Cơn mưa nhiệt đới nghiêng xám khoảng trời chiều phi trường
Tân Sơn Nhất. Từng hạt nước thô tháp rơi lộp độp xuống mặt đường nóng nảy bốc
hơi, quyện vờn trên mặt nhựa đen loáng nước. Hai người công nhân phi cảng vui mừng
với món tiền lớn lăng xăng làm việc. Họ vội vã phủ tấm bạt nhựa lên chiếc quan
tài bọc kẽm rồi đứng chắn mưa cho bà chủ bằng hai chiếc dù căng lớn như lọng.
Người đàn bà Việt kiều ngồi im lặng giữa đống hành lý trên băng ghế gổ đặt cạnh quan tài. Bàn tay thon thả trắng xanh vịn hờ lên mặt nhựa đen phủ trên cổ áo quan lấm tấm nước. Khoảng đường bay sướt mướt im lìm trong màn mưa giăng như khúc xa lộ buồn lặng lờ nỗi nhớ. Nhìn bầy bong bóng nước thoắt vỡ tan bà nghĩ đến những đóa hoa nở vội từ một bài hát cũ, lòng hụt hẫng nỗi buồn của thoáng chốc lìa tan, mông lung tạm bợ nẻo về.
Sau hơn ba mươi năm, đây là lần đầu tiên vợ chồng trở về quê
hương từ sau một ngày cuối tháng Tư lìa bỏ tất cả, trốn tìm tự do. Chuyến đi
không định, lụp chụp bất ngờ để làm tròn lời hứa với người mẹ chồng lúc trối
trăn.
Người chồng dõi mắt ngó lung phi đạo còn loáng nước. Trời vừa
dứt mưa, bất chợt như lúc đến. Mây tan từ phía cuối đường bay nhường chỗ cho
ánh mặt trời rọi chiếu lên những vũng nước đọng lóng lánh trời xanh. Mưa vẫn đến
rồi đi vào buổi chiều ở Sài Gòn, bất chợt, thủy chung. Những hạt mưa lóng lánh
kỷ niệm, mát mặt ướt lòng. Từng giọt nặng đau thương mà cần thiết cho cuộc trở
về. Lòng ông vun lên nỗi xúc động gặp lại niềm thân thiết tang thương cũ. Từ
trong ngút ngàn kỷ niệm, lãng đãng những mảnh đời phung phá hoa niên và một mùa
chinh chiến đã xa, người đàn ông bắt gặp mình trên nẻo về, rũ bụi phong trần
sau cơn mưa chiều bất chợt, ngồi lại lắng nghe những bồi hồi xưa cũ trong từng
nhịp đập tim mình.
Ông đăm chiêu nhìn cổ áo quan phủ bọc hình hài người mẹ. Vì
thương con cháu nên phải chịu đời lưu dân nhưng trong lòng mẹ vẫn mãi quay quắt
một cõi về vĩnh cửu bên cha. Còn ông? Có phải ông đang trở về? Hay chỉ là chợt
tỉnh phù du giữa cơn mê chiều bởi giọt nước mát đọng trên ngón tay ông lay buồn
gõ nhịp lên nắp cổ quan tài.
Quê hương một thuở lớn lên. Vẫn mãi trong lòng ông hình ảnh
chiếc chiến hạm chập chùng trên vùng biển phía ngoài phá Tam Giang. Bãi cát
xuôi dài về phương Nam nhẫn nhục nằm yên nghe cơn cuồng nộ của biển. Quê cha
trong đó, sau độn cát hoang vu gợn theo gió trời, lặng dài kỷ niệm.
Tháp chuông nhà thờ Thanh Hương cao vút trong nắng chiều cuối
năm. Tiếng chuông vọng bay quyện bước chân người xuống tận bến đò Ðại Lược chào
đón cháu con về quê ăn Tết. Chưa hết háo hức sau chuyến xe đò từ Bến Ngự về
Ðông Ba, bầy trẻ nhỏ đứng bên cha chờ xuống ghe ở bến đò Gia Hội. Đứa bé ngập
ngừng từng bước chân nhỏ trên tấm ván hẹp để vừa kịp rơi vào tay mẹ đang đứng
chờ dưới lòng thuyền. Ðò đi hết nửa ngày sông mới ra tới làng. Dọc theo đường
quan tiếp nối những ngôi nhà thờ họ lớn nhỏ, lăng mộ ôm quanh. Hoa cỏ may bay
đùa trong gió thơm quyện khói hương.
Đã bao năm rồi mộ cha nằm giữa quê làng mà vẫn quạnh quẽ lạc
loài. Ông xúc động mường tượng tới lúc đưa mẹ về sum họp với cha trên bờ đất tổ
trắng phau triền cát. Hồ như có tiếng chuông nhà thờ ngân vọng trên bến
đò loáng ánh trăng xưa.
Sài Gòn sau cơn mưa tươi mát như cô gái vừa tắm gội xong.
Dãy phố bán cây kiểng phía ngoài cổng phi trường rực rỡ từng hàng chậu hoa dọc
hai bên đường nhộn nhịp người xe. Vợ chồng đã xa quê hơn nửa tuổi đời mình mải
mê nhìn cảnh phố phường lạ lùng trước mặt. Trong bất giác ngón tay người vợ khẽ
lay động như muốn bấu víu chút hiện hữu khẽ khàng vừa quen vừa lạ, cùng lúc với
cảm giác bâng khuâng về một nỗi buồn không tên ùa đến bủa vây. Dòng xe cộ tất tả,
vội vàng như đám rước nhấp nhô, chìm lẫn, huyên náo chẳng ngơi.
Len lách hồi lâu xe mới qua khỏi Thủ Đức. Xa lộ vắng hơn, thỉnh
thoảng vài chiếc xe đò qua mặt bóp còi inh ỏi.
– Anh hay thật. Xe cộ đông đúc, chạy bất kể lề luật giao
thông như thế thì tôi chịu thua.
Người tài xế xe thuê bao chuyến ít nói, lắc đầu thở phào, giọng
nói miền Trung chất phác.
– Anh chị không biết chớ tui mém chạy lạc mấy lần. Lái loanh
quanh, may sao xe qua Ngã Tư Hàng Xanh mới định hướng được xa lộ Thủ Đức
Người đàn ông hỏi thăm về lộ trình, giờ giấc chuyến đi rồi đồng
ý với đề nghị của người tài xế. Họ sẽ nghĩ qua đêm ở Phan Thiết, rồi sáng mai
khởi hành thật sớm thì mới có thể về tới làng ở mạn Bắc của Phá Tam Giang trước
khi trời tối.
Trên chuyến bay đưa di hài mẹ về nước, vợ chồng bàn với nhau
sẽ đưa tiền nhờ bà con trong làng xây mộ cho mẹ. Từ nhiều năm nay mẹ vẫn gom
góp gởi về nhờ họ xây lăng đắp mộ chồng và dựng từ đường. Chưa kịp vui với niềm
vui trở về thăm lại làng xưa, người chồng đã sững sờ nhìn mộ cha thiếu người
chăm sóc, xây đắp sơ sài nứt rạn và ngôi từ đường cổ xưa xuống cấp, mái cong đắp
vá tiêu điều. Nhìn đám người bà con đon đả nói cười trên thềm nhà khang trang
cao ráo của họ xây giữa mẫu vườn trồng cây bạc hà, vợ chồng đã hiểu ra. Tội
nghiệp mẹ. Bà mừng mỗi khi gởi đồng tiền tằn tiện của mình về, yên bụng tưởng
đã lo được cho chồng có mồ yên mả đẹp, từ đường tiên tổ yên ấm khói hương.
Vợ chồng quyết định trực tiếp hợp đồng với một nhóm thợ chuyên
nghiệp, có uy tín lâu năm ở làng Kế Môn. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn.
Ông giao kèo với họ nếu hoàn thành công trình đúng kỳ hạn sẽ được thưởng thêm
mười phần trăm tiền lương. Ngôi mộ mới của mẹ được xây cạnh mộ cha cũng được chỉnh
trang theo cùng một kiến trúc, đồng thời ngôi từ đường được lợp mái mới và sơn
quét lại.
Mười ngày làm việc nặng nhọc rồi cũng qua nhanh. Buổi chiều
lúc đứng thắp nhang khấn vái trước lăng mộ mẹ cha vừa sửa xây xong, lòng người
chồng nhẹ nhàng vừa hoàn thành được việc lớn trong đời. Cùng lúc là cảm giác buồn
buồn trôi dài trong trí tưởng. Tâm trạng mất mát cứ theo ông suốt buổi tối. Ông
nói với vợ muốn nghỉ qua đêm một mình trong từ đường lần cuối với mẹ cha trước
ngày hai người cùng về quê vợ ở Hội An.
Người đàn ông ngồi dưới mái hiên ngôi từ đường, tần ngần
nhìn trăng khuya tròn vạnh tỏa chiếu ánh vàng qua tàng cây sầu đâu trước
sân. Trăng rớt từng mảnh sáng lên nền gạch lót vụng về tạo nên những đường
bóng tối đứt quãng, gãy góc không đều. Mắt chưa kịp quen với múi giờ bỏ quên từ
hơn ba mươi năm trước nên chừng hai giờ sáng là ông thức giấc nằm đếm canh trường.
Trong gian từ đường im lặng, ông không ngớt suy nghĩ về những ngày tất bật vừa
qua.
Tiếng chim lẻ loi sột soạt đâu đó dưới mái hiên ngoài khiến
ông tỉnh hẳn. Khêu cao ngọn đèn dầu trên bàn thờ, ông thở dài phủ một phần khăn
điều lên hình mẹ cha lờ mờ soi dưới ánh sáng vàng ủng từ bóng điện câu treo lơ
lửng giữa trần nhà rồi mở cửa bước ra ngoài. Trăng vời vợi khuya, thoát vượt và
thanh thản. Có bóng chim vừa vỗ cánh bay bỏ lại lằn dây điện còn chao động, rũ
chùng qua màu trăng bàng bạc buồn thiu. Chỉ còn vài giờ ngắn ngủi nữa con đành
để mẹ ở lại với cha trên vùng quê hương mà suốt những năm cuối đời mẹ luôn thăn
thỉ muốn về. Ông không an tâm mấy về số tiền vợ ông trao cho người bà con nhờ
chăm nom phần mộ mẹ cha nhưng chẳng còn cách nào hơn. Chút nôn nóng bỏ đi và nỗi
buồn sắp rời xa mẹ khiến lòng ông cũng chênh vênh lơ lửng như trăng.
Hai vợ chồng dừng lại trên đỉnh đèo Hải Vân. Buồn phiền
trong lòng ông chợt tan biến nhường chỗ cho cảm giác phiêu linh, phiêu diêu lúc
lâng lâng nhìn mây nước quyện nhau từ chốn lưng trời. Nỗi xúc động lạ lùng mà
quen thuộc từ bao đêm xa xứ lăn trở chiêm bao rần rật trở về theo tiếng gió trời
mênh mang kỷ niệm. Ông bàng hoàng nghe trong nắng đèo gió núi câu thơ cũ bồi
hồi.
Tôi về ngậm ngải tìm mơ. Trầm em hương vọng cuối bờ thơ
ngây. Bóng tà huy đọng mây ngàn. Đèo xa quán lú sương bàng hoàng rơi…
Nỗi lòng bối rối bâng khuâng như thuở nào thanh xuân có lần
đứng trên đỉnh đèo mưa giăng nhìn về phía núi vừa đi qua mà lòng tự hỏi, phân
vân biết bao điều về đời mình.
Sự luân chuyển của mùa theo thời gian trôi xuôi cùng thinh sắc
ảnh hình khiến nơi chốn dồn đọng vào trong từng nỗi nhớ, im lìm mà bền chặt như
những tảng màu lạnh của một bức tranh tỉnh vật. Người đứng nhìn đọt núi vói trời
rồi vọng theo ngàn mây trôi mà mãi hoài tìm kiếm cho mình giấc mộng trùng
khơi. Từ bao năm xưa, trên đá cũ lũy thành cheo leo quan ải, có lẽ gió
núi vẫn thổi chạnh lòng người lính thú hiu hắt nỗi lòng trấn thủ lưu đồn, mãi đợi
chờ một tin nhạn, một bóng quần thoa xa xôi truông phá. Hằng trăm năm sau, hôm
nay cũng có người lưu xứ trở về qua ải quan xưa lộng gió, mường tượng lại đời
mình và những giấc mơ xưa.
Cậu học trò Huế hiền lành, chăm chỉ sống theo ước vọng của
cha mẹ. Mạ vẫn thường thăn thỉ, con phải ráng học, thi vô cho được cái trường ở
khu Morin rồi ra làm thầy người ta thì mới thoát được cái cảnh ngày hai buổi
cong lưng đạp xe đi làm thợ may ngoài phố như cha.
Chiến tranh rồi biến cố tết Mậu Thân đã đưa đẩy cuộc đời của
chàng sinh viên năm thứ hai đại học vào ngã rẽ không ngờ và mối tình đầu vừa
ươm tưởng sớm héo tàn.
Ðường Trần Thúc Nhẫn, ngả về chợ Bến Ngự, gập ghềnh bước
chân cậu học trò vô tư chợt thơm lựng mùi bông trang, bông bưởi trong khu vườn
Viễn Ðệ đưa hương vào những đêm trăng từ ngày có cô học trò Quảng Nam ra trọ học.
Tình đầu rộn ràng cơn lốc cuộn xoay bốn mùa của đất trời vào trọn một mùa tình
đơm mật ngọt.
Dáng em ngồi học bài, tóc ngắn rơi hờ lên trang sách để
nghiêng nghiêng hàng dậu ướp hương đêm mắt ai đăm đắm tự tình. Không gian lắng
đọng, thời gian ngừng trôi, chỉ còn bước chân sè sẹ vườn đêm, mơn đọng hương
mùi ngải cứu. Còn lại bát ngát đêm và mắt em ngước nhìn lai láng trăng sao. Cô
học trò xứ Quảng níu tà áo lụa Duy Xuyên bước xuống đò ngang, cuống quýt buổi
chiều Thừa Phủ. Cô gái nhìn dòng sông Hương lặng lờ uốn khúc lòng nghe nhịp đập
con tim hòa điệu với chàng trai hàng xóm buổi hẹn đầu.
Huế sau tết Mậu Thân rõ mắt nhìn tang thương đổ nát, phân
tán chia lìa. Không còn những ngày sinh viên hào hứng la cà ở Trương Định hay
phố Trần Hưng Đạo. Cà-phê Lạc Sơn rộn ràng lớp người gươm súng, áo trận rằn ri.
Một số đông bạn bè đã vào Đà Nẵng hay Sài Gòn để trốn lính hoặc đi lính. Một số
thì ngưỡng mộ quyền năng sinh sát của nhóm người từ núi về, tay lỡ nhúng chàm để
thỏa chút bồng bột oan khiên của một thời tuổi trẻ cũng đã kéo nhau vào núi. Chỉ
còn anh và nhóm nhỏ bạn bè ở lại thành phố. Từng chiều rời rạc bước chân qua
triền dốc của chiếc cầu đoạn đành gãy nhịp. Vại cầu cong oằn buồn chúi vào nhau
như lòng người đi trên cầu lo lắng về một tương lai không lối thoát.
Lệnh động viên nhập ngũ hối thúc bên lưng, ba mạ thương con
đã thuyết phục gởi anh vào vùng giải phóng qua sự móc nối của người quen để tạm
lánh một thời gian chờ hòa bình đến. Anh từ giã gia đình bỏ phố ra đi, lòng ngổn
ngang bao nỗi buồn lo cho cuộc sống xa lạ sắp tới và nỗi thương nhớ người yêu
không biết bao giờ gặp lại. Nỗi sợ hãi điếng người khiến anh nằm co quắp suốt
chuyến đò chèo từ Văn Thánh lên Tuần. Tiếng nước vỗ mạn đò dồn dựt theo từng
mái dầm chèo quẩy ngược dòng khiến anh có cảm giác tất cả đang bỏ anh trôi xa dần
theo dòng nước về xuôi. Ý nghĩ buồn bã khiến anh hoảng hốt, chới với ôm mặt
khóc.
Cuộc sống ở khu giải phóng không như anh tưởng tượng. Sinh hoạt
đoàn thể khắt khe, ngoài giờ canh tác, đào hầm vót chông vất vã, là hội họp phê
bình, kiểm điểm liên miên. Bạn bè sinh viên dưới phố thỉnh thoảng gặp nhau, ai
nấy đều giữ khoảng cách, nhìn nhau bằng ánh mắt nghi ngại. Chẳng tìm đâu ra
hình ảnh hào hùng của chàng trai bỏ phố lên rừng đi làm cách mạng, chỉ là những
gã du kích dốt nát, lầm lì biết cầm súng AK lên đạn lảy cò. Sau lần suýt
chết vì bom và lính Quốc gia càn quét, anh rùng mình ớn sợ nhìn thi thể người bạn
học tưởng đã tìm được chỗ sống an thân. Sự thất vọng càng khiến anh nhớ phố, nhớ
nhà, quay quắt nhớ người yêu. Trong những cơn mưa chiều từ một đầu sông xa lạ,
hình ảnh cô sinh viên tóc ngắn, áo lụa vàng đạp xe tới trường mỗi sớm mai hiện
ra rõ rệt khiến anh ngồi đứng không yên.
Trong một lần được giao công tác làm giao liên đón người lên
bưng, anh bỏ trốn về Huế qua ngã Nguyệt Biều. Những ngày vui về với gia đình, với
người yêu qua nhanh trong lúc tương lai vẫn mờ mịt bế tắc. Trường lớp vắng
vẽ buồn hiu. Thượng nguồn sông Hương bơ phờ dáng núi không phải là chỗ dung
thân. Quán cà phê nhỏ gần cầu Bến Ngự dưới chân con dốc đi về Từ Đàm anh thường
ngồi vào những buổi tối là nơi anh đã quyết định chọn hướng tương lai. Ngả
đời anh lựa trong lúc cùng đường trở thành cuộc sống sôi nổi anh chẳng hề biết
mà mơ. Anh vào Hải quân, đi du học, về nước, hải hồ đầu sông cuối biển vẫy
vùng. Không lâu sau ngày người yêu tốt nghiệp về dạy học ở phố nhà Hội
An, anh cũng dừng bước giang hồ xin chuyển về đơn vị đóng ngay Cửa Đại, về “xin
em chỗ trọ hiên ngoài lạnh sương”.
Thế rồi dòng nước sông Thu cuối tháng Ba bảy lăm lại đẩy người
vào cuộc truân chuyên, trôi tuốt khơi xa qua bên kia biển. Còn chi đêm trăng
Thuận Tình hoang mờ cát vàng Xuyên Thọ. Vùng đầm sông nối biển, trộn nước nguồn
với nước biển Ðông là dấu mốc oan khiên mặn xát hồn lưu xứ. Người lính đứng
trên con tàu di tản ngoái nhìn doanh trại bốc cháy mà lòng tơi bời mối chung cuộc
nhục vinh. Đôi vợ chồng son vừa cưới nhau xong hai ngày trước ở Hội An. Cô
giáo trẻ vội vàng lạy tạ mẹ cha trong ngày cưới để kịp theo chồng. Hai đứa
em nhỏ đứng khóc dưới mái hiên nhà, trông theo bóng anh chị biền biệt khuất xa.
Cuộc tùng phu định mệnh dài suốt kiếp lưu vong, khóc ròng những ngày đầu xa xứ.
Giọng nói thân thuộc của vợ những lúc bị lúng túng, khó xử
khiến ông ngoái nhìn về phía nhóm phụ nữ bán hàng đang bu quanh nàng. Người vợ
muốn mua tấm bản đồ Việt Nam bán rong trên đỉnh đèo. Người chồng bật cười nhìn
nàng đối phó với cả ba chị bán hàng ai cũng tranh bán cho bằng được món hàng của
mình. Cuối cùng thì bà Việt Kiều đành phải mua cả ba tấm với giá cắt cổ để khỏi
phải bị nghe rỉa rói vì đã rỡ hàng “me xưa” mà không mua. Những tấm bản đồ được
in từ nhiều năm trước, tấm nào cũng có đủ Hoàng Sa, Trường Sa, Ải Chi Lăng,
thác Bản Giốc, suối Phi Khanh. Rồi ai sẽ “liệu bồi” mảnh giang san gấm vóc này
?
Xe về tới Ngã Ba Đi Huế, qua Phước Tường lúc trời vừa quá
trưa. Người chồng nhìn dãy quán ăn dọc theo phố chợ, gạ gẫm.
– Tô cháo cá ăn ở Lăng Cô, xe qua đèo xóc qua xóc về tiêu hết
rồi. Có ai muốn dừng lại ăn trưa không hè? Tui bao!
Người vợ nhìn chồng, cười châm chọc.
Nôn nóng về Hội An, nàng nài nỉ chồng rồi bảo người tài xế
nhấn ga cho xe chạy nhanh hơn. Xe qua những địa danh quen thuộc mà cảnh thì ngơ
ngẩn, lạ lùng. Cẩm Lệ. Cầu Đỏ. Miếu Bông… Vừa vào tới thị trấn Vĩnh Điện, người
tài xế vội vã tấp xe bên lề đường theo lời người vợ. Nàng xuống xe đứng nhìn
con phố vắng. Ngôi trường trung học nằm nhỏ nhoi bên bờ quốc lộ. Sân trường lặng
lẽ hàng phượng đã qua mùa bông, chói chang mấy hàng khẩu hiệu dọc theo hiên lớp.
Kỷ niệm một phần đời son trẻ ùa tới vương víu bước chân cô giáo mới ra trường
ngày khai giảng năm dạy học đầu làm mắt chợt cay.
Cơn mưa tầm thu đón người về như sương giăng lối vào Hội An.
Từ quán ăn nhỏ nhìn qua bên kia con lộ những liếp cải trổ vàng sau màn mưa bụi.
Con đường vắng ngấm mưa, thỉnh thoảng vài chiếc xe thồ chạy qua, tiếng máy xe
cũng còm cõi như người. Người đàn ông trầm ngâm, mường tượng con đường trong
mưa vắt qua trí nhớ đơn độc bóng người từ bao năm cũ.
Những ngày cuối năm sáu tám, gã sinh viên bỏ nhà, bỏ Huế mà
đi. Anh dự định ghé Hội An từ giã người yêu rồi vào Sài Gòn tìm cách sống trong
đó, kẹt lắm thì mới đi Thủ Đức. Anh lo bấn ruột lúc chiếc xe đò chặng đường Ngã
Ba Đi Huế vào Hội An bị chận lại. Không xa ngã ba từ Vĩnh Điện rẽ vào thị xã là
trạm kiểm soát của cảnh sát và quân cảnh. Chỉ phụ nữ và người lớn tuổi được ngồi
lại trên dãy xe đò sắp hàng đợi, còn đàn ông thanh niên phải lần lượt chờ tới
phiên lo ngại bước qua khung cửa hẹp của một cái hộp sắt lớn đen ngòm. Gã lính
Mỹ ngồi sau ô cửa tò vò, bận bịu với những nút bấm điều chỉnh trên chiếc máy
trước mặt. Anh ta cố làm ra vẻ thân thiện nhưng nụ cười nấp sau bộ râu vàng hoe
xồm xoàm và dáng người to lớn chỉ làm sự lo sợ hiện rõ hơn trên cặp mắt cúi gằm
lúc bàn tay lấp ló run rẩy thò qua cửa tò vò, rụt rè áp lên mặt kim loại mát lạnh.
Người sinh viên bước ra khỏi chiếc hộp sắt. Anh ngại ngần đi
vào trạm kiểm soát theo dấu tay của viên cảnh sát cầm súng đứng gác bên ngoài.
Trong góc trạm một nhóm thanh niên nét mặt đầy vẻ lo âu, đứng ngồi lố nhố. Người
nữ sĩ quan cảnh sát ngồi sau bàn giấy bận rộn với sổ sách và những câu nói bằng
tiếng Anh ngắn gọn qua điện thoại, Anh lo lắng đoán ra. Tùy theo kết quả nhận
được từ chiếc hộp sắt, người nữ sĩ quan sẽ ra hiệu để người bị xét được cho đi
thẳng hay phải vào ngồi chờ trong trạm.
Anh nghe gọi tên, đến ngồi trước bàn giấy. Cô gái xinh đẹp
trong bộ quân phục màu thiên thanh, hoa mai thiếu úy vàng rực cầu vai. Nàng
chăm chú nhìn thẻ sinh viên của anh rồi khoanh tay trước ngực thẩm chừng dáng dấp
thành phố của người thanh niên ngồi đối diện .
– Tui vô dự bị trước anh hai năm. Học dốt quá bị ông Hai đuổi,
phải đi lính.
Giọng cười hiền sau câu nói đùa qua giọng Huế ngọt ngào của
người sĩ quan giúp anh bớt lo lắng đi nhiều.
– Chắc chị thích chớ con gái đâu có bị động viên mô mà phải.
Người nữ sĩ quan liếc nhanh về phía nhóm thanh niên ngồi ở
góc phòng, thấp giọng nói nhỏ.
Thời gian chờ đợi trì trệ trôi qua. Nhóm thanh niên trong trạm
thèm thuồng nhìn theo những người được cho đi đang hớn hở rảo bước qua trạm.
Người sinh viên nhìn những quân nhân phóng xe gắn máy trên đường ra vào thị xã.
Anh chợt ước sao mình là một người như họ để giờ này không phải ngồi chờ đợi,
lo âu về một bất trắc không lường. Anh nghĩ tới bạn bè đã nhập ngũ một đôi năm
trước, đứa nóc trời cuối biển, đứa truông phá đèo xa sống hiên ngang chẳng sờn
lòng lúc phải chạm mặt số phần. Anh nhớ lại những ngày làm thân cỏ mọn nhỏ nhoi
trong vùng giải phóng, tuy ngắn ngủi cũng đủ để anh nhận ra sự lầm lẫn và vô
ích của nó. Anh nghĩ tới cuộc sống chui rúc, trốn tránh sắp tới. Anh muốn được
an thân, nhưng có thể nào gọi đó là cuộc sống bình yên? Cô gái dáng vóc thon thả
ngồi sau bàn giấy, mái tóc nửa-con-trai duyên dáng dưới chiếc nón calo màu da
trời. Người nữ sĩ quan nhỏ nhắn mà nghiễm nhiên với trách nhiệm và quyền lực có
thể quyết định tương lai của bầy đàn ông trong đó có anh đang thấp thỏm đứng ngồi
chờ đợi.
Cô ngoắc tay ra hiệu một thanh niên ngồi sâu trong góc phòng
đứng dậy.
– Các anh sẽ lần lượt được xét nghiệm lần thứ hai. Cái máy
“bắt Việt cọng” ngoài kia sẽ dò ra thực sự các anh là ai. Đây là cơ hội cuối
cùng, ai xin ra đầu thú ngay bây giờ sẽ được hưởng xử theo chính sách chiêu hồi
của chính phủ.
Từng người miễn cưỡng bước vào chiếc hộp sắt nhưng rồi ai nấy
đều được “máy” thả cho đi, vui mừng bước mau qua khỏi trạm kiểm soát. Một
lúc sau trong trạm chỉ còn người sinh viên ngồi giữa hai người đàn ông có lẽ đã
qua độ tuổi động viên. Lúc một người vừa bước khuất vào hộp sắt thì người kia vụt
đứng dậy chạy bương qua khoảnh ruộng phía sau trạm. Anh hoảng hồn nghe tiếng
súng nổ rồi chỉ vài phút sau người chạy trốn đã bị hai cảnh sát vũ trang bắt lại.
Tay bị còng chặt, anh ta ngồi bệt giữa trạm khóc lóc phân bua. Người nữ sĩ quan
đứng trước mặt gã đàn ông lắc đầu.
Xe cảnh sát áp giải người bị tình nghi vừa lăn bánh thì một
chiếc jeep nhà binh thắng gấp trước trạm.
Một sĩ quan Hải quân bước vào trạm, cười giả lả.
Người nữ sĩ quan nghiêm mặt nhìn anh sinh viên đang ngồi chờ
ở góc trạm.
– Anh vô đo lại đi. Nhớ hít thở vài hơi thật sâu và đều trước
khi áp tay lên máy.
Khoảng cách giữa trạm kiểm soát và cái hộp sắt chỉ là mảnh
sân nhỏ vài chục bước chân vậy mà anh tưởng chừng xa lắm. Anh bước đi, đầu óc
trào trộn từng khuôn mặt lạ quen và tiếng khóc cười thật gần tưởng còn rung
vang âm vọng. Thế rồi sự mát lạnh của không khí điều hòa trong cái hộp sắt bất
chợt giúp anh tỉnh táo đến lạ lùng. Hình ảnh, âm thanh mới chừng hỗn độn chợt
chìm xuống mất tăm. Giữa vùng cát mịn của trí tưởng anh chợt thấy chính mình hiện
ra rất lạ và anh cảm thấy hài lòng. Anh cười với người lính Mỹ có khuôn mặt non
choẹt nấp sau bộ râu cá chốt xồm xoàm. Anh bập bẹ câu tiếng Anh.
– Tôi sắp sửa vào quân đội, lần tới qua đây chắc tôi không cần
phải đi qua cái hộp sắt này.
Anh chàng lính Mỹ cười lớn, chúc mừng. Lúc người sinh viên về
lại trạm kiểm soát, người nữ sĩ quan cũng vừa gác máy điện thoại. Cô tươi cười
trả lại thẻ sinh viên cho anh.
Anh quay nhìn viên sĩ quan Hải quân vẫn còn đứng chuyện trò
với cô em họ.
Anh Sử tốt nghiệp trường sĩ quan Hải Quân ba năm trước, mới
thuyên chuyển về căn cứ Cửa Đại sau thời gian đi tàu tuần dương. Anh vui tính,
dí dỏm kể về những vui buồn của tháng ngày hải hồ.
Anh Sử cười rộ lúc người sinh viên không ngăn được tò mò hỏi
về câu trách cứ của người nữ sĩ quan lúc anh mới bước vào trạm kiểm soát.
– Chú mày nhớ đừng có sớn sác với mấy O Thiên Nga. Nhất là O em họ của moa. Đai đen judo đó!
Bé hạt tiêu, chọc O giận là từ chết tới bị thương. Thiên Nga là một biệt đội
tình báo của Cảnh sát. Anh Sử nhìn người thanh niên cười, nửa đùa nửa thật… Bí
mật bị tiết lộ, chắc niên trưởng phải giết chú mày để bảo vệ an ninh quốc gia!
Tiếng cười anh Sử
trong trí nhớ lồng lộng dọc dài ba mươi năm kỷ niệm kéo người đàn ông rớt về với
hiện tại. Sau lần gặp gỡ tình cờ, hai người trở thành bạn thân qua tình đồng đội
trong thời gian chung đơn vị ở Cửa Việt. Ông nghĩ tới lần gặp lại anh Sử mấy
tháng trước trong cuộc họp mặt của Hải quân ở Nam California. Vẫn giọng cười
hào sảng qua bao nổi trôi dâu biển đổi dời.
– Anh làm sạch hết
hai tô mì Quảng, bộ chưa no sao mà nãy giờ anh ngồi bần thần như người mất hồn
rồi chợt cười khang?
Người đàn ông cầm
tay vợ, mắt không rời con đường mưa trước mặt nhìn vẫn cũ kỹ như trong những giấc
chiêm bao.
– Không biết đời
mình đã như thế nào nếu không gặp phải chuyện tình cờ năm đó?
Nhìn ánh mắt xa
xăm của chồng, người vợ lại nghĩ tới kỷ niệm dễ thương vẫn luôn nằm sẵn trong
trong trí nhớ nàng.
Người vợ nhìn chồng,
cười nói ba hoa để ngăn cơn xúc động.
Người đàn bà vịn
vai chồng đứng dậy. Nàng trìu mến nhìn anh.
– Em muốn đi thiệt
mau cho hết con đường này. Về lại Phố, thăm lại nhà xưa để thấy mình đang thật
sự trở về.
Ngoài đường mưa bụi
thôi bay từ lúc nào. Người vợ nói như reo.
– May quá! Đêm
nay rằm, trời không mưa, đèn lồng treo khắp phố tranh sáng với trăng, mình tha
hồ mà ngắm.
Chiếc xe từ từ
lăn bánh vào lòng Phố. Ý nghĩ trở về mái nhà xưa giữa đêm trăng đèn làm người
đàn bà chợt run lên nỗi hạnh phúc diệu kỳ. Đã biết bao mùa nắng mưa hưng phế vậy
mà mái phố tường rêu vẫn còn đó, tưởng xanh hơn. Sức mạnh nào đang cầm giữ được
nét trường tồn của Phố? Hay chính là tình yêu từ trái tim chân thành của
con người Phố Cổ mảnh mai, tròn vẹn thủy chung. Như trăng khi khuyết khi đầy vẫn
mãi là trăng. Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy. Đời chúng ta là mấy
trăng tròn (Bùi Giáng)…Suốt dọc đời lưu xứ chúng ta sống, đợi chờ, mơ ước
trong nỗi tình hoài vọng Quê Hương theo một chu kỳ tựa trăng khuyết rồi đầy. Cứ
thế chúng ta già nua theo thời gian, chờ đợi mảnh trăng sơ huyền dậy thì, mãn
nguyệt, ngón tay run chỉ bóng trăng đầy và linh hồn luôn vọng về một Quê Nhà
thương thuộc…
Mơ màng phố cũ
hoang liêu.
Cánh buồm con
sóng sương chiều Hội An.
Tờ mây chan chứa
mộng vàng.
Tuổi đời em kết
mấy ngàn cánh hoa.
Mừng vui giọt
tuổi chan hòa.
Bước đi từ đó
gió xa bay về… (Bùi Giáng)