắm không cần đếm bao
nhiêu dúi ngay vào bàn tay bé nhỏ của thằng bé và run giọng hỏi:
– Cháu lên mấy?
Nhận được món tiền hậu hĩ, thằng bé vui mừng hấp tấp xếp lại
những tờ giấy bạc và nhét vào túi quần, cẩn thận cài kim băng mà quên chưa trả
lời câu hỏi của người khách sộp. Bà già nãy giờ nghiêng tai lắng nghe và trả lời
thay cho cháu:
– Cháu nó 8 tuổi.
Chị run run hỏi tiếp:
– Khổ! Mới có 8 tuổi đầu mà phải đi xin ăn, thế… cha mẹ nó
đâu?
Bà già lại nghiêng tai lắng nghe và có vẻ không hiểu gì, chị
Ngâu tin chắc bà bị lãng tai, hơn nữa nhà hàng lại ồn ào tiếng nói cười lẫn tiếng
nhạc. Chị lặp lại câu hỏi chậm rãi hơn, thì bà mới nghe ra:
– Mẹ cháu chết từ lúc nó lên 3 bác ạ, còn bố nó mới chết vì
sốt rét rừng nên bà cháu tha nhau về đây.
– Nhà làm gì trên rừng hở bà?
Đi kinh tế mới ở Lào Cai, được vài năm thì bố nó ngã bệnh sốt
rét chết. Hai bà cháu một già một trẻ chẳng làm lụng việc ruộng vườn được thì ở
đấy làm gì, nhỡ vướng sốt rét lại khổ thôi.
Hình như có người hỏi để được dịp trút nỗi lòng, bà gìa kể lể
tiếp:
– Về quê thì ruộng nương nhà cửa không còn, mà chỉ thêm buồn
vì cảnh cũ người xưa, nên bà cháu quyết không bao giờ bén mảng về quê, mới vào
Nam tha phương cầu thực như thế này.
Chị ái ngại hỏi:
– Hình như mắt bà kém lắm?
– Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa, mắt mờ, tai nghễnh ngãng từ
lâu rồi, không có tiền đi bác sĩ khám mắt và thuốc thang, lại khóc nhiều vì
thương con thương cháu nên tăm tối mù lòa luôn. Cũng đành cái số…
Trong lúc bà nó nói chuyện, thằng bé không bỏ phí thì giờ,
nó vơ vét những thức ăn thừa đổ vào túi ni lông và gói ghém lại cẩn thận, sợ những
thức ăn thơm ngon này sẽ rơi mất. Chỉ trong chớp mắt, những đĩa bát đã sạch
trơn. Xong nó kéo tay bà nó:
– Đi bà ơi, bàn bên kia có nhiều người lắm.
Chị Ngâu chưa biết nói sao, muốn níu chân thằng bé lại dù chị
không biết phải làm gì hơn trong lúc này thì anh Cheng về đến, nhìn thấy nét mặt
chị còn ngơ ngác anh hỏi:
– Gì thế em?
Chị gượng cười nhìn chồng:
– Có gì đâu anh, hai bà cháu thằng bé ăn xin vừa xin tiền và
lấy hết những thức ăn thừa này. Em cảm thấy thương xót cho họ thôi.
Anh dăn dò:
– Lần sau đừng để họ đến gần, đám xin ăn bao giờ cũng bám
vào chúng ta để cầu cạnh.
*
Trưa về nằm nghỉ trong khách sạn sang trọng, giường nệm êm
ái, máy lạnh mát mẻ với thằng bé Vàng đang ngủ ngon bên cạnh, chị Ngâu vẫn
không chợp mắt cho giấc ngủ trưa được. Anh Cheng đang bận đi họp với đối tác
làm ăn. Anh Cheng là giám đốc một công ty ở Singapore, làm ăn với vài công ty
bên Việt Nam từ nhiều năm nay, nên chuyện về Việt Nam với anh rất thường xuyên.
Do nhu cầu công việc và đi lại Việt Nam nhiều lần, ở lại nhiều ngày nên anh
Cheng có thể nói tiếng Việt Nam, nhất là từ khi kết hôn với chị Ngâu thì khả
năng nói và hiểu tiếng Việt của anh đã hoàn chỉnh hơn.
Chị Ngâu quay cuồng với những hình ảnh quá khứ của mấy năm về
trước. Ngày ấy chị còn là cô thôn nữ làng Chuông, nhà nghèo nhất nhì trong
làng, nhưng chị cũng xinh đẹp nhất nhì trong làng, có nhiều anh con trai để ý
chị, nhưng ở tuổi mới lớn, tâm hồn ngây thơ, chị Ngâu chưa biết kén chọn so đo,
chị yêu anh Cư người cùng làng và nhà cũng nghèo như nhà chị. Bố anh mất sớm, mẹ
anh ở vậy từ thời son trẻ để nuôi con, nên chỉ có anh Cư là người con duy nhất,
đủ để nối dõi, thờ cúng tổ tiên ông bà.
Hai mẹ con có hai sào ruộng, ngày làng xã phân chia ruộng đất
theo đầu người, mẹ anh góa bụa, nghèo nàn, thân cô thế cô không họ hàng để
nương tựa nhờ vả và không tiền bạc đút lót cho quan làng quan xã, nên mảnh ruộng
xấu nhất làng không ai thèm nhận họ đã phân phối cho hai mẹ con. Anh Cư có chiếc
thuyền con, ngày ngày anh lưới cá bên sông Nhuệ, mẹ anh đem mớ cá ra chợ
bán, mua lấy bó rau bìa đậu hai mẹ con cũng sống qua ngày. Thỉnh thoảng chị
Ngâu ra gặp anh bên bờ sông ấy để chuyện trò và khi về thể nào anh Cư cũng cho
chị mấy con cá sông, có hôm được vài con cá mè, cá trắm, hay con cá chép
to, hôm nào ít cũng có mớ cá mường bé bé bằng ngón tay nhưng tươi rói, chỉ kho
được một nồi nhỏ cũng đủ làm chị bồi hồi cảm động. Chị càng yêu anh vì thế.
Chẳng bao lâu họ lấy nhau, đám cưới nhà nghèo chỉ có miếng cau
trầu, vài đĩa kẹo uống nước trà cũng gọi là tiệc cưới. Chị có thai và đẻ ra một
thằng con trai, nhà nghèo quá, chị âu yếm đặt tên con là thằng Xu cho hợp với
gia cảnh nhà chị chỉ có tiền xu, chẳng có tiền bạc của nả gì khác, nhưng thằng
Xu của vợ chồng chị thì vô giá, vì chị yêu nó lắm. Nhà thêm đứa con thêm chi
tiêu và tình yêu ngây thơ năm trước đã thành tình vợ chồng mấy năm đủ va chạm với
thực tế.
Chị Ngâu đã biết lo xa tính toán, chị thấy dân trong làng
đua nhau vào Nam tìm việc làm để đổi đời, cho dù đi ở đợ cũng sướng hơn ở quê
làm ruộng, được ăn trắng mặc trơn tại nhà chủ, ra dáng thị thành hẳn ra. Chị
bàn tính với anh Cư, muốn hai vợ chồng vào Nam trước, để thằng bé Xu cho bà nội
trông, khi nào tạm ổn định thì về quê bán hết nhà cửa ruộng nương để di cư vào
miền Nam.
Nhưng anh Cư không cùng chí hướng với vợ, anh vẫn muốn ở
làng quê, an phận đời sống nghèo với một mảnh ruộng, một mái nhà lá đơn
sơ và một chiếc thuyền cũ ọp ẹp cũng đủ nuôi cả nhà không chết đói, mà ấm tình
làng quê. Chị Ngâu nghe tin những người làng ở trong Nam kể về mà sốt cả ruột,
vợ chồng cái Thà chỉ một mẹt lòng lợn mỗi buổi chợ mà kiếm khá tiền, anh Bân đi
làm phụ xế cho xe tải, chị Pháo làm công cho một cửa hàng bán vật liệu xây dựng,
v.v… Nghề nào cũng kiếm ra tiền cả.
Chỉ có nhà chị quanh quẩn với ruộng, mà ruộng không mất mùa
cũng chẳng đủ ăn, ruộng xấu nên tốn nhiều tiền phân bón, lại tiền thuế má. Với
chiếc thuyền lưới lên vài con cá bé tí và môi sinh càng ngày càng cạn kiệt thì
có ngày thuyền cũng phải lìa sông thôi. Chị Ngâu càng đốc thúc chồng thì anh Cư
càng phản đối, từ bé đến lớn anh chỉ quanh quẩn trong làng nên e ngại không dám
bước ra cuộc đời ngoài luỹ tre làng.
Hai vợ chồng trở nên xung khắc mỗi ngày mỗi nhiều, anh đâm
ra uống rượu, rượu vào thì lời ra rồi cãi nhau, hễ chị Ngâu to tiếng thì anh Cư
cũng to tiếng hơn và anh đánh vợ. Họ chửi nhau, đánh nhau, có lần, bà mẹ anh Cư
can không nổi đã phải chạy ra ủy ban xã nhờ can thiệp kẻo chúng nó giết nhau mất.
Chị Ngâu đã chán cảnh đói nghèo, chị oán hận chồng ngu dốt không biết mở mắt ra
theo thời.
Một buổi trưa, khi anh Cư còn đang lênh đênh chiếc thuyền
trên sông Nhuệ để lưới cá, thì chị Ngâu xuống bếp gặp bà mẹ chồng đang lúi húi
đun nấu gì đó, căn bếp đầy khói và mùi rơm ẩm chưa khô làm chị cay cả mắt. Chị
nói:
– Mẹ trông thằng Xu, con về bên mẹ con có tí việc.
Bà ngước nhìn con dâu, hiền hòa:
– Ừ, con đi đi, mẹ đang om lại nồi cá kho dưa hôm qua, cũng
đủ cho bữa cơm chiều nay.
Rồi bà chép miệng than:
– Rơm còn ướt khói mù mịt cả ra…
Chị tần ngần chưa chịu đi:
– Cháu nó đang ngủ, chốc nữa mẹ nhớ mặc quần cho thằng Xu
nhé, nhỡ quên thì chiều xuống lạnh đít nó.
Bà cười âu yếm khi nghĩ đến thằng cháu nội 3 tuổi:
– Mẹ biết rồi, cái thằng hễ ngủ trưa là đái dầm nên cứ phải
ngủ truồng thế. Mà từ nhà mình về nhà mẹ con là đầu làng đến cuối làng việc gì
con phải dặn dò như đi đâu xa không bằng?
Chị cắp nón và đi ra sân:
– Ấy là con quen
mồm dặn thôi.
Nhưng ngay lúc ấy
thì thằng bé Xu hiện ra ở ngưỡng cửa sau gần bếp, nó mới ngủ dậy, mặt còn ngái
ngủ, khóc lè nhè. Thằng bé đứng khóc, cái bụng ỏng ưỡn ra nên hai mông nó như
teo tóp lại. Thằng bé thấy mẹ cắp nón sắp đi, nó giơ hai tay ra đòi bế và khóc
gọi thành tiếng:
– Mẹ… mẹ…
Tiếng gọi đứt
quãng trong tiếng khóc hờn, chị bỗng thấy quặn lòng, định quay lại ôm con, mặc
quần cho con rồi ra sao thì ra. Nhưng bà mẹ chồng đã từ trong khói bếp, từ
trong mái bếp thấp lè tè chui ra. Bà nựng nịu cháu:
– Xu của bà ngoan
nào, ra bà mặc quần rồi bà cho Xu ăn củ khoai lang luộc nhé.
Nghe bà nói củ
khoai, thằng Xu nín khóc, nó quên mẹ, hai mắt nó sáng lên theo bà nó vào bếp.
Thế là chị Ngâu nhanh chân bước đi, nếu không chị chẳng còn cơ hội nào mà dứt
ra được khỏi thằng Xu nữa. Chị không về ngôi nhà mẹ chị ở cuối làng, mà chị đi
xa hơn. Cuối cùng chị đã lên chuyến xe lửa Bắc Nam, để vào thành phố Sài Gòn.
Chuyến tàu chiều ấy có người đàn bà rất trẻ ngồi thu lu trong lòng ghế, lòng buồn
rười rượi, như người vô hồn chị quay mặt ra khung cửa toa tàu để nhìn cảnh vật
đang lùi dần, lùi dần phía sau, có nghĩa là chị càng lúc càng lìa xa quê quán, xa
mái gia đình. Rồi hình ảnh thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa khóc giơ tay đòi bế hiện
ra, chị đau đớn như dao cắt vào thịt da. Nước mắt chị tuôn rơi nhạt nhòa, chị
nghẹn ngào kêu lên liên hồi hai tiếng “Xu ơi…”
Chị chẳng thiết
gì đến ăn uống hay nhìn mọi người đồng hành xung quanh, chị cứ khóc cho đến khi
mệt mỏi, người chị như lả đi, chị thiếp vào giấc ngủ vẫn thấy thằng Xu của chị
cởi truồng đang đứng khóc giơ tay đòi bế và tiếng gọi “Mẹ… mẹ…” vang lên nhức
nhối trong đầu óc chị. Trong giấc mơ chị lại tha thiết gào lên: “Xu ơi…”
Chị Ngâu vào Nam,
lang thang cả ngày ngoài đường phố để tìm việc làm, chị tránh không muốn gặp những
người cùng làng vì sự ra đi kiếm cơm của chị như trốn chạy, như một sự lừa dối
chồng con và cả bà mẹ chồng nhân hậu. Đói khát bơ phờ mất mấy ngày thì chị xin
được chân rửa bát trong một nhà hàng, chị đã sung sướng mơ đến ngày dành dụm được
khá tiền sẽ về quê thăm thằng Xu, chị sẽ xin lỗi anh Cư và năn nỉ rủ chồng chịu
vào miền Nam sinh sống lập nghiệp, cả nhà chị lại đâu vào đấy cho lương tâm chị
bớt áy náy, bớt cắn rứt vì rời xa đứa con bé bỏng của mình.
Chị chăm chỉ rửa
bát chưa được bao lâu thì bà chủ “thăng chức” cho chị, vì thấy chị vừa trẻ vừa
xinh, chị được bà chủ cho mặc quần áo đẹp để làm nhân viên phục vụ nhà hàng,
bưng đồ ăn thức uống cho khách. Nhờ có những cô phục vụ trẻ đẹp như chị mà nhà
hàng giữ chân được nhiều loại khách, dù khách thường hay khách sang. Nơi đây chị
gặp anh Cheng thường đến ăn uống với bạn bè, mỗi lần Cheng đến là chị Ngâu được
bà chủ điều động ra tiếp khách, vì anh Cheng có vẻ mến chị. Dần dần anh Cheng
và chị Ngâu biết nhau hơn, thân nhau hơn.
Một hôm anh mời
chị Ngâu tham dự sinh nhật của anh, chỉ có một mình chị Ngâu là khách mời, vì
anh không muốn chia sẻ không gian thân tình ấy cho một người khác nữa, ngoài chị.
Chị Ngâu đành nhận lời, chị muốn làm vừa lòng bà chủ nhà hàng vì anh Cheng là
khách sộp thường xuyên của bà hơn là vì anh. Buổi sinh nhật được tổ chức tại
phòng khách sạn nơi anh tạm trú, anh hân hoan bên chị và cao hứng uống rượu khá
nhiều. Trong cơn say rượu anh Cheng say tình luôn, anh đã thố lộ tình yêu với
chị. Cảm động và vị nể, chị đã yếu lòng sa ngã, chỉ một lần trao thân đêm ấy mà
chị Ngâu mang thai, anh Cheng đã ân cần cầu hôn chị, vì dưới mắt anh cũng như
bà chủ nhà hàng chị Ngâu vẫn là một cô gái quê trinh nguyên. Hơn nữa, anh Cheng
ngủ với chị trong cơn say thì anh nào phân biệt được gái có chồng hay chưa. Chị
trẻ đẹp và thật thà như thế!
Cha mẹ chị không
thể gả con gái lần nữa, họ không thể làm điều bất nghĩa ấy, nhưng thương con
gái họ đành vào Sài Gòn gặp con và anh Cheng, đưa ra lý do không muốn gả con xa
cho người nước ngoài, nhưng chị Ngâu đã trưởng thành, chị cứ quyết định theo ý
của mình. Chị Ngâu theo anh Cheng về quê anh, mới biết anh con nhà trung lưu ở
Singapore, là giám đốc một công ty và thường xuyên ở Việt Nam vì công việc. Chị
sinh ra thằng con trai, nét mặt giống Cheng như hai giọt nước, khỏi cần đi thử
máu Cheng cũng thừa biết nó là máu mủ của anh. Cheng đặt tên cho con theo dòng
họ anh, nhưng tên ở ngoài chị gọi nó bằng tên Việt Nam, là thằng Vàng giàu
sang, ngược lại với thằng Xu một thời nghèo khổ của chị.
Người Hoa quý con
trai, nên thằng Vàng được ông bà nội, cha và cả bên nội cưng quý như vàng, vì
đây là đứa cháu nội đầu tiên của họ. Cheng đem vợ con về sống ở Singapore cho gần
bên nội, chỉ thỉnh thoảng Cheng mới đưa vợ con theo chuyến công tác ngắn ngày ở
Việt Nam. Anh Cheng rất yêu vợ, thương con, chị Ngâu như chiếc lá trôi theo
dòng đời, một dòng đời êm ái và hoa gấm. Hạnh phúc trong tình yêu của chồng mới,
chị đã nguôi ngoai và quên đi hình ảnh anh Cư người chồng cũ, chị đã quên đi bà
mẹ chồng nhân hậu, nhưng chị không thể dễ dàng quên đi thằng con nơi chốn quê
nghèo tội nghiệp.
Từ ngày chị bỏ chồng
con vào Nam, bố mẹ chị cũng xấu hổ với làng xóm. Bán xới nhà cửa ruộng vườn để
về quê mẹ của chị rất xa lập nghiệp, để giã từ quá khứ. Ở làng quê, người ta sống
bằng danh dự cần thiết như cơm áo, cha mẹ chị không thể muối mặt ở làng quê
mình để nghe tiếng chê bai, bàn ra tán vào và nhất là nhìn cảnh bên thông gia
neo đơn trống vắng từ khi chị ra đi không hẹn ngày về.
Với lý do cha mẹ
không hài lòng và lạnh nhạt, chị liên lạc rất ít với cha mẹ, vì muốn giấu giếm
tung tích trước kia của chị để bảo vệ hạnh phúc gia đình hiện nay. Lần cuối
cùng chị nghe tin từ cha mẹ là anh Cư đã theo vài hộ dân làng đưa mẹ già con mọn
lên Lào Cai khai hoang kinh tế mới khi ở làng quê cuộc sống anh đã thực sự kiệt
quệ. Dòng sông Nhuệ vẫn còn đó, nhưng chiếc thuyền của anh Cư đã quá mục nát,
anh không có tiền để sửa chữa vá víu thêm nữa.
Từ đó cha mẹ chị
không dõi theo tin tức nhà anh Cư nữa, chị và anh Cư đã đường ai nấy đi, thằng
Xu là con là cháu họ thì họ phải lo. Cha mẹ chị muốn quên đi cũng như chị đã muốn
quên đi. Giá mà chị nghe tin anh Cư lấy vợ có lẽ chị sẽ vui hơn, yên tâm hơn.
Ít ra trong nhà cũng có một người đàn bà trẻ, gánh vác việc nhà, chăm lo cho
anh Cư, còn thằng Xu đã có bà nội yêu thương chăm sóc rồi.
*
Trưa hôm sau, bằng
giờ hôm qua lúc gia đình chị ăn món bún chả thịt nướng, chị dắt thằng Vàng ra
nhà hàng ấy trong lúc anh Cheng bận đi công việc. Chị vào trong gọi vài món ăn
cho có lệ rồi chờ đợi, chị luôn nhìn khắp nhà hàng tìm kiếm bóng dáng hai bà
cháu thằng ăn xin hôm qua…
Nhưng chị đợi mãi
và cuối cùng thất vọng đi ra ngoài, gặp hai đứa bé ăn xin khác vừa từ trong nhà
hàng đi ra, hai đứa khoảng mười hai, mười ba tuổi, chị liền vẫy lại hỏi:
– Này cháu…
Hai thằng bé chạy
lại mừng rỡ:
– Dạ, cô Hai cho
con xin ít tiền cô Hai.
– Cho con luôn cô
Hai, từ sáng tới giờ con đói bụng quá.
Chị Ngâu ân cần
móc tiền ra:
– Cho hai cháu với
điều kiện cho cô hỏi thăm một chút được không?
Hai đứa trẻ bụi đời
cùng nhanh nhẩu:
– Được chớ, cô hỏi
bao lâu cũng được mà.
– Cô cứ hỏi con
biết là nói liền cho cô nghe.
– Hôm qua cô ăn
trong nhà hàng này, có gặp thằng bé ăn xin đi với bà nó. Các cháu có biết hai
bà cháu này không?
Một thằng đáp
ngay:
– Cháu biết nè,
bà già đó bị mù, là bà nội của thằng nhỏ đó.
Chị Ngâu mừng rỡ:
– Đúng rồi, sao
hôm nay hai bà cháu không ra đây xin ăn?
Thằng bé còn lại
bây giờ mới lên tiếng:
– Tưởng ai, chớ
thằng bé với bà già đó con cũng biết luôn. Nó bị thanh tóan rồi!!!
Chị Ngâu hốt hoảng
và ngạc nhiên:
– Thanh toán? Ai
đã làm gì nó?
– Băng đảng nhí
đó cô, là cỡ tuổi tụi con. Thằng Bắc Kỳ đó mới vô Nam không có ai giới thiệu mà
dám bén mảng tới khu này ăn xin là phạm luật rừng, mấy đứa bụi đời ăn xin trong
băng đảng nhí ở đây đã đánh cảnh cáo nó sưng mặt và đuổi nó đi khỏi khu vực nhà
hàng này rồi.
Chị tưởng như
toàn thân mình sắp qụy xuống, giọng chị nghẹn ngào:
– Giời ơi! Chết
thằng bé mất thôi!
Chị cố hỏi thêm:
– Các cháu có biết
hai bà cháu hiện giờ ở đâu không?
– Giang hồ mà cô,
nó đi đâu ai biết. Đương nhiên là đi khỏi vùng này nếu không muốn ăn đòn lần nữa,
tơi bời hoa lá cành hơn nữa. Sài Gòn này thiếu gì nơi cho bà cháu nó đến ăn
xin, cô hơi đâu mà lo.
Chị lại cố nài nỉ:
– Không thể được,
không thể được… Các cháu kiếm tìm hai bà cháu nó cho cô đi, mỗi ngày cô sẽ đến
đây trả tiền công cho hai cháu để biết tin tức… Trong vòng 3 ngày nữa thôi, chỉ
3 ngày nữa thôi.
Nghe đến tiền
công, và nhìn vẻ thất vọng khổ đau của người phụ nữ trẻ đẹp sang trọng, hai thằng
bé cũng bùi ngùi:
– Dạ… con sẽ kiếm…
Con sẽ dò la hỏi mấy đứa bụi khác xem sao.
Hai thằng bé bỏ
đi, để mặc chị Ngâu còn đứng ngẩn ngơ với thằng Vàng. Nó ngây thơ ngước mắt lên
hỏi mẹ:
– Sao mẹ khóc?
Chị ngồi thụp xuống
ôm con vào lòng và lại khóc nấc lên:
– Xu ơi…
Thằng Vàng vùng vằng
nũng nịu:
– Con không tên
Xu, con là thằng Vàng mà.
– Ừ, Vàng của mẹ
ơi…
Chị đứng lên cố
nhịn khóc để gọi xe taxi về khách sạn, ngày mai bằng giờ này chị lại ra đây, chỉ
còn 3 ngày nữa chị sẽ theo chồng về Singapore không biết chị có gặp lại bà cháu
thằng Xu không? Nếu gặp họ, chị sẽ ôm con thật chặt vào lòng và gọi lên hai tiếng
“Xu ơi” như chị đã từng mơ ước và từng gọi thầm trong mấy năm qua. Chị cũng sẽ
nói cho bà mẹ chồng biết là chị vẫn còn đây, dù bà đã oán hận chị, xem chị đã
chết kể từ ngày chị bỏ chồng con ra đi. Chị sẽ quỳ xuống chân bà xin tạ tội,
xin bà hãy mang thằng Xu về quê mẹ của chị, để thằng bé được thêm sự chăm sóc của
tình ruột thịt bên ngoại. Chị sẽ tìm cách gởi tiền về nuôi hai bà cháu… Chị
khao khát ước mơ này như ngày xưa chị đã khao khát ước mơ bỏ làng quê, bỏ họ để
ra đi.
Chị bế thằng
Vàng, nó 4 tuổi, hơn tuổi thằng Xu một chút ngày chị rời xa nó. Nhưng hôm
nay thằng Vàng trắng trẻo trong bộ quần áo đẹp đắt tiền, chân đi đôi giày xinh,
khác với thằng Xu đứng ở ngưỡng cửa, đi chân đất, cởi truồng lè nhè khóc và giơ
tay đòi mẹ bế cùng với tiếng gọi “Mẹ… mẹ…” của nó cách đây 5 năm.
Hôm nay lòng chị
cũng dùng dằng, cũng đau đớn như hôm ấy. Hôm nay không có khói bếp và mùi rơm ẩm
ướt như hôm ấy. Nhưng hai mắt chị vẫn cay xè rồi mờ lệ, trong lòng chị lại nức
nở gào lên : “Xu ơi!”
Chiều nay
không phải nơi chốn quê nhà,
Không khói bếp,
không có mùi rơm ướt,
Sao mắt ai
cay, sao lòng thổn thức?
Như phút lìa
quê, xa mái tranh nghèo.
Nguyễn
Thị Thanh Dương