Đọc ĐỌC MỘT BÀI THƠ NHƯ THẾ NÀO (1)
7. Nhạc điệu của bài thơ
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
(Xuân Diệu)
Một trong những bài thơ có nhạc điệu hay nhất thời tiền chiến.
Vần điệu của thơ có thể được xem như biểu tượng. Khi đọc thơ, ngoài ý nghĩa, ta
còn chú ý đến âm điệu, vì âm điệu là một trong những nguyên cớ làm nên vui thú,
khoan khoái của người đọc. Có những bài thơ gần với ca khúc, nhưng thật ra tất
cả những bài thơ hay, ngay cả thơ tự do, cũng tạo ra một thứ âm nhạc riêng. Sự
thích thú của người đọc trước nhạc tính của bài thơ có thể xếp vào hai loại: sự
hợp vần, lên bổng xuống trầm, du dương; và thứ hai là việc chọn chữ, những chữ
đặt cạnh nhau, mà khi đọc lên bạn cảm thấy sảng khoái. Trong bốn câu thơ trên,
có sự lên xuống trầm bổng của đoạn thơ, thích hợp cho đối tượng mô tả là cây
nguyệt cầm, nhưng mỗi chữ, mỗi cặp chữ đều gây cảm giác vừa lạ vừa quen, dễ nhớ,
bạn muốn đọc và ngâm nga: nguyệt lạnh, đàn buồn, đàn lặng, đàn chậm,
rơi tàn, lệ ngân.
Nhạc điệu trong một câu thơ có thể dùng để phục vụ cho một ý
tưởng, nâng một hình ảnh lên, nhưng cũng có thể tồn tại vì bản thân nó: âm nhạc
phục vụ âm nhạc. Sự hiện hữu của nó là sự vui thú của chính nó.
Lịch sử không có mục đích.
Nhiều nhà thơ hiện nay quên mất rằng công việc đầu tiên của
thơ và văn chương là vui thú, khoái cảm. Thơ dở, không gây sảng khoái, bạn
không đọc. Có hàng chục người ra sức viết lời giới thiệu hoa mỹ, dẫn ra lý luận
ông tây bà đầm, bạn cũng không đọc.
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
(Quang Dũng)
Vừa thoáng gặp một câu như thế, như mỹ nhân, ai mà đành lòng
quay đi?
Các nguyên âm và các phụ âm: sự lặp lại các nguyên
âm tạo ra vần, sự lặp lại các phụ âm tạo ra luyến láy.
Phố xá xôn xao người nhộn nhịp
Tìm em anh có
thấy em đâu
(Lan Sơn)
Hai chữ xôn
xao, nhộn nhịp mở đường cho câu thứ hai, gây cảm giác bồn chồn, lạc
lõng, thương nhớ.
Những câu thơ hay
bao giờ cũng có âm điệu, nhưng chúng không nhất thiết phải ở mức độ cao nhất của
nhạc tính. Những câu có nhạc điệu đẹp nếu đi kèm với hình ảnh đặc sắc thì giá
trị tăng lên. Tôi dùng chữ đặc sắc là nói về nghệ thuật của nhà thơ, không nhất
thiết hình ảnh phải khác thường, kỳ lạ. Nhiều người tả trăng, nhưng đến:
Tình cờ anh gặp
lại vầng trăng
Một nửa vầng
trăng thôi, một nửa
(Hoàng Hữu)
Thì chúng ta gặp
cái xao xuyến do sự va chạm giữa hình ảnh và âm điệu gây nên. Một nữa mà thành
đôi.
Người xưa thường
làm thơ có vần chặt chẽ, hiện nay các nhà thơ buông lỏng vần.
Đủng đỉnh chiều
hôm dắt tay
Trông thế giới
phút chim bay
(Nguyễn Trãi)
Mặt khác, nói về
tay nghề, các nhà thơ mới viết dùng vần chặt chẽ, người có nhiều kinh nghiệm
hơn thường thả vần nhẹ nhàng. Tuy vậy, sự biến đổi của các quy luật về vần điệu
trong thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, quan trọng nhất là phong
cách:
Ta nhớ người
xa cách núi sông
Người xa xa lắm
nhớ ta không
(Tú Xương)
Chú ý rằng trong
các thể thơ có một thể thơ giao hòa với văn xuôi gọi là thơ xuôi. Đây là ngoại
lệ, trong ấy ranh giới của câu thơ bị xóa nhòa, tuy nhiên khi đọc lên, âm điệu
của các câu vẫn có nhạc tính so với một bài văn xuôi bình thường. Một trong những
người làm thơ xuôi đầu tiên có lẽ là nhà thơ Hàn Mặc Tử trong tập Chơi Giữa Mùa
Trăng:
" Tôi run
run khi tôi có cái ý nghĩ: Chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu
tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng, mà
em đây cũng là trăng nữa!”
Ngó lại, chị
tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt."
Thay vì tìm cách
đối lập các khía cạnh khác nhau của đời sống, nhạc điệu trong thơ mở ra những
liên kết, tìm cách nối lại trạng thái vui và buồn, sợ hãi và hoan lạc. Nó xuyên
qua lớp vỏ nhận thức, vỉa tầng định kiến chính trị, vào sâu cõi vô thức.
8. Nhân cách hóa
Một trong những
phương pháp so sánh thường dùng trong thơ là nhân cách hóa. Nhân cách hóa cũng
được dùng trong văn xuôi, nhưng xuất hiện trong thơ nhiều hơn. Đó là phương
pháp hình ảnh, chuyển dịch một vật thể không phải người trở nên có tính chất của
một nhân vật. Nhân cách hóa có thể được sử dụng rộng rãi với nhiều mục đích,
nhưng bao giờ cũng thông qua so sánh hoặc ẩn dụ.
Nhân cách hóa từ
thiên nhiên:
Con sông dùng
dằng con sông không chảy
Sông chảy vào
lòng nên Huế rất sâu
(Thu Bồn)
Thú vật:
Ải Bắc quân
thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn
trở lạnh đầu voi
(Ngân Giang)
Một vật vô tri:
Đôi khi
ta như chiếc
gàu thả sâu trong lòng giếng
cứ va đập
va đập mãi vào
bờ đất
cho đến hồi
chỉ còn lại một
vốc nước nhỏ
(Ý Nhi)
Những người đã chết:
At night the dead come down to the river to drink.
They unburden themselves of their fears,
Their worries for us.
Ban đêm người chết xuống sông uống nước.
Họ cởi hết sợ hãi,
Những âu lo mãi vì chúng ta.
(Susan Mitchell)
Có thể nhận xét rằng phương pháp nhân cách hóa được dùng nhiều
hơn hay ít hơn tùy thời đại, và đối với các nhà thơ khác nhau. Tôi nhận xét rằng
các nhà thơ Việt thời tiền chiến sử dụng nó nhiều hơn các nhà thơ ở những giai
đoạn sau.
Ở trên chúng ta nhắc đến mưa của Paul Verlaine. Và đây là
mưa trên một cái dù của một nhà thơ Hoa kỳ, cái dù nhân cách hóa.
Umbrella
I press a
button,
and this black flower
with its warped pistil
broods over me
tears dripping from a dozen
silver stamens.
It catches water, this flower,
and sheds it,
consent to wilt in a closet
like some wrinkled mourner
between funerals.
(Duane Ackerson)
Tôi nhấn nút,
bông hoa màu đen
xòe ra, đài hoa liền cong lại
che phủ mái đầu tôi
nước nhễu xuống từ hàng chục nhị hoa
óng ánh bạc
Nó hứng nước, bông hoa này
và hắt tung tóe ra
rồi tàn úa trong một góc nhà
như một người goá phụ
ở giữa những lần đám tang.
Hoa màu đen thì đối lập. Đối lập thế nào? Nó nở trong mưa và
héo úa khi trời nắng đẹp. Đối lập giữa những điều gì? Giữa sự sống và cái chết,
nắng và mưa, vui buồn, được mất. Giữa thống hận và tình yêu.
9. Các thể thơ
Thể thơ là hình thức, tức là thể. Thể được quyết định bởi chức
năng, ngược lại, chức năng cũng được quyết định bởi thể.
Thể thơ là vấn đề lớn trong nghệ thuật. Đó là những quy ước
về việc sắp xếp các chữ, các vần, số âm tiết, sự hợp vần giữa các chữ và các
câu, sự lặp lại trong một khổ thơ, sự lặp lại giữa các khổ thơ. Ba loại thơ căn
bản là thơ trữ tình, thơ tự sự và thơ có tính kịch hay kịch thơ. Có những loại
thơ ít phổ biến hơn hoặc mới mẻ hơn như trường thi hay trường ca, thơ xuôi hay
thơ văn xuôi.
Trong khi chữ, phép so sánh và ẩn dụ, phép nhân cách hóa,
câu thơ, làm nên những phần tử cấu trúc căn bản của một bài thơ, thì thể thơ,
như lục bát, đường luật, năm chữ, bảy chữ, thơ tự do, tạo ra một cấu trúc cao
hơn, toàn thể. Bất cứ một thể thơ nào cũng dựa trên sự lập lại. Sự lập lại dễ
thấy, nhưng không hạn chế, ở sự hiệp vần, ví dụ trong thể lục bát là giữa câu
sáu và câu tám, trong thất ngôn đường luật là giữa các câu, một, hai, bốn, sáu,
tám, vân vân.
Mặc dù thơ ca có bản chất sáng tạo, việc lập lại trong thơ chứng
tỏ điểm quan trọng khác. Cũng như bất cứ nghệ thuật nào, thơ có tính quy ước.
Quy ước là gì? Đó là sự chờ đợi, đoán định của người đọc hay người thưởng thức.
Tôi xin lấy một ví dụ dễ hiểu. Có những vở kịch hay cuốn phim chúng ta xem đi
xem lại nhiều lần. Điều đó chứng tỏ việc muốn biết hồi sau kết cục ra sao của một
câu chuyện tình hay phiêu lưu mạo hiểm chỉ là một trong các nhu cầu. Nhu cầu
khác là người đọc muốn thưởng thức lời văn hay sự diễn xuất. Trong sự thưởng thức
ấy, có sự chờ đợi. Như vậy, chờ đợi là một nhu cầu thẩm mỹ. Đó là sự lập lại, với
các biến đổi hợp lý.
Hãy tưởng tượng ra em
Ở một căn nhà lạ
Mình em một ngôn ngữ
Mình em một màu da
Mình em một màu mắt
Mình em một lệ nhòa
(Trần Mộng Tú)
Về mặt thông tin những chữ mình em lập lại
không đem lại điều gì mới, nhưng chúng ta vẫn muốn chúng lập lại, vì đó là sự
xúc động lập lại.
Người đọc tiếng Việt cần nắm vững các thể thơ truyền thống
và hiện đại của Việt Nam, nhưng cũng cần làm quen với các thể thơ của các nước
khác, văn hóa khác. Thơ tiếng Việt hay Việt hóa: lục bát, song thất lục bát,
thơ Đường, thơ bảy chữ, tứ tuyệt bảy chữ, tứ tuyệt năm chữ, thơ tự do, và gần
đây, thơ tân hình thức.
Thơ nước ngoài: thể sonnet (xô nê), thơ haiku (hài cú), thể
ballade, thể rondeau, thể sestina, thể villanelle, thể ghazal.
Thơ haiku thường gồm ba câu, dựa trên âm tiết
(syllables): năm, bảy, năm. Hiện nay được học sinh các trường trung học châu Âu
và Bắc Mỹ sáng tác nhiều.
Yare utsu na
(5)
Hae ga te o
suru (7)
Ashi o suru
(5)
(Kobayashi Issa)
Oh don’t swat
The fly rubs hands
Rubs feet
(bản tiếng Anh của William Higginson)
Ô, đừng đập nó chứ
Con ruồi đang gãi hai bàn tay
Đang gãi hai bàn chân
Hay đang cầu nguyện? Thơ hài cú là nghệ thuật bắt được một
giây lát, biến nó thành vĩnh hằng.
Thể sonnet phổ biến trong tiếng Ý, tiếng
Pháp, Anh, Nga và nhiều ngôn ngữ khác từ thế kỷ 16, có lẽ cùng với với
Shakespeare. Thoạt tiên đây là loại thơ tình hoặc có tính chất tôn giáo. Các
nhà thơ nhiều nước hiện nay vẫn còn sáng tác theo lối này, nhưng mở rộng đề tài
sang các lãnh vực khác. Bài thơ gồm mười bốn câu. Trong truyền thống châu Âu,
bài thơ chia làm hai khổ, khổ đầu gồm tám câu (octave), khổ thứ hai sáu câu
(sestet). Mỗi dân tộc có thể có một truyền thống sonnet khác nhau tùy theo đặc
điểm ngôn ngữ, như tiếng Anh khác với tiếng Ý, tiếng Pháp. Nếu có dịp so sánh bạn
sẽ thấy trong tiếng Anh, việc hiệp vần không quan trọng bằng trong một số ngôn
ngữ khác. (**)
Các nhà thơ Ả Rập dùng thể thơ ghazal: thể thơ
này xuất phát từ Nam Á vào thế kỷ XII, sau đó được xiển dương bởi hai nhà thơ lớn,
Rumi và Hafiz. Hiện nay cũng rất phổ biến ở châu Âu và Bắc Mỹ, cùng với làn
sóng di dân từ vùng Vịnh và các nước Ả rập (***).
Thơ Tân hình thức là thể thơ mới, phát sinh ở Mỹ cuối thế kỷ
20, được giới thiệu vào thơ Việt Nam ở hải ngoại và trong nước mấy chục năm trở
lại đây, ngày càng trở nên quen thuộc. Những đặc điểm của thể thơ này là kỹ thuật
vắt dòng, lối kể chuyện, vần điệu, số chữ của câu gần như không đổi trong cùng
một bài thơ, tính đối thoại và hài hước.
Bạn nên làm quen với sự khác biệt giữa các thể thơ và các biến
đổi bên trong mỗi thể thơ để ngày càng có cái nhìn rộng rãi hơn đối với mọi
thay đổi táo bạo trong nghệ thuật. Ngày nay, thể thơ tự do được dùng quá phổ biến
đến mức gây ra những hậu quả sau đây:
– Nhiều nhà thơ không biết làm thơ có vần. Tức là tự lược bỏ
đi các phương tiện của mình.
– Nhiều độc giả không quen với thơ tự do, nên quay lưng lại
với thơ nói chung.
Thơ tự do không phải là một kiểu thơ tự nhiên, trời sinh ra
vốn có, mà là một chọn lựa có ý thức của nhà thơ. Nói cách khác, tôi cho rằng
trong những trường hợp mà ý tưởng hay hình ảnh phá vỡ các hạn chế của câu thơ,
không cho phép vần điệu trói buộc được mình, thì thể thơ tự do tự nhiên phát
sinh. Có những quy ước riêng được xác định bởi chính tác giả.
Toàn bài xoay quanh một ẩn dụ:
(Hoàng Hưng)
Hai câu cuối rất đặc biệt.
Và đây là lối nói thẳm sâu mà hờ hững của Robert Creeley:
What did you say to me
that I had not heard.
She said she saw
a small bird.
Where was it.
In a tree.
Ah, he said, I thought
you spoke to me.
Em nói gì với anh
mà anh nghe không rõ.
Cô bảo cô nhìn thấy
một con chim nhỏ.
Nó ở đâu vậy.
Ở trên cây.
À, anh bảo, vậy mà anh tưởng
em nói với anh đây
Mỗi khi có dịp đọc bài này, The Bird, tôi đều mỉm cười, ngẫm
nghĩ, đôi khi thấy thương tiếc bồi hồi.
10. Câu thơ
Thơ là âm nhạc của ngôn ngữ được tổ chức thành câu. Không kể
ngoại lệ của thơ xuôi, cấu trúc một bài thơ bao giờ cũng xoay quanh câu thơ.
Như vậy chức năng của một câu trước hết là chức năng về âm
điệu. Chỉ bằng cách lắng nghe từng câu trong bài thơ, lắng nghe toàn bài thơ, bạn
mới hiểu tác dụng của một câu, tại sao lúc này thì bảy chữ, lúc kia năm chữ vân
vân.
Nhưng thế nào là một câu thơ?
Có nhiều cách trả lời. Đối với những thể thơ cố định, có luật,
số chữ trong một câu được quy định sẵn. Nhưng thơ tự do không có sự quy định bó
buộc ấy. Có những thể cố định, nhưng tác giả phá đi, đưa vào cách tân lạ.
Các câu sáu chữ đi sau đoạn bốn chữ là một sáng tạo.
Thật ra sự bó buộc chỉ có tính hình thức. Khi bạn viết một
câu thơ, chính câu đầu tiên sẽ quyết định thể thơ của toàn bài. Chẳng hạn khi
Du Tử Lê viết:
Tôi là chim bói cá
Câu năm chữ với tính chất âm nhạc riêng của nó. Nhà thơ ấy
khó có thể viết một câu thứ hai sáu chữ, chẳng hạn:
Trên một cọc nhọn trăm năm
Nếu bạn cố tình dùng sáu chữ, dù chỉ một lần thôi, bạn đã bẻ
ngoặt dòng chảy.
Tình hình khó hơn đối với thơ tự do, không ràng buộc số chữ.
Chẳng hạn:
Một tên trộm bẻ khóa vào nhà
Và thản nhiên đi ra
Câu ấy thật ra có thể và nên được viết như sau:
Một tên trộm bẻ khóa vào nhà và thản nhiên đi ra
Như thế sự ngắt dòng của một câu thơ phải có lý do nội
tại. Nếu không có lý do cụ thể nào, câu thơ cần phải viết một mạch.
Các câu được quyết định phần lớn bởi ý định của chúng, nhưng
cũng còn bởi âm điệu, sự hiệp vần. Sự ngắt dòng trong thơ là khái niệm quan trọng.
Sau đây là những kỹ thuật ngắt dòng khác nhau:
-Câu thơ trùng với câu văn phạm, tròn nghĩa. Ví dụ:
Em muốn thơ em hoàn toàn vui
(Thu Hồng)
– Nhiều hơn một câu:
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
-Câu thơ không trùng với câu văn phạm, khi được ngắt dòng, mạch
văn chính vẫn còn kế tục vào câu sau đó. Ví dụ:
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
(T.T. Kh)
Sự ngắt câu thơ không theo văn phạm tạo ra một thứ tác dụng
khác đặc biệt chỉ có trong thơ. Đọc kỹ và đọc lớn tiếng một câu thơ được ngắt
dòng ở giữa chừng, và vắt qua câu sau, còn gọi là sự vắt dòng, bạn sẽ thấy tác
dụng về âm điệu. Sự ngắt dòng không theo luật văn phạm thường có hai mục đích:
hiệu ứng về nghe và hiệu ứng về nhìn. Sự ngắt dòng nếu được chú ý sẽ giúp người
đọc có nhiều cách đọc khác nhau đối với cùng một
bài thơ. Trong các ngôn ngữ đa âm, sự ngắt câu còn nhiều biến dạng phong phú
khác, mà ngôn ngữ đơn âm của Việt Nam không làm được.
Các nhạc sĩ khi phổ nhạc cho các bài thơ, tôi tin rằng, dù ý
thức hay không, cũng đều thực hiện thao tác căn bản này.
Anh còn nợ em
Dòng xưa bến cũ
Dòng xưa bến cũ
Con sông êm đềm
Anh còn nợ em
Chim về núi nhạn
Trời mờ mưa đêm
Trời mờ mưa đêm
Nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc bài thơ của thi sĩ Phan Anh Tài,
đã dùng thao tác đọc các câu thơ khác nhau, lặp lại, khi tạo ra lời cho ca khúc
nổi tiếng của ông. Trong nguyên tác, các bài thơ ít khi có sự lặp lại đó.
Không mấy ai viết được những câu thơ đẹp hoang dại như Tô
Thùy Yên:
Trong một ngôn ngữ mới, đó còn là cái đẹp cân đối và cổ điển.
Nhưng Hoàng Cầm viết những câu không c ân đ ối, mà xô lệch:
Ba câu này có thể xem là hai câu thơ bảy chữ:
Bạn có thấy chúng khác nhau không?
Rất khác nhau.
Chúng ta sẽ nói thêm về điều này trong một dịp khác. Hiện
nay, nhiều người có khuynh hướng viết những câu dài, nối qua nhiều hàng, kết hợp
với kỹ thuật vắt dòng, khái niệm câu thơ được mở rộng. Đối với trường hợp này,
cách ngắt câu dừng lại sau mỗi câu thơ có thể sử dụng hơi thở như một chuẩn mực.
Bạn có thể tưởng tượng một người thổi kèn hay sử dụng các nhạc cụ hơi, nhận thấy
cách trình diễn của họ gắn bó với hơi thở. Các câu thơ dài ngắn khác nhau,
nhưng bao giờ cũng biểu hiện một nhu cầu âm nhạc nội tại. Trong khi đó ở những
bài thơ kém, việc ngắt câu tùy tiện, những câu dài hay ngắn không căn cứ vào
các quy luật thống nhất.
Cũng cần biết rằng đối với loại thơ cụ thể, thơ thị giác,
câu dài ngắn tùy thuộc vào hiệu ứng của mắt nhìn. Sự sắp xếp các chữ trên trang
giấy, ví dụ theo hình của giọt mưa, cánh hoa, cái dù, là kiểu sắp xếp khác.
Như vậy các yếu tố tạo nên một câu thơ có thể có nhiều: ý
nghĩa, nhạc điệu, hình dáng. Một bài thơ không chỉ là phép tổng cộng của các chữ,
mà có một điều gì đó lớn hơn nữa, đằng sau các nghĩa ấy, cũng đang hoạt động.
Câu thơ không phải là một hiện tượng huyền bí, tự thân. Câu
thơ chỉ tồn tại với ý nghĩa đầy đủ trong mối quan hệ với các câu khác và các yếu
tố khác như cú pháp, hình ảnh, âm điệu của toàn bài.
11. Vai trò của độc giả
Ngày nay, một phần nhờ lý thuyết tiếp nhận, người ta biết rằng
giá trị của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào cách tiếp nhận của người thưởng
thức.
Đọc thơ, bạn cần dành thời gian rèn luyện. Chọn cách tìm hiểu
một tác phẩm tùy ở sở học, ý thích riêng, thói quen, nhưng có những phương pháp
dễ hiểu hơn phương pháp khác. Đến một lúc, đã quen, bạn có cảm giác như khi đọc
một bài thơ, tác giả đang trò chuyện, tâm sự với bạn. Những gợi ý cho một bài
thơ, cũng như những dấu vết trên đường đi bao giờ cũng nằm sẵn đâu đó. Nếu bạn
có lần nào được biết ý kiến của một người khác, đọc cùng một bài thơ mà bạn yêu
thích, bạn sẽ ngạc nhiên thấy người đó nghĩ khác bạn ít nhất trên ba điều:
– Về ý nghĩa của bài thơ
– Về cái hay của bài thơ
– Về điều thích nhất
Bất cứ một cuộc thảo luận nào đều cần dựa vào các yếu tố:
– Xuất xứ của bài thơ, hoàn cảnh ra đời, một ít tiểu sử của
tác giả, tối thiểu cũng là áng chừng năm bài thơ ấy được viết (ví dụ một bài
thơ được viết những năm 60, những bài thơ được viết thời tiền chiến trước 1945)
– Văn bản tác phẩm. Đây là yếu tố quan trọng nhất.
– Dư luận khen chê, nhận định của giới phê bình.
Nhiều người cho rằng một bài thơ là tác phẩm hoàn tất, như một
cái máy, đúng hơn là cỗ máy hoàn chỉnh, tự vận động với quy luật của nó. Nhiều
người khác cho bài thơ chỉ được đặt trong bối cảnh, văn cảnh, như xã hội, lịch
sử, văn hóa. Không có môi trường bên ngoài, bài thơ mất hết ý nghĩa của nó.
Thơ có thể được hiểu, cắt nghĩa, yêu mến, mà người đọc không
cần phải có kiến thức về tiểu sử tác giả, hoàn cảnh sáng tác, các yếu tố liên
văn bản. Cách đọc thơ hay nhất là đọc một cách hồn nhiên, đi thẳng vào, ít nhất
là trong lần đọc đầu tiên. Tuy nhiên có những bài thơ cần kiến thức bổ sung. Ví
dụ bài thơ sau đây của Langston Hughes:
Harlem
What happens to a dream deferred?
Does it dry up
like a raisin in the sun?
Or fester like a sore-
and then run?
Does it stink like rotten meat?
Or crust and sugar over-
like a syrup sweet?
Điều gì xảy ra cho giấc mơ bị hoãn lại?
Liệu nó có khô đi
Như trái nho phơi dưới mặt trời?
Hay mưng mủ như vết thương-
Và chảy nước?
Liệu nó có hôi rình như thịt cá để ươn?
Hay khô queo, phủ đường
Lên nước lịm ngọt ngào?
Bạn không thể hiểu một cách sâu sắc, nếu không biết rằng Hughes
là nhà thơ da đen, Harlem ở New York, và hoàn cảnh của người da đen đầu thế kỷ
trước, khốn khổ. Mặt khác, để hiểu sự khác nhau giữa thơ cổ điển và thơ đương đại,
bạn so sánh chúng với câu thơ sau của Trần Huyền Trân:
Khóc nhau ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ
Đó là tiếng động của tâm hồn thanh cao bị vây khổn, khi thì
trong cảnh mất nước, trước đây, khi thì giữa cảnh trí thức nô lệ, sau này.
Đối với cả những người có kiến thức về hoàn cảnh, xuất xứ, một
bài thơ cũng có thể mang ý nghĩa mới nằm ngoài sự tiên liệu của người ấy. Vì
văn bản chứa khả năng thay đổi về ý nghĩa và thẩm mỹ. Bạn cần huấn luyện cho
mình khả năng lượng giá, khả năng này dựa trên sự phân biệt các đẳng cấp. Không
có đẳng cấp trong thơ thì không có tiến bộ. Nguyễn Trọng Tạo có bài thơ "Gởi
người đọc" nói về việc phân biệt khó khăn này giữa thơ hay và thơ dở, rất
dí dỏm:
Không phải ai cũng hiểu thơ ca
Cũng như tôi không hiểu xe máy
Chiếc xe cũ người ta sơn lại
Tiếng máy nghe cũng êm
Thế là tôi đếm tiền
Công việc đọc thơ là hiểu biết, cảm thông, ghi nhận, chia sẻ.
Đối với nhiều người, sự sáng sủa, rõ nghĩa, làm họ an tâm hơn mờ ảo. Hầu hết
người đọc cảm thấy nhẹ nhõm khi đọc một bài thơ rõ nghĩa. Nhu cầu hiểu trọn vẹn,
nắm hết các ý nghĩa, ai nhắc đến có thể tóm tắt trong một câu, nhu cầu ấy là có
thật. Một bài thơ có thể rõ nghĩa ngay trong một lần đọc, thường do mục đích của
các nhiệm vụ tuyên truyền, rao giảng.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Cụ Đồ Chiểu viết những câu thơ như thế với mục đích dễ hiểu
và dễ nhớ. Người ta không có gì để suy nghĩ hay bàn cãi về những câu như thế cả,
trừ khi về nội dung của nó, chẳng hạn, trung hiếu nghĩa là gì,
trung với ai, hiếu với ai, nghĩa của chữ tiết hạnh ngày nay
thay đổi ra sao, vân vân.
Nhưng một bài thơ có nghĩa phức tạp hơn, huyền ảo hơn, mang
lại những cách cắt nghĩa khác; sự khác nhau này làm nên tính phân vân, hoài
nghi của văn bản. Mỗi cây mai, cây đào, tulip, mẫu đơn, khi mùa xuân đến, chắc
chắn sẽ ra hoa như những năm trước: hoa mai vàng năm cánh, hoa mẫu đơn nhiều
cánh, nhiều màu, nhưng chúng lại khác năm trước, mỗi bông đều khác nhau. Một
bài thơ hay thường có hai tính chất ấy, vừa giữ được
những tính căn bản, ổn định, những đặc trưng thẩm mỹ của cái đẹp
xưa nay đã được công nhận, sự mới mẻ, ngạc nhiên, sự say đắm.
Thật ra sự say đắm cần cả hai: ổn định và mới mẻ.
Ngày nay nếu ngẫu nhiên mở một trang, báo giấy hay báo mạng,
khả năng bạn tìm được một bài thơ hay là bao nhiêu phần trăm?
Tôi cho rằng đó là con số rất nhỏ. Vì vậy công việc đầu tiên
của người đọc thơ là tìm cách loại cho bằng được các bài thơ kém ra khỏi danh
sách đọc của mình. Tất nhiên, bạn cần đến kinh nghiệm. Khi bạn bắt đầu xác định
được, ít nhất là đối với chính bạn, thế nào là một bài thơ hay hoặc làm bạn
thích, bạn sẽ tiếp tục đọc để mở rộng kinh nghiệm ấy. Những năm cuối bậc trung
học có thể là nơi gầy dựng hay chôn vùi vĩnh viễn lòng yêu văn chương của nhiều
người.
Một bài thơ thực sự không có ý định làm bạn rối trí. Tuy
nhiên nhiều người cho rằng thơ hiện đại, hay hậu hiện đại, khó đọc, khó hiểu.
Trong lời than phiền ấy, có một phần sự thật, nhưng không phải tất cả. Nhà thơ
và nhà phê bình nổi tiếng Randall Jarrell có nói rằng những người nào than phiền
thơ hiện đại là khó hiểu thật ra là những người không bao giờ đọc thơ.
Tôi không đồng ý. Ngay cả những người thích đọc thơ nhất vẫn
gặp những bài thơ khó hiểu. Có nhiều trường hợp:
– Đó là một bài thơ hay nhưng mới, người đọc và người phê
bình chưa tiếp cận được về phương pháp.
– Đó là một bài thơ viết đã lâu nhưng chữ dùng ngắn gọn,
không có nhiều gợi ý, ngôn ngữ gián đoạn không liên tục, có những câu thơ có điển
tích hoặc chỉ được hiểu trong các bối cảnh lịch sử nào đó.
– Và cuối cùng, rất hay gặp: một bài thơ dở.
Phân tâm học của Jung cho rằng trong bản thân mỗi người
chúng ta có hai cái tôi, cái tôi biểu hiện bên ngoài, như căn cước của mỗi người
trong xã hội, và cái tôi được giấu kín, bị chúng ta từ chối không chấp nhận, tồn
tại như cái bóng. Khái niệm cái tôi và cái bóng của nó có thể chỉ ra tác dụng của
thơ ca đối với con người. Cái tôi thứ hai, bị từ chối ấy, không những chỉ chứa
đầy bóng tối, sự cám dỗ, tội lỗi, mà còn chứa những tiềm năng lớn lao, năng khiếu,
sở thích, những sức mạnh tinh thần khác. Đọc thơ và làm thơ, bạn tình nguyện
mang những phần xúc cảm được giấu kín biểu hiện ra ngoài, bạn tập nói lên sự thật
hay tập lắng nghe sự thật và chia sẻ chúng.
12. Hãy để bài thơ thay đổi bạn
Một ngôn ngữ của xúc cảm làm người ta liên kết lại, một ngôn
ngữ của sự thật mang tới lòng tin. Những bài thơ thành công, cũng như tình yêu
đích thực, có khả năng mở những cánh cửa. Khi con người thất vọng, chán nản,
thơ ca làm dịu lại, nhưng không chỉ bằng niềm an ủi, nó còn mang lại sự liên tưởng,
gợi ý. Thơ làm giàu thời gian và thời gian chữa lành vết thương. Bài thơ xây đắp
mảnh đất mới trong xứ sở tâm hồn, gieo hạt giống mới, đi từ mùa màng đau khổ đến
mùa hy vọng. Thơ và âm nhạc thường buồn, nhưng đó không phải là nỗi buồn hư vô,
tuyệt vọng, mà là sự đánh thức.
In a play, the actors cry out
But in the poem the words
themselves cry out
(George Oppen)
Người nghệ sỹ khóc trong vở kịch
Nhưng chữ của thơ ca
Chính chúng phải khóc òa
Bạn dừng lại lâu ở câu thơ bạn thích. Không phải ngẫu nhiên
mà người xưa ngâm đi ngâm lại một hay hai câu nào đó. Trong một câu hay, có lực
hấp dẫn kéo bạn trở lại, giữ bạn trong căn phòng của nó, di chuyển trên hệ tọa
độ của nó. Một câu thơ hay làm một khoảnh khắc dừng lại.
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông
(Bích Khê)
Tôi thường đọc lại câu này. Khoảnh khắc đẹp. Bạn không muốn
qua nhanh, bạn muốn nó dừng lại. Thiên nhiên thơ mộng vì con người thơ mộng. Chủ
nghĩa lãng mạn, và sự nối dài qua chủ nghĩa tượng trưng, là người yêu của bầu
khí quyển ấy, nâng đỡ nó, làm giàu nó. Do hoàn cảnh lịch sử, người Việt đã từ bỏ
chủ nghĩa lãng mạn quá sớm, như một thai nhi chưa trưởng thành đã rời bụng mẹ.
Có lẽ không một nghệ thuật nào đòi hỏi người tiếp nhận mở hết
lòng như đối với thơ ca, tập cách nhìn ngôn ngữ như con đường đi tới đời sống mới
mẻ. Không những người viết mà cả người đọc cũng được tắm gội trong dòng sông đến
hai lần. Lần đầu như bản thân tồn tại, như lịch sử, lần thứ hai như quá trình
thơ ca.
You must become an ignorant man again
And see the sun again with an ignorant eye
And see it clearly in the idea of it
(Wallace Stevens)
Bạn phải trở thành một gã khờ
Và tập nhìn mặt trời với đôi mắt ngây thơ
Và nhìn nó rõ ràng trong quầng sáng ý tưởng về chính nó
Trong thơ tự do, nhà thơ cần viết một câu rõ ràng, viết cho
xong, và chỉ xuống dòng khi đã xong cái khoảnh khắc mà câu thơ ấy mang lại. Chiều
dài của một câu thơ tương tự như chiều dài của một câu nói, trong khi bạn thực
sự nói. Có người nói dài, có người nói ngắn, một phần tùy hơi thở của mình, sức
khỏe của mình, thói quen của mình. Nhưng đó phải là câu nói của bạn. Vì vậy một
câu thơ tự đầy đủ như một câu thơ, tức là một chi tiết toàn vẹn của tổng thể, một
phần của tổng thể, nhưng là một phần toàn vẹn.
Một bài thơ hay tự nó làm dễ cho người đọc. Một bài thơ
không thành công làm người đọc tìm kiếm vất vả đường vào. Một câu thơ là một
khoảnh khắc độc lập, đứng bên cạnh những khoảnh khắc khác, một dụng cụ độc lập
đứng bên cạnh những dụng cụ khác. Tín hiệu và phương tiện xây dựng nên một câu
thơ chính là sự ngắt dòng.
Nguyên tắc của ngắt dòng: khi nào câu nói của bạn cần
chỗ nghỉ hơi, câu nói ấy phải được ngắt ra làm đôi. Khi nào câu nói của
bạn là một câu liên tục, không có chỗ nào dừng lại, thì không nên dừng lại: bạn
không nên xuống dòng. Lòng yêu thích đối với một bài thơ bắt đầu bằng việc bạn
thú vị đối với câu thơ của nó.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Tự một mình đầy đủ là một con sông. Bạn đọc lên lần nữa,
nghĩ tới một dòng sông, mặt nước, buổi chiều mùa đông. Rồi nghĩ xa hơn nữa, bạn
đang ở đâu đó, một mình. Rồi bạn nghe tin về một người thân.
Người thân nào vậy?
Thơ đích thực, cũng như tình yêu đích thực, mở ra, đi vào,
tìm lại, thay đổi.
Thơ có thể thương thảo với số phận, đẩy lùi biên giới của
nó, như ngọn đèn đẩy lùi bóng đêm. Thơ có thể làm bạn khóc nhiều hơn nhưng
không phải để làm bạn ngã lòng. Một bài thơ dở không mang lại an ủi, can đảm.
Giá trị thẩm mỹ của bài thơ và sự thật không phải khi nào cũng đi đôi với nhau,
đặc biệt đối với thơ thế sự và thơ chính trị. Một bài thơ không đúng sự thật vẫn
có sức hấp dẫn đối với một số người, với nhiều người, nhưng trước sự thật,
không thể kéo dài sự lừa dối của nó mãi.
Bất kỳ một người nào với tâm trí bình thường cũng làm chủ được
tiếng mẹ đẻ, và biết sử dụng chúng hàng ngày một cách hiệu lực, trong việc học
hành, buôn bán làm ăn, ra lệnh, dạy dỗ, châm biếm, đả kích, thuyết phục, khiển
trách, tỏ tình. Hầu hết mọi người khi đã qua giai đoạn trung học, đều quên đi một
thứ ngôn ngữ khác, họ đã từng tiếp cận một lần, nhưng không bao giờ
quay trở lại. Đó là ngôn ngữ thơ ca. Chỉ cần một lần bạn lắng nghe bài thơ, dừng
lại lâu hơn trong căn phòng của ngôn ngữ, chỉ cần một cuộc đối thoại, bạn lại lập
tức trở về căn nhà cũ, mái ngói âm dương, góc phố nơi bạn lần đầu thấy hoa vông
vang, nơi sâu thẳm nhất của một người.
Trong khi bạn học cách phân biệt một bài thơ thật dở và một
bài thơ thật hay, cũng như học cách phân biệt một người thật tốt và bao dung với
một người thật xấu và đố kỵ, hẹp hòi, bất kể quá khứ nào, lập trường chính trị
của họ ra sao, và các thứ lưng chừng giữa hai đối cực ấy, vốn nhiều hơn vì bao
giờ mà chẳng vậy, bạn làm thăng tiến các giá trị tinh thần và văn hóa không những
của bạn mà còn của cộng đồng mà bạn thuộc về.
Bây giờ tôi muốn nói thêm đôi lời về sự giản dị. Của ngôn ngữ
thơ và của đời sống. Hãy tưởng tượng một người trẻ, thay vì cuối tuần la cà nhậu
nhẹt hay ngồi hàng giờ chơi game, hay dán mắt vào truyền hình xem chương trình
hoa hậu, hãy tưởng tượng người ấy thỉnh thoảng đi dự một buổi đọc thơ đâu đó,
và khi ra về, lặng lẽ nhớ đến một đôi câu như thế này, của Charlotte Mew:
Seventeen years ago you said
Something that sounded like Good- bye
And everybody thinks that you are dead
But I.
Mười bảy năm trước, bạn từng nói
Một điều gì như trối trăng từ biệt
Rồi ai cũng nghĩ: thế là bạn sắp chết
Trừ tôi ra.
Câu cuối trong nguyên tác chỉ có hai chữ, ngắn và hiệp vần
(Good bye và I). Đó là khi bạn nhìn thấy nụ cười mỉm bất ngờ, dí dỏm, khả năng
quan sát, tính phê phán. Còn gì nữa? Lòng yêu đời trong suốt như pha lê.
Nguyễn Đức Tùng
a. Các sách tham khảo:
Văn 6, Cảm Hứng Nghệ Thuật, Nhóm Cánh Buồm, nhiều tác giả,
NXB Tri Thức, 2015
Ẩn Dụ, Cuộc Phiêu Lưu Của Chữ, Trần Hữu Thục, NXB Người Việt,
2015
Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân, NXB Văn Học tái bản,
2014
Thơ Đến Từ Đâu, Nguyễn Đức Tùng, nhiều tác giả, NXB Lao động,
2009
30 Tác Giả Văn Chương, Vũ Quần Phương, NXB Giáo dục, 2009
Une Anthologie de
la Poesie Amoureuse, Jean Orizet, NXB Bartillat, 2007
Du Tử Lê 50 Năm,
nhiều tác giả, Hội Văn Hóa Khoa Học Việt Nam, 2007
The Oxford Book Of American Poetry, David Lehman, NXB
Oxford, 2006
The Art of Reading Poetry, Harold Bloom, NXB Perennial, 2004
Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Nguyễn Bùi Vợi, NXB Giáo Dục, 2004
How poetry works, Phil Roberts, NXB Penguin, 2000
Mắt Thơ, Đỗ Lai Thúy, NXB Văn hóa Thông tin, 2000
The compact Bedford introduction to literature, Michael
Myer, NXB Bedford, 2000
A field guide to contemporary poetry and poetics, Stuart
Friebert, NXB Oberlin College, 1997
20th Century Poetry & Poetics, Gary Geddes, NXB Oxford,
1996
Thơ Tình, tuyển tập, Thái Doãn Hiểu và Hoàng Liên biên soạn,
NXB Trẻ, 1994
Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam 1945-1985, Thi Vũ, NXB Quê Mẹ,
1993
Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ Việt Nam, Nguyễn Hưng Quốc, NXB Quê
Mẹ, 1988
b. Trích dẫn:
(*) Theo tài liệu riêng của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Phan Cảnh.
(**) Các thể thơ nước ngoài, chưa được Việt hoá, hầu hết chỉ
có thể nghiên cứu trong ngôn ngữ gốc.
Sự hiệp vần cũng thay đổi tùy theo từng tác giả, từng truyền
thống khác nhau. Một bài thơ tiếng Pháp của Pierre Corneille, mở đầu:
Câu hai và câu ba
vần với nhau, câu một và câu bốn vần với nhau.
Sonnet trong tiếng
Anh, như trường hợp Shakespeare, có thể có vần kiểu khác. Đoạn mở đầu:
Câu một và ba vần với nhau, câu hai và bốn vần với nhau.
(***)
Trong bài "Hôn nhân dị chủng", nhà thơ công huân
Hoa kỳ Natasha Trethewey dùng thể thơ ghazal để kể một câu
chuyện.
Miscegenation