沙巴軍曹: SA-BA QUÂN TÀO
三毛: Tam Mao
(1943- 1991, nữ văn sĩ Đài Loan)
Lời Người Dịch: Bối cảnh địa lý và lịch sử của bài
văn này xin xem chú thích (1); về tác giả Tam Mao xin xem chú thích (2) trong truyện
Lạc đà Khóc đã được trước đây. Quý độc giả nên đọc chúng trước khi đọc chính
bài văn này.
Tác giả dùng dấu phẩy nhiều hơn dấu chấm, có lẽ tác giả
chịu ảnh hưởng lối hành văn ”hành vân, lưu thuỷ/mây bay, nước chảy” trong văn
chương Trung Hoa xưa. Các tác giả hiện đại Trung Hoa cũng hay chấm câu kiểu
này, khác người Việt chịu ảnh hưởng lối chấm câu cứng cỏi, rạch ròi của Pháp.
Người dịch giữ lại lối chấm câu này của tác giả.
Các nhân vật trong bài văn này, hiểu ngầm là họ nói tiếng
Tây Ban Nha khi nói chuyện với tác giả Tam Mao, còn ngôn ngữ nói thường ngày với
nhau của dân ở đó, chính là Tiếng Ả rập Hassaniya.
****
Vào một buổi tối mùa hè, tôi và anh José ra khỏi nhà để đi dạo
mát, sau một ngày nóng bức, sa mạc thật mát mẻ, khoan khoái và dễ chịu.
Vào thời điểm này, những người láng giềng Sahrawi đang đưa con cái ra ăn ngoài trời, và trời cũng đã khuya lắm rồi.
Khi đến gần nghĩa trang bên ngoài thị trấn, chúng tôi nhìn
thấy một nhóm choai choai người Sahrawi đang cùng nhau nhìn cái gì đó dưới ánh
trăng, khi vừa đi vượt qua tụi nó, nhìn ngoái lại, chúng tôi thấy ra một
người Tây Ban Nha đang nằm dài trên mặt đất, trông như đã chết, nhưng sắc mặt
còn rất hồng hào, râu rậm rạp và chân đeo giày, nhìn bộ quân phục là biết ông
ta thuộc Quân đoàn Sa mạc, nhưng trên người không có phù hiệu để biết ông ta cấp
bậc gì.
Ông ta có lẽ đã nằm ở đó rất lâu, và nhóm người vây quanh
ông ta, nói tiếng Ả Rập rất to, bước lại gần, cười cợt, nhổ nước miếng vào ông,
lột đôi giày của ông, đạp lên tay ông, trong khi một thằng Sharawi khác đội chiếc
mũ lính mà nó lột khỏi đầu ông ta, làm trò hề một người say rượu. Trước cảnh đó
người lính chẳng kháng cự lại, tụi Sahrawi cứ giỡn mặt, làm tới.
“Anh José, anh chạy nhanh về nhà lấy xe lái tới đây!” Tôi
thì thào với anh José, rồi lo lắng nhìn quanh xem có một người lính hoặc một
người thường dân Tây Ban Nha nào đó đi qua đây không, nhưng rồi chẳng có ai cả.
Trong khi anh José chạy về nhà lấy xe lái tới, tôi cứ nhìn
chòng chọc vào khẩu súng lục treo trên thắt lưng của người lính, nếu ai đó gỡ lấy
súng của ông ta, tôi sẵn sàng hét lên, nhưng nghĩ là mình hét thì hét nhưng
cũng sẽ chỉ bó tay bất lực.
Những người trẻ tuổi ở Tây Sahara đã thành lập "Mặt trận
Nhân dân Giải phóng Polisario", có trụ sở chính ở nước láng giềng Algeria,
và hầu như mọi người trẻ tuổi của thị trấn đều hướng về những người trẻ tuổi
này, mối liên hệ của người Tây Ban Nha đối với người Sahrawi đã vốn dĩ rất căng
thẳng, và đối lại, Quân đoàn Sa mạc thù ghét thậm tệ dân địa phương.
Anh José phóng xe như bay đến, hai chúng tôi đẩy tụi ba trợn
ra và kéo người say lên xe. Ông ta to cao và tráng kiện, không dễ dàng gì mà vực
ông ta lên xe được, chúng tôi toàn thân toát mồ hôi đầm đìa mới vực ông ta vào
được ghế sau, đóng cửa xe, chẳng nói năng gì, từ từ lái xe ra khỏi đám choai
choai, và tụi nó cứ đập đập rầm rầm lên mái xe.
Khi đến gần cổng của Quân đoàn Sa mạc, mà anh José vẫn phóng
xe như bay, và doanh trại tứ phương tám hướng thanh vắng như tử địa.
"Anh José, anh cứ chớp đèn, bấm còi, chúng ta không biết
mật khẩu, dễ bị hiểu lầm, anh đậu xe dang ra một chút.”
Xe của anh José dừng lại cách xa mấy người lính canh, chúng
tôi mở ngay cửa xe, bước xuống và hét lên bằng tiếng Tây Ban Nha: "Chúng
tôi đưa người say rượu đến cho đồn, các ông hãy đến mà xem!"
Hai tên lính canh chạy tới, súng lên đạn lách cách, chĩa vào
ngực chúng tôi, chúng tôi không nhúc nhích, chỉ vào bên trong xe.
Hai anh lính gác nhìn vào trong xe, đương nhiên là họ biết
nhau, lập tức họ trèo lên xe và khiêng anh lính say xuống, và nói: "Lại
cái thằng cha này!"
Lúc này, đèn rọi từ trên tường cao quét vào chúng tôi, tôi sợ
quá, chui ngay vào xe.
Khi anh José lái xe đi, hai lính canh kính cẩn chào chúng
tôi với kiểu chào nhà binh, và nói: "Cảm ơn người đồng hương!"
Trên đường về nỗi sợ hãi vẫn cứ đeo đẳng, lần đầu tiên trong
đời bị người khác chĩa súng sát người như vậy, dù là quân ta đi nữa tôi vẫn rất
kinh hoàng.
Trong nhiều ngày, tôi cứ nghĩ về đồn lính được canh gác
nghiêm ngặt vào ban đêm và về người lính say như chết đó.
Chẳng bao lâu sau, đồng nghiệp của anh José đến chơi, để tỏ
lòng hiếu khách, tôi đã rót mời họ uống một bình sữa đá lớn.
Mấy người này nhìn thấy sữa bò có đá, uống một hơi hết cả
bình sữa, tôi vội vàng đi vào bếp mở thêm hai hộp nữa.
“Chị Tam Mao chúng tôi uống hết sữa, còn hai anh chị thì sao?”
Hai người buồn buồn nhìn xuống ly sữa và có vẻ ngượng ngùng, nhưng rồi họ cũng
uống cạn hết sữa.
"Cứ thoải mái mà uống! Không phải ngày nào cũng có sữa
mà uống như thế!”
Đồ ăn đồ uống là chủ đề mà mọi người sống trong sa mạc đều
quan tâm, chính người được chiêu đãi sẽ không hoàn toàn hài lòng nếu không hỏi
đượcchủ nhà đồ ăn đồ uống ngon, mà họ được mời, từ đâu mà có.
Khi đồng nghiệp của anh José uống hết mấy hộp sữa tươi của
tôi vào chiều hôm đó, mà vẫn thấy tôi mặt tỉnh bơ, họ bèn hỏi tôi mua chúng ở
đâu.
"À, tôi có đầu
mối." Tôi khoái chí khoe.
"Làm ơn cho
chúng tôi biết đầu mối ấy ở đâu!"
"À, các anh
không mua được, các anh cần uống thì cứ đến đây!"
"Nhưng mà
chúng tôi muốn có thật nhiều sữa, chị Tam Mao, chị hãy nói cho chúng tôi tôi biết
chị mua chúng ở đâu!"
"Tôi đã mua
chúng ở trong cửa hàng Quân tiếp vụ thuộc Quân đoàn Sa mạc."
"Cửa hàng
Quân tiếp vụ trong trại lính? Đàn bà như chị mà một mình đi mua hàng trong trại
lính được à?" Cả hai anh nói mà như hét, như những anh ngố.
“Chẳng lẽ các amh
không biết vợ con quân nhân cũng mua được hàng hoá ở đó? Nếu họ mua được, tất
nhiên tôi cũng mua được.”
“Nhưng chị đâu có
phải là vợ lính? Chị là thường dân thôi mà!”
“Thường dân ở giữa
sa mạc khác với trong thường dân khác với dân thị thành, nhưng quân với dân sống
giữa sa mạc không có gì khác nhau.” Tôi cười nói một cách vui vẻ .
"Lính tráng
họ có đối xử đàng hoàng với chị không?"
"Rất lịch sự,
tốt hơn nhiều so với dân thường trong thị trấn."
"Thế thì nhờ
chị mua sữa giùm chúng tôi, nhưng như thế có bất tiệncho chị không?”
"Đâu có gì
đâu! Ngày mai, tôi sẽ đặt hàng cho."
Ngày hôm sau, anh
José đi làm về và đưa cho tôi một danh sách sữa cần mua, danh sách liệt kê tên
của tám anh chàng độc thân, mỗi chàng ước mong tôi sẽ cung cấp cho họ 10 hộp sữa
mỗi tuần, tổng cộng là 80 hộp.
Tôi cầm lấy danh
sách và cắn chặt môi, đã bốc đồng lỡ miệng, 80 hộp sữa, và tôi phải đi vào trại
lính mà mua, thiệt là dở khóc dở cười.
Bị kẹt vào tình cảnh
này, tôi thà muối mặt một lần, chịu xấu chịu hổ mà mua một lúc 80 hộp, rồi
không bao giờ chường mặt ra nữa, còn hơn mua 10 hộp một ngày.
Ngày hôm sau, tôi
đến cửa hàng Quân tiếp vụ mua một thùng lớn 10 hộp sữa tươi, nhờ người mang đến
để một góc, xoay người chạy vào, mua thêm một thùng khác, rồi lại khuân vào
trong góc, một lúc sau, lại vào mua, sau bốn lần đi tới đi lui như gà mắc đẻ,
anh lính đứng ở quầy tính tiền đâm ra chóng cả mặt.
“Chị Tam Mao, chị
sẽ phải đi tới đi lui như thế này bao nhiêu lần nữa?"
"Bốn lần nữa,
anh làm ơn kiên nhẫn giùm tôi."
"Tại sao chị
không mua liền một lần? Lần nào thấy chị cũng mua sữa cả mà!”
“Mua luôn một lần
thì không đúng quy định, vì mua nhiều quá!” Tôi lúng túng, ngại ngùng trả lời.
"Không sao
đâu, bây giờ tôi sẽ cung cấp cho chị đủ số sữa chị cần, mà sao chị lại phải mua
nhiều sữa trong một lần như vậy?”
Khi tôi chất hết
8 thùng sữa trong góc, định gọi taxi thì một chiếc xe jeeptrờ tới
và dừng ngay bên cạnh tôi, tôi giật mình nhìn lên, giật thoắt người, người lính
ngồi trong xe chẳng lẽ không phải là gã say mà chúng tôi đã chở về doanh trại?
Người đàn ông này
cao lớn, cường tráng, quân phục rất vừa vặn, vì có râu rậm che cả mặt, nên
không thể biết được ông ta già hay trẻ, cứ lấy mắt mà nhìn, thì thấy ông ta có
cái khí phách cao ngạo sao đó, rồi còn có cái nhìn nhíu nhíu đăm đăm thiệt khó
ưa, cúc áo sơ mi trên ngực mở cho đến cúc thứ ba, tóc đầu đinh, và đầu đội một
chiếc mũ beret màu xanh lá cây có gắn cấp hiệu... trung sĩ.
Bởi vì đêm đó
không thể nhìn rõ ông ta, nên bây giờ tôi cố ý nhìn lên nhìn xuống, nhìn ngang,
nhìn dọc ông ta thật kỹ.
Không đợi tôi
nói, ông ta nhảy xuống xe, lần lượt chất cả núi hàng của tôi lên xe, thấy sữa
đã chất lên rồi, tôi không còn ngần ngại gì nữa mà không leo lên ghế trước.
“Thưa ông, tôi sống
ở khu nghĩa trang.“ Tôi nói với ông ta một cách lịch sự.
"Tôi biết chị
sống ở đó mà." Ông ta trả lời giọng khào khào, và mở máy xe.
Cả đoạn đường
chúng tôi không nói năng gì, xe ông ta lái êm ru, hai tay nắm chặt vô lăng, vừa
khi xe lái qua nghĩa trang, tôi xoay mặt ra hướng khác nhìn phong cảnh vì sợ rằng
có thể ông ta sẽ nhớ lại đêm hôm đó ông ta say khướt, bộ dạng thê thảm, được
chúng tôi đưa về đồn, mà ngượng ngùng chăng.
Khi xe đến nhà
tôi, ông ta từ từ phanh xe lại, xe ngừng mà ông ta vẫn chưa xuống xe, tôi nhảy
xuống xe thật nhanh vì cứ sợ ông ta sẽ đâm ra cằn nhằn cửi nhửi khi bưng sữa xuống,
và gọi lớn anh Salun, một người bạn của tôi, bán hàng trong một quán tạp hóa nhỏ
gần nhà đến giúp.
Khi anh Salun
nghe tôi gọi, anh ta lập tức xỏ dép chạy ra, mỉm cười khiêm tốn.
Khi anh ta chạy đến
chỗ xe jeep và thấy có một người lính đứng cạnh bên tôi, anh ta dừng lại
cái rụp, rồi cúi ngay cái đầu và lẹ làng bưng những thùng sữa xuống, với vẻ mặt
của một kẻ vừa thấy một hung thần.
Lúc này, anh
trung sĩ, kẻ đưa tôi về, nhìn chăm vào anh Salun đang bưng sữa thay tôi, rồi lại
nhìn vói về cái quán đang mở của anh, rồi lại phóng tia mắt nhìn tôi như nhìn một
ả man di mọi rợ, tôi bén nhạy nhận ra ngay, chắc chắn ông ta đã hiểu lầm tôi,
tôi thẹn đỏ chín cả người, đứng thộn mặt ra đó, vụng về chống chế:
"Sữa này tôi
không mua để bán lại. Tôi nói thật đó! Ông cứ tin tôi đi, tôi chẳng qua...”
Ông ta sải bước,
leo lên xe, tay dộng cái rầm vào vô lăng, lầm bầm chi đó, rồi mở máy chạy. Tôi
sực nhớ ra, chạy lại xe và nói:
“Cảm ơn ông trung
sĩ, và xin ông cho tôi biết quý danh của ông là gì?”
Ông ta nhìn trừng
trừng vào tôi, có cái vẻ kìm hãm dữ lắm, rồi nói xì xào:
“Đối với các bạn
Sahrawi, tôi là người không tên.” Nói rồi, ông ta đạp ga, phóng xe chạy như
bay.
Tôi ngớ ngẩn
trông theo làn bụi đường, lòng cứ ấm ức, bị người ta xem thường, mà không thể
biết tại sao mình lại bị xem thường như thế, hỏi tên ông ta, thế mà lại bị ông
ta từ chối xưng tên một cách thật lỗ mãng.
“Anh Salun, anh
có biết ông ta là ai không?” Tôi quay qua hỏi anh Salun.
“Thưa, biết.” Anh
Salun thì thầm trả lời.
“Sao mà anh sợ
lính quân đoàn Sahara đến như thế? Anh đâu có phải là du kích, đúng không?”
“Thưa, tôi không
phải là du kích, ông ta ghét hết mọi người Sahrawi.”
"Làm sao anh
biết ông ta ghét mọi người Sahwari?"
"Tất cả mọi
người đều biết, chỉ có chị là không biết đó thôi."
Tôi cố ý liếc
nhìn anh Salun, một con người thành thật, không bao giờ dây dưa vào chuyện người
khác, ông trung sĩ vô danh ấy, phải có sao, anh Salun mới nói như vậy.
Sau lần tôi bị hiểu
lầm khi mua sữa ấy, tôi xấu hổ quá, nên đã lâu lắm rồi không dám muối mặt đến cửa
hàng Quân tiếp vụ để mua rau quả bình thường như hồi trước.
Sau một thời gian
dài, tôi gặp anh lính bán hàng Quân tiếp vụ khi tôi đi ra phố. Anh ta nói với
tôi rằng tiểu đội bán hàng Quân tiếp vụ cứ nghĩ tôi đã bỏ xứ mà đi, và hỏi tôi
tại sao tôi không tới cửa hàng Quân tiếp vụ mua rau quả nữa. Anh ta nói rằng
các anh lính trong tiểu đội bán hàng ấy hiểu việc tôi làm, tôi chào anh ta rồi
tiếp tục đi mà lòng phơi phới.
Thật là xui xẻo,
ngày đầu tiên tôi trở lại trại lính mua hàng Quân tiếp vụ, lại đụng phải cái
ông trung sĩ hôm nọ, chân ông mang đôi ủng-cỡi-ngựa, đang sải bước, tôi cắn môi
hồi hộp nhìn ông ta, ông ta gật đầu chào tôi, nói: “Chào chị!”, rồi đi thẳng đến
quầy.
Đối với một kẻ
không thích người Sahrawi như ông ta, tôi cho ông ta là một kẻ "kỳ thị chủng
tộc", và tôi không thèm để ý đến ông ta nữa, đứng cạnh ông ta, tôi chăm
chú nhìn anh lính đứng quầy và nói loại rau mà tôi muốn mua, và tránh nhìn cái
ông trung sĩ ấy.
Vừa khi trả tiền,
tôi thấy, trên cánh tay với tay áo xăn lên của ông trung sĩ đang đứng cạnh tôi,
có một hàng lớn những hình xâm, và đặc biệt dưới hình xâm trái tim có xâm hình
người yêu sến màu chàm đậm, còn có một hàng chữ với co chữ lớn trung bình: “Don
Juan của Áo quốc ”.
Tôi rất ngạc
nhiên vì lâu nay tôi cứ nghĩ dưới hình xâm con ghệ thì chắc phải xâm một tên của
người đàn bà nào đó, nhưng đây lại xâm loại tên đàn ông.
"Này! 'Don
Juan của Áo quốc' là ai? Ý nghĩa gốc gác ra làm sao?” Khi ông trung sĩ đi rồi,
tôi hỏi anh lính thuộc Quân đoàn Sa mạc đang đứng quầy.
"À! Đó là
tên của một trại lính cũ thuộc Quân đoàn Sa mạc."
"Như vậy
không phải là tên người?"
"Đó là tên
riêng của một người trong lịch sử, vào triều đại Vua Carlos I. Vào thời điểm
đó, Áo và Tây Ban Nha vẫn chưa tách nhau ra. Sau này, quân đoàn đã sử dụng danh
xưng này làm tên cho trại lính. Chuyện đã lâu lắm rồi."
"Nhưng mà
cái ông trung sĩ vừa mới đứng cạnh tôi đây, trên cánh tay còn xâm những chữ như
thế là sao!" Tôi lắc đầu nói, nhận số tiền thối rồi bước ra khỏi cửa hàng
Quân tiếp vụ.
Nơi cửa của cửa
hàng Quân tiếp vụ, tôi không ngờ thấy ông trung sĩ đang đứng đợi tôi, ông ta
nhìn thấy tôi, cúi đầu, sải theo tôi vài bước rồi mới nói:
"Cảm ơn vợ
chồng chị đêm đó."
“Cảm ơn về điều
gì?” Tôi ngỡ ngàng hỏi.
“Anh chị đã chở
tôi về, tôi... bị say.”
“Ồ, chuyện đã lâu
rồi!”
Cái con người này
thiệt là lạ, bỗng nhiên lại cảm ơn tôi về một chuyện mà tôi đã quên bẵng từ
lâu, và tại sao ông ta lại không cảm ơn tôi cái lần ông ta chở tôi về nhà từ cửa
hàng Quân tiếp vụ?
“Xin phép cho tôi
được hỏi ông: vì cớ làm sao mà lại có cái tin đồn thổi là ông rất ghét người
Sahrawi?” Tôi hỏi liều.
“Đúng rồi, tôi rất
ghét tụi nó.” Ông ta trừng trừng nhìn tôi, và câu trả lời thẳng thừng của ông
ta làm tôi cứng cả miệng.
“Trên đời
này có kẻ tốt, người xấu, không làm gì có cái chuyện có một dân tộc đặc biệt xấu.”
Tôi ngây thơ nói một câu xưa như trái đất.
Ông trung sĩ nhìn
quét một đám người Sahrawi đang ngồi xổm trên cát, sắc mặt và cái nhìn gằm gằm
của ông ta trong một thoáng trở nên thậtdễ sợ, như thể sự căm thù vô cớ của ông
đang sôi sục trong lòng ông. Tôi khép miệng lại sau những lời nói chẳng đâu vào
đâu của mình và ngu ngơ nhìn ông ta.
Phải mất vài giây
ông ta mới bình tĩnh lại được, rồi trang trọng hướng về tôi cúi đầu chào và sải
bước ra đi.
Ông trung sĩ xâm
mình này vẫn chưa cho tôi biết tên của ông ta. Trên cánh tay của ông ta xâm
danh xưng của trại lính, và tại sao lại xâm như thế, mà đây lại là một trại
lính từ rất lâu đời?
Một ngày nọ, người
bạn người Sahrawi của chúng tôi, anh Ali, mời chúng tôi đến một nơi cách thị trấn
hơn 100 dặm, nơi cha của Ali sống trong một căn lều lớn, Ali lái xe taxi trong
thị trấn, và anh ấy chỉ có thể về nhà thăm cha mẹ vào cuối tuần.
Nơi cha mẹ Ali
sinh sống có tên là Lemseyed, có thể, cách đây cách đây hàng nghìn năm, từng là
một con sông rộng, sau này trở nên khô cạn và bây giờ trở thành một hẻm núi lớn
với hai bên là triền đá nứt nẻ, có một vài cây chà là mọc ở giữa lòng sông khô
cạn, nhưng vẫn có một dòng nước chảy ra giàn giụa không ngơi, tạo thành một ốc
đảo sa mạc không lấy gì làm lớn. Ở một nơi rộng bao la bát ngát với nguồn nước
ngọt ngon lành như thế mà chỉ có một vài cư dân sống trong lều, thiệt tôi hoàn
toàn không thể hiểu nổi.
Trong làn gió chiều
hôm mát lạnh, chúng tôi ngồi ngoài lều với cha của Ali, ông lão đang nhàn nhã
hút một chiếc tẩu dài, vách đá đỏ hùng vĩ trong ráng chiều, và một ngôi sao đầu
tiên cô đơn nhô lên trong trời. Mẹ của Ali mang đến cho chúng tôi một đĩa lớn
bo bo hạt nhỏ và trà ngọt đậm đà. Tôi dùng tay vê bo bo hạt nhỏ thành một cục bột
màu xám rồi cho vào miệng, dưới khung cảnh như vậy mà ngồi dưới đất mà ăn thức
ăn của người vùng sa mạc thì thiệt là hợp cảnh, hợp tình.
“Ở một nơi có nguồn
nước trong lành như vậy, tại sao hầu như không có ai sống ở đây? “ Tôi ngạc
nhiên, hỏi lão nhân.
“Trước đây đây là
một nơi náo nhiệt đông người, và có tên là Lemseyed. Sau khi có một cuộc thảm
sát xảy ra, những người cũ đều bỏ đi, và tất nhiên chẳng có ai là người mới vì
chẳng ai muốn dọn đến ở, chỉ còn một vài gia đình như gia đình chúng tôi còn gồng
mình ở lại đây."
"Thảm sát là
thảm sát nào? Tại sao tôi không biết? Đấy có phải là vụ dịch lạc đà
không?" Tôi hỏi ông lão.
Ông già liếc nhìn
tôi, phì phèo điếu thuốc, tâm hồn bỗng như không còn nơi đây, và tưởng như ông
đang nhìn về phía xa xăm nào đó.
"Giết! Bọn
giết người! Khi ấy máu chảy nhiều đến nổi không ai dám uống nước từ dòng suối ấy."
"Ai giết ai?
Chuyện gì đã xảy ra?" Tôi không thể không gập người tựa vào anh José, giọng
nói của ông già đầy bí ẩn và thiệt dễ sợ, đêm, đột ngột phủ chụp xuống.
“Người Sahrawi đã
giết lính tráng thuộc Quân đoàn Sa mạc.'' Ông già vừa trầm trầm nói vừa nhìn
vào anh José và tôi. "Mười sáu năm trước, Lemseyed là một ốc đảo xinh đẹp.
Ở đây, lúa mì mọc tốt tươi, chà là trái rụng đầy mặt đất, và nước uống có sẵn,
người Sahrawi đã lùa lạc đà và dê đến đây để chăn,người ta hạ trại hàng nghìn lều...”
Khi ông cụ đang kể
về sự thịnh vượng của ngày xưa ấy, tôi nhìn mấy cây chà là còn sót lại, tôi khó
có thể tin đượcrằng vùng đất khô cằn này đã từng có một thủa xuân xanh.
"Về sau Quân
đoàn Sa mạc Tây Ban Nha cũng đến hạ trại và ở lại đây." Ông già tiếp tục
nói.
“Tuy nhiên, sa mạc
Sahara lúc đó không thuộc về bất cứ ai, ai đến ở cũng được mà.” Tôi ngắt lời
ông.
“Đúng vậy, đúng vậy,
nhưng xin anh chị hãy nghe tôi cái đã..." Ông già giơ tay ra hiệu.
"Quân đoàn Sa mạc đến đây, và người Sahrawi không cho phép họ sử dụng nước.
Hai bên thường xuyên xung đột về nước, và sau đó..."
Thấy ông cụ không
còn nói thêm gì nữa, tôi liền hỏi ông: "Sau đó thì xảy ra chuyện gì vậy?"
"Sau đó, một
đoàn đông đảo du kích Sahrawi đã tấn công trại lính và trong một đêm giết sạch
không còn một mống quân lính khi họ đang ngủ. Tất cả họ đều bị giết bằng
dao."
Tôi trừng mắt,
nhìn vào ông lão ngồi phía bên kia đống lửa, và thì thầm hỏi nhỏ ông ta:
"Ông muốn nói là tất cả họ đều đã bị giết? Một tiểu đoàn lính đã bị người
Sahrawi giết bằng dao?”
“Chỉ còn sót lại
một trung sĩ. Đêm đó ông ta say xỉn, ngã xuống nằm ngoài trại lính, và khi ông
ta tỉnh dậy, thì thấy tất cả đồng đội đều đã chết, không còn một ai cả.”
«Lúc đó ông sống ở
đây?" Tôi hỏi và trong lòng tôi những muốn hỏi ông ta: Ông có tham gia vào
vụ giết người đó không?
“Quân đoàn Sa mạc
là Quân đoàn nổi tiếng có tinh thần cảnh giác cao, làm sao có thể có chuyện như
thế xảy ra?” Anh José nói.
"Đâu ngờ có chuyện
như thế, ban ngày họ đã phải tập chạy trối chết, rồi chuyện bố trí lính gác
không đượcchu đáo cho lắm, và họ không ngờ rằng người Sahrawi sẽ xông vào tấn
công bằng dao."
“Lúc đó trại lính
đóng ở đâu?” Tôi hỏi ông già.
"Nó ở đằng
kia kìa!" Ông lão chỉ tay về phía đầu thượng nguồn con suối, ở đó ngoại trừ
sa mạc ra, không có dấu vết người dân sinh sống nào. “Kể từ đó, không còn ai
thích sống ở đây, và tất nhiên những kẻ sát nhân đã trốn biệt, một ốc đảo tốt
lành đã trở thành hoang phế như thế này đây.”Ông lão cúi đầu hút thuốc, trời đã
nhá nhem tối, gió đột ngột thổi gắt gao và lạnh buốt, kèm theo tiếng khóc thút
thít, hàng cây cọ đung đưa, cột lều kêu ken két.
Tôi nhìn lên nơi
đóng trại trong bóng tối của Quân đoàn Sa mạc 16 năm trước, và tôi dường như thấy
các nhóm lính mặc quân phục Tây Ban Nha đang đánh xáp là cà với người Sahrawi
trùm đầu tay nắm những con dao lớn, bọn họ đang ngã xuống dưới ngọn dao trong
tư thế chuyển động chậm chậm như trên màn ảnh, hàng đống người bò trên cát đẫm
máu, hàng ngàn cánh tay bất lực dang lên trời, tiếng khóc gào trong câm lặng
trên những khuôn mặt đầy máu, trong gió đêm đen kịt, chỉ còn tiếng cười hư huyễn
của sự chết vang vang lên trên trái đất cô đơn...
Tôi sửng sốt, tôi
chớp mắt thật mạnh, chẳng thấy gì cả, xung quanh vẫn bình yên như trước, chúng
tôi đang ngồi trước đống lửa, không ai nói lấy một lời.
Tôi chợt cảm thấy
lạnh cả mình, lòng buồn dã dượi, đây không phải chỉ là vụ thảm sát mà ông lão
nói, mà là một vụ tàn sát đẫm máu!
“Ông trung sĩ duy
nhất còn sống... có phải đó là cái ông có hình xâm trên cánh tay, và lúc nào
cũng nhìn trừng trừng như một con chó sói vàongười Sahrawi?” Tôi nhẹ nhàng hỏi.
"Họ từng là
một tiểu đoàn đầy tình huynh đệ chi binh, và tôi vẫn còn nhớ ông trung sĩ khi tỉnh
rượu, đã nằm sấp trên mặt đất và run rẩy như một kẻ mất trí bên xác người em
trai của mình đã chết.”
Tôi chợt nghĩ đến
hình xăm tên trại lính trên tay người đàn ông ấy.
“Ông có biết ông
trung sĩ ấy tên gì không?” Tôi hỏi.
"Sau vụ đó,
ông ta chuyển vào trại lính ở trong thị trấn, từ đó không chịu nói ra tên mình,
và nói là anh em đồng ngũ đều chết hết và làm sao mà ông còn xứng đáng có danh
xưng trong trời đất này nữa. Thế là mọi người cứ gọi ông là ông trung
sĩ."
Chuyện thảm sát
cũ ấy đã nhiều năm trôi qua, nhưng khi nghĩ lại vẫn khiến tôi ớn lạnh, bãi cát
đằng xa dường như đang quằn quại mình.
“Chúng ta phải đi
ngủ thôi! Trời tối rồi.” Anh José nói oang oang rồi im ỉm quay về lều.
Sự kiện này đã trở
thành bi kịch lịch sử, trong thị trấn hầu như không ai nhắc nhở đến nữa, mỗi lần
nhìn thấy ông trung sĩ đó, tim tôi cũng giật thốt, bao giờ thì ký ức đau thương
đến như thế mới phai nhạt trong lòng ông?
Vào thời điểm này
năm ngoái, trong vùng sa mạc vốn dĩ bị thế giới lãng quên, đột nhiên tình hình
trở nên phức tạp. Ma rốc ở phía bắc biên giới và Mauritania ở phía nam muốn
chia cắt Tây Sahara thuộcTây Ban Nha, trong khi các bộ lạc của sa mạc này đã
thành lập quân du kích, họ sống lưu vong ở Algeria, và họ muốn độc lập. Chính
phủ Tây Ban Nha tỏ thái độ thiếu quyết đoán, thái độ mập mờ, bỏ thì thương mà
sương (gánh) thì nặng cái vùng lãnh thổ họ đã bỏ ra nhiều tâm huyết này.
Trong lúc này
đây, lính Tây Ban Nha bị giết khi họ đi ra ngoài đồn một mình, giếng sâu bị thả
thuốc độc, người ta tìm thấy bom định thì trong xe của các trường tiểu học,
băng chuyền tại các công ty khai thác phốt phát bị đốt cháy, công nhân gác đêm
trong hãng bị treo ngược trên đường dây điện, và trên những con đường bên ngoài
thị trấn, mìn làm nổ tung xe cộ qua lại...
Những cuộc bạo loạn
không ngừng xảy như vậy khiến cả trong thị trấn gió rên hạc khóc, chính quyền lập
tức đóng cửa trường học và di tản bọn trẻ về Tây Ban Nha, đến tối thì thiết
quân luật toàn diện, xe tăng chạy rảo trên đường phố, kẽm gai vòng trong vòng
ngoài bủa quanh các cơ quan quân sự.
Điều đáng sợ là
Tây Ban Nha bị ba mặt thọ địch ở biên giới, và ở trong thị trấn này, không rõ
bên nào đã gây ra những xáo trộn.
Với tình hình
này, phụ nữ và trẻ em trở về Tây Ban Nha gần như ngay lập tức, tôi và anh José
thì cứ án binh đất động, anh ấy đi làm như bình thường, còn tôi cứ ở nhà, ngày
thường, ngoài đi gửi thư, mua rau, tôi ít khi đến nơi công cộng vì sợ những vụ
ném lựu đạn, nổ mìn...
Ở một nơi vốn
luôn yên tĩnh trong thị trấn, một số người đang bán tống bán tháo đồ đoàn, ngày
ngày người người xếp hàng dài thật dài trước cổng công ty hàng không, tranh
giành mua vé, rạp chiếu phim và cửa hàng đều đóng cửa, công chức nhân viên của
các nước phương Tây còn ở đây đều được phát súng lục. Thị trấn đã trở nên hỗn
loạn, bất an.
Một buổi chiều,
tôi đến thị trấn để mua tờ báo tiếng Tây Ban Nha trong ngày, tôi tự hỏi chính
phủ sẽ làm gì với mảnh đất này, trên báo không nói gì nhiều, nhưng ngày nào
cũng nghe nói chừng đó chuyện. Tôi lầm lũi bước về nhà. Trên đường đi, tôi nhìn
thấy rất nhiều xe vận tải quân sự chở quan tài tiến về nghĩa trang, và tôi sửng
sốt, cứ nghĩ rằng nơi biên ải đang nổ ra những cuộc giao tranh với người Ma rốc.
Trên đường về
nhà, tôi phải đi qua hai cổng sắt của nghĩa trang. Người Sahrawi có hai nghĩa
trang lớn của riêng họ, nhưng nghĩa trang của Quân đoàn Sa mạc được bao quanh bởi
một bức tường trắng như tuyết, được đóng kín bằng một cánh cổng sắt đen trang
trí hình hoa hư huyễn, phía trong hàng hàng thập giá đã được cắm lên từ thủa
nào, bên dưới thập giá là nấm mộ, và trên nấm mộ nằm trải một tấm bia tầm thường.
Khi tôi bước đến
đó, cổng sắt của nghĩa trang đã mở, những ngôi mộ có bia đá ở hàng đầu tiên đã
được đào lên, và rất nhiều binh lính của Quân đoàn Sa mạc đang lần lượt dời xác
những người đồng đội đã chết, rồi đặt vào trong những chiếc quan tài mới.
Khi tôi nhìn thấy
cảnh này, tôi hiểu ngay lập tức là chính phủ Tây Ban Nha đã từ lâu không muốn
công bố quyết định rút lui khỏi Tây Sahara, Quân đoàn Sa mạc là loại binh chủng
khi sống, sống trong sa mạc, khi chết, thì được chôn luôn trong sa mạc, và bây
giờ người ta đã đào xác của họ và sẽ đưa tất cả về cố hương, thì rốt cuộc Tây
Ban Nha cũng sẽ từ bỏ mảnh đất này mà thôi!
Điều kinh hoàng
là khi những xác chết đã bao nhiêu năm, khi được đào lên khỏi cát khô, chúng
không phải là những đống xương mà là những xác chết khô khốc, nhăn nheo như xác
ướp.
Những người lính
Quân đoàn Sa mạc cẩn thận khiêng ra những xác ấy ra, nhẹ nhàng đặt vào chiếc
quan tài mới dưới cái nắng như thiêu như đốt, đóng đinh hòm thật kỹ, dán miếng
giấy định danh, rồi chất lên xe.
Vì có một chiếc
quan tài đang được khiêng ra, và thấy là đám đông đang nhường đường, tôi bị ép
buộc phải lách vào trong nghĩa trang, lúc đó tôi mới phát hiện ra có ông trung
sĩ vô danh ấy đang ngồi dưới bóng râm của bức tường.
Chuyện nhìn thấy
người chết không làm tôi khó chịu, nhưng tiếng đóng đinh vào quan tài làm buốt
óc tôi, chợt thấy ông trung sĩ làm tôi nhớ lại cái cảnh đêm hôm ấy đụng phải
ông ta say mèm nằm trên đất, cũng ở gần nghĩa trang này. Chẳng lẽ cái thảm hoạ ấy
đã xảy ra bao nhiêu năm rồi, mà tới nay vẫn chưa khiến nỗi đau của ông nguôi
ngoai đi được hay sao?
Khi tấm bia mộ ở
hàng thứ ba trong nghĩa trang được giở lên, ông thượng sĩ đứng phắt dậy như thể
ông đã từ lâu đợi chờ giây phút này, ông sải bước tới, nhảy xuống huyệt rồi tự
tay ôm lấy cái xác chưa phân hủy như ôm một người yêu, rồi ông rời ra khỏi xác
chết, đặt nhẹ xác vào cánh tay ông và lặng lẽ nhìn chăm chăm vào khuôn mặt khô
khốc của tử thi, ông không hề để lộ ra sự căm ghét hay tức giận nào, tôi chỉ thấy
nơi ông một nỗi buồn thân mật, nhẹ nhàng và đẫm màu âu yếm.
Tất cả mọi người
đều chờ đợi để đặt thi thể ấy vào quan tài, nhưng ông trung sĩ, đứng dưới cái nắng
như thiêu đốt, dường như đã quên đi tất cả thiên hạ.
“Đó là em trai của
ông ta, ông em đã bị giết cùng cả tiểu đoàn lần đó.” Một người lính đứng cạnh
thập giá bằng sắt khe khẽ nói.
Thời gian chờ đợi
tưởng chừng dài như thế kỷ trước khi ông trung sĩ tiến về phía quan tài và nhẹ
nhàng đặt người thân đã mất 16 năm vào trong đó như đặt một đứa trẻ vào giường
ngủ ngủ giấc muôn đời.
Khi người trung
sĩ đi ngang qua cửa, tôi quay mặt tránh nhìn ông, tôi không muốn ông ta nghĩ rằng
tôi chỉ là một người tò mò vô tích sự, khi ông ta đi ngang qua những người
Sahwari đang tụm ba tụm bảy đang theo dõi vụ bốc xác người, đột nhiên ông ta dừng
phắt lại, những người Sahrawi và đám trẻ em đang đứng đó liền bỏ chạy.
Hàng hàng quan
tài được chở ra phi trường, anh em bấy nay nằm trong lòng đất vừa mới được chở
đi, chỉ còn lại những cây thánh giá còn đứng chỉnh tề ngay ngắn, trắng loá dưới
trời nắng chang chang.
****
Sáng hôm ấy, anh
José đi làm sớm và phải ra đi lúc 5g30, phần tôi, tình hình đã trở nên tồi tệ đến
mức tôi cần một chiếc xe để chở một số thùng đồ đã được đóng và gửi chúng khỏi
sa mạc, chúng tôi thoả thuận với nhau là hôm đó anh José sẽ đi xe bus đi làm và
để xe ở nhà cho tôi dùng,tuy nhiên sáng sớm tôi vẫn chở anh José đi đến bến xe
buýt.
Trên đường về, vì
sợ mìn nên tôi không dám chạy xe đường tắt, mà chỉ lái dọc theo con đường nhựa
lớn. Khi rẽ vào thị trấn trên dốc, thấy kim báo xăng chỉ gần đến số 0 nên tôi
muốn ghé vào cây xăng, rồi nhìn đồng hồ đeo tay, thấy chỉ mới sáu giờ kém mười,
tôi biết là chưa tới giờ trạm xăng mở cửa, vì vậy tôi quay xe lại để chuẩn bị về
nhà. Ngay lúc đó, trên con đường cách chỗ tôi ở không xa lắm, bất ngờ có tiếng
trái phá nổ một cái ầm rất lớn, sau đó là một cột khói đen cuồn cuộn bốc lên trời.
Tôi đang ở rất gần,
dù đang ngồi trên xe tôi cũng sợ đến mức tim đập loạn xạ, tôi nhanh chóng phóng
xe về nhà, đồng thời tôi nghe thấy xe cứu thương trong thị trấn vừa hú kèn inh ỏi
vừa phóng như bay.
Đến chiều, anh
José về nhà và hỏi tôi: "Em có nghe tiếng nổ không?"
Tôi gật đầu và hỏi:
"Có ai bị
thương tích gì không?"
Anh Joségấp gáp
nói:
"Ông trung
sĩ đó đã bị giết chết."
“Có phải đó là
ông trung sĩ thuộc Quân đoàn Sa mạc?” Hỏi cho có hỏi thôi vì tôi tất nhiên biết
chính là ông ta chứ không ai khác. “Ông ấy bị làm sao mà chết?”
"Ông ta lái
xe ngang qua địa điểm có vụ nổ sáng nay. Có một đám con nít người Sahrawi đang
chơi với một chiếc hộp, mà trên đó có cắm một lá cờ quân du kích. Có lẽ ông
trung sĩ nghĩ rằng chiếc hộp ấy có gì đó đáng nghi ngờ, nên ôngta đã xuống xe
và chạy nhanh về phía tụi nó, tính xua chúng dang ra, nhưng một đứa đã kéo lá cờ
ra khỏi hộp, và chiếc hộp phát nổ... "
"Bao nhiêu trẻ
em Sahrawi đã bị giết chết?"
"Ông trung
sĩ nhào tới lấy thân mình đè lên chiếc hộp trước khi ông ta bị nổ tung thành từng
mảnh, và chỉ có hai đứa trẻ bị thương."
Tôi vừa thẩn thờ
vừa bắt đầu nấu ăn cho anh José, nhưng tôi cứ nghĩ mãi về chuyện xảy ra vào
sáng nay, một người đàn ông bị hận thù gặm nhấm suốt 16 năm, nhưng vào cái tích
tắc tối nguy cấp ấy, đã lấy mạng sống của mình mà ném vào chỗ chết để đổi lấy mạng
sống của một vài đứa trẻ dân Saharawi, mộtgiống dân mà ông luôn luôn coi là kẻ
thù. Tôi tự hỏi: Tại sao? Và tôi không bao giờ nghĩ rằng ông ta sẽ chết một cái
chết như thế.
Ngày hôm sau, thi
thể của ông trung sĩ được đặt trong quan tài và được chôn cất lặng lẽ trong cái
nghĩa trang đã bị đào rỗng, những người anh em đồng ngũ của anh đã sớm ra đi và
ngủ yên trên mảnh đất khác, nhưng ông, ông không theo kịp họ trở về cố hương,
mà phải âm thầm vùi thân trong sa mạc Sahara, một vùng đất mà ông giận thì giận
mà thương thì thương, mà ông coi như cố hương vĩnh viễn đời mình.
Bia mộ của ông
đơn sơ. Phải sau một thời gian lâu lắm tôi mới bước vào để xem, trên mặt bia mộ
có khắc dòng chữ:
SALVA SANCHEZ
DORE
1932-1975
Trên đường về
nhà, tôi thấy có những đứa trẻ Sahrawi vỗ vào những thùng rác ở trong công viên
và hát những bài hát có nhịp có nhàng, trong chạng vạng tối thật yên bình, như
không hề biết chiến tranh sắp ập đến.
三毛: Tam Mao
(1943-
1991, nữ văn sĩ Đài Loan)