Thế nào trong mấy ngày Tết quý vị cũng nghe người chung
quanh chúc nhau Hạnh Phúc.
Mỗi cá nhân có thể cảm thấy khi nào mình thật hạnh phúc.
Trong lòng không âu lo, không thèm muốn cái gì quá sức, không thù ghét, hờn giận
ai cả; biết vui hưởng những gì mình đang có, như không khí đang thở, nước lạnh
uống cho đỡ khát; nhìn mọi người chung quanh chỉ thấy khởi tình thương yêu; đó
là những giây phút sống hạnh phúc. Cảm thấy hạnh phúc vì mình được tự do, không
bị lòng tham, ganh tị, giận dữ trói buộc.
Nhưng đó là chuyện cá nhân. Làm cách nào giúp một xã hội hạnh phúc hơn?
Thử lấy thí dụ nước Phần Lan, gần đây trong nhiều năm liền
được coi là nơi dân thấy hạnh phúc hơn cả. Ông Frank Martela, một triết gia
nghiên cứu tâm lý học nói người Phần Lan sống vui nhờ ba điều họ không bao giờ
làm.
Thứ nhất, không hay so sánh mình với người chung quanh. Ông
dẫn một câu tục ngữ, “Kell’ onni on, se onnen kätkeköön.” Nghĩa là: Không so
sánh và khoe khoang sự sung sướng của mình. Nhất là không so sánh của cải, tiền
bạc. Martela kể ông vẫn thấy một người giàu nhất nước đẩy cái xe đưa con đến trạm
xe lửa. Ông này có thể mua một chiếc xe sang, thuê tài xế lái đưa con đi học,
nhưng vẫn dùng xe lửa, như mọi người.
Thứ nhì, họ vui hưởng cảnh thiên nhiên. Một cuộc nghiên cứu
năm 2021 cho biết 87% dân Phần Lan nói họ yêu thích thiên nhiên. Bước ra cửa thấy
cây cối rồi, trong nhà cũng bày mấy chậu cây kiểng. Ở nước này công nhân được
nghỉ hè 4 tuần lễ; họ đưa gia đình đi thăm miền quê. Để sống với thiên nhiên; sống
trong những căn nhà không điện, không có vòi nước càng tốt.
Thứ ba, xã hội tạo được niềm tin cậy lẫn nhau, mà người Phần
Lan nào cũng giữ gìn. Con người tin tưởng người chung quanh thì hạnh phúc hơn.
Năm 2022, các nhà nghiên cứu đã làm thí nghiệm, “đánh rớt” 192 cái ví đựng tiền
trong 16 thành phố, nhiều nước trên thế giới. Ở thủ đô Helsinki, trong số 12
cái ví được đem thử, 11 cái được trả về. Nếu bạn bỏ quên một cái laptop hay điện
thoại cầm tay trên xe lửa hay trong thư viện ở Phần Lan, chắc bạn sẽ không mất.
Ở Nhật Bản cũng vậy; Phan Bội Châu đã ghi lại kinh nghiệm đó
khi tới Kobe ngày đầu tiên một thế kỷ trước đây. Một người phu xe đã tìm đến
nơi cụ ở trọ để trả lại gói đồ bỏ quên ở nhà ga. Miến Điện là một nước khác. Một
người bạn tôi đi trong một con phố chợ đông đúc ở Rangoon, bỗng có một cô gái
đuổi theo, kéo áo, đưa anh cái iPhone anh bỏ quên trong một tiệm ăn. Chính tôi,
một lần để rớt tiền trong nhà hàng ăn, lát sau có người chạy tìm tôi trao tận
tay.
Niềm tin cậy chung giúp mọi người sống an bình. Trẻ em Phần
Lan lấy xe buýt, xe điện đi học, đi chơi mà không lo lắng. Tokyo cũng vậy. Một
nhà báo Mỹ đã sống ở đó 5 năm, các con học trong trường Nhật. Ông kể chuyện bà
mẹ một cô học sinh Nhật gọi cho vợ ông, báo tin hai cô con gái của họ sẽ đi
chơi sở thú vào ngày Chủ Nhật tới. Bà mẹ người Mỹ ngạc nhiên: Hai đứa bé gái 8
tuổi, đi xe điện rong chơi cả ngày, trong một thành phố 17 triệu dân, mà không
có người lớn nào phải đi kèm sao?
Chúng ta có thể đoán, là muốn xã hội hạnh phúc thì kinh tế
khá quan trọng. Nước nghèo quá thì dù đủ ăn đủ mặc nhưng khi lâm bệnh thiếu thuốc
chữa, trẻ con bệnh thiếu thầy thiếu thuốc, hay chết yểu, người già không ai
trông nom, những thứ đó sẽ làm nhiều người bớt hạnh phúc. Nhưng một nước giàu
có thì mọi người có hạnh phúc hơn chăng? Không chắc. Hạnh phúc không tăng theo
tỷ lệ thuận với lợi tức.
Mỹ và Nhật Bản lợi tức bình quân mỗi người dân tăng gấp đôi
trong nửa thế kỷ qua. Tuổi thọ trung bình cao hơn; đời sống nhiều tiện nghi
hơn; chế độ an sinh xã hội tử tế giúp đỡ những người mất việc hoặc gặp tai nạn
bất ngờ. Họ có hạnh phúc hơn không?
Hầu như không thay đổi. Ở Mỹ, những cuộc thăm dò dư luận từ
thập niên 1950 tới nay thấy có khoảng 30 phần trăm người dân nói họ cảm thấy sống
hạnh phúc; và đến nay tỷ lệ đó chưa thay đổi. Dân Nhật Bản có nhiều người cảm
thấy hạnh phúc hơn dân Mỹ, nhưng tỷ số những người này cũng không tăng theo lợi
tức.
Tại sao đời sống sung túc hơn mà người ta không thấy tăng hạnh
phúc?
Một giáo sư kinh tế học, ông Richard Layard, dạy trường đại
học London School of Economics đã xuất bản một cuốn sách bàn về hiện tượng này,
nhan đề “Hạnh Phúc: Những Bài Học của Một Khoa Học Mới,” (Happiness: Lessons
from a New Science, Penguin xuất bản). Ông không bàn đến hạnh phúc cá nhân, mà
nói chung hạnh phúc của cả xã hội.
Một “bài học” mà ông Layard rút ra là, cuộc sống quá cạnh
tranh thường khiến nhiều người bớt hạnh phúc. Trong một xã hội cạnh tranh gắt
gao mỗi người tìm cách làm việc nhiều hơn, kiếm nhiều tiền hơn, khiến cho những
người khác cũng phải làm việc thêm, kiếm tiền thêm. Không còn thời giờ nghỉ
ngơi, giải trí nữa, vui hưởng thiên nhiên nữa, cho nên số người cảm thấy hạnh
phúc chắc sẽ giảm. Trong cuộc sống ganh đua, những người lợi tức cao hơn hoặc
được tăng lương, có thể thấy hạnh phúc hơn chút đỉnh. Nhưng những người thất bại
thì tâm lý lại bị tổn thương rất nặng. Hơn bù kém, tổng số hạnh phúc của cả xã
hội xuống thấp.
Layard còn nêu lên một điều: Giàu nghèo không làm tăng hay
giảm hạnh phúc, chính sự chênh lệch giàu nghèo mới ảnh hưởng mạnh. Lợi tức mình
tăng gấp đôi vẫn không thấy hạnh phúc hơn nếu nhiều người khác chung quanh lợi
tức tăng lên gấp mười! Trong một xã hội cạnh tranh tự do, người ta có thể không
tự so sánh với những người thành công lớn; nhưng không vui nếu thấy mình thua
người ở gần bên. Phần lớn chúng ta không ganh tị với ông Bill Gates, hay ông
Jeff Bezos; nhưng sẽ “tủi thân” khi thấy bà hàng xóm của mình lái chiếc xe
Bentley dù không phải đi làm mỗi ngày vất vả như mình!
Có vị giáo sư đã thí nghiệm bằng cách yêu cầu một nhóm sinh
viên ở Đại Học Harvard lựa chọn trong hai trường hợp, cho biết mình thích gặp
hoàn cảnh nào.
Một là anh/chị làm được lãnh lương $50,000 mỹ kim một năm,
trong khi những người đồng nghiệp chỉ được $25,000. Hai là lãnh lương $100,000
nhưng chung quanh ai nấy đều lãnh hơn $200,000. Khi đem câu hỏi trên ra hỏi thử,
đại đa số thích được sống trong hoàn cảnh thứ nhất! Người ta tự đánh mất tự do
và hạnh phúc chỉ vì cái tâm phân biệt!
Xứ Bhutan ở Á châu cũng được gọi là quốc gia hạnh phúc nhất
thế giới. Nói đến lợi tức thì người dân ở đó nghèo hơn nhiều nước. Một người ở
Mỹ mở tủ ra thấy mình có vài ba chục cái áo; một người ở Bhutan chắc chỉ có
năm, ba cái. Họ thường đi bộ, ít ai có xe hơi; còn người Mỹ hầu như ai lớn lên
cũng phải lái xe, thiếu là khó sống.
Nhưng ngôi nhà của ông vua Bhutan, nằm cạnh nơi triều đình
làm việc, không lớn hơn nhà người dân khá giả bao nhiêu. Một người Việt đã sống
ở Bhutan 11 năm nói với tôi rằng bà chưa từng trông thấy trẻ em ở đó cãi nhau
bao giờ - chắc trẻ em đánh nhau còn hiếm hơn nữa. Niềm vui lớn nhất của chồng
bà, người Bhutan, là họp mặt với bạn bè – nhiều lần ông rủ nhân viên trong xí
nghiệp của mình cùng nhau đi bắn cung cả ngày! Rất khó dạy cho một người Bhutan
khái niệm “tối đa hóa doanh lợi!”
Người ta thấy hạnh phúc hơn khi có bạn bè thân thiết để chia
sẻ những lúc vui buồn; hay khi sống trong gia đình hòa thuận. Chúng ta cũng hạnh
phúc khi cảm thấy mình hữu ích, có đóng góp cho xã hội, cho cộng đồng. Những điều
này ai cũng đồng ý cả.
Những người sùng đạo thường cảm thấy hạnh phúc hơn người vô
tín ngưỡng. Nhiều nước lấy công quỹ giúp cho các cơ sở tôn giáo hoạt động, như ở
nước Đức, đó cũng là một cách giúp gia tăng hạnh phúc chung. Tất nhiên, đi bắt
bớ, giam cầm hay quản thúc các nhà tu hành thì chắc chắn không thể nào nâng cao
hạnh phúc cho dân chúng!
Nhưng quốc gia có nên bắt buộc mọi người phải có một tín ngưỡng
hay không? Chắc hẳn là không rồi. Vì hạnh phúc là một món mỗi người tự do cảm
thấy chứ không thể bắt buộc người ta hạnh phúc được! Một triết gia nổi tiếng thế
kỷ trước viết cuốn “Chinh Phục Hạnh Phúc.” Chắc Bartran Russell phải công nhận
con người không thể đi chiếm hạnh phúc hay đi xin hạnh phúc được!
Các nhà chính trị có thể tạo ra các điều kiện giúp cho mọi
người bớt khổ. Phòng bệnh, giáo dục trẻ em, giúp các bà mẹ có nhiều thời giờ sống
với con dù vẫn đi làm, vân vân. Nhiều người sẽ có cơ hội sống hạnh phúc hơn.
Nhưng không thể cứ làm thêm luật lệ và hô khẩu hiệu thì tự nhiên dân sẽ hạnh
phúc hơn. Muốn tạo thêm hạnh phúc tới cho người chung quanh thì chính mình phải
sống hạnh phúc. Điều này các nhà chính trị nhiều khi không nghĩ tới. Họ tạo ra
trong chính trường một bầu không khí nhiễm độc làm cả nước cũng mất hạnh
phúc!
Cuối cùng, khi nói chung cho cả một quốc gia, chính tự do là
một điều kiện thiết yếu cho hạnh phúc. Tự do chưa phải là “điều kiện đủ” tạo
nên hạnh phúc, nhưng thiếu tự do thì khó sống hạnh phúc. Còn nói chuyện từng cá
nhân lại khác. Những người biết tu dưỡng thì sống trong hoàn cảnh nào cũng hạnh
phúc được. Ước mong trong năm mới chúng ta đều cố gắng giữ đạo lý, tu tâm dưỡng
tánh, để sống hạnh phúc hơn
Ngô Nhân Dụng