Thưa cách đây gần 50 năm, nghĩa là nửa thế kỷ, nghĩa là lâu
lắm rồi, ngày tui mới về với em, nghĩa là em mới cưới tui.
Hi hi! Xin mở ngoặc ở đây một chút về tiếng Việt sau nầy
trong nước! Tui thường đọc thấy mấy ông nhà báo quốc doanh viết rằng: “Hoa hậu
X, Y gì đó cưới chồng!” Thưa, tiếng Việt mà tui học hồi năm nẳm, thầy, cô tui dạy
rằng: “Trai cưới vợ; gái lấy chồng!” Chớ tui chưa hề thấy gái cưới chồng bao giờ
cả! Hay là tại vì xa quê đã lâu, tiếng Việt của tui giờ đã rỉ sét, đã lạc hậu hết
rồi chăng? Không theo kịp với trình độ của những nhà văn thời ôn dịch?
Thôi thì cho rằng em cưới tui đi, để cho tui lên giá một chút, chớ già rồi cái gì cũng xuống hết trơn hết trọi hè!
Lấy chồng dạy giáo, cho dù mình dốt đặc cán mai, hổng biết chữ
Nhứt một, đám học trò ra đường gặp mình, bao giờ cũng giở nón cúi đầu: “Thưa
cô! Bộ hổng khoái hay sao?” Hai là vì tui dạy Sử, Địa, nghĩa là chuyện hồi xưa
không hà. Giáo sư Sử Địa ai cũng bị bịnh nghề nghiệp, mê cổ vật; nên cho dù sau
nầy em yêu trở thành bà già, già háp, xấu, má hóp da nhăn! Hề gì? Càng già tui
lại càng yêu, càng trân quý! Bộ hổng khoái hay sao? Hổng thấy Vương Hồng Sển
tiên sinh, chuyên sưu tầm cổ vật, sống với em yêu là Bà Năm Sa Đéc suốt 4, 5 chục
năm mà tình đôi ta vẫn còn nồng như hồi mới cưới hay sao?
Em yêu của tui thông minh hết sức nhe! Vậy mà bấy lâu nay
tui cứ tưởng là em lù khù, ai dè em vác cái lu mà chạy!
Thưa bà con!
Tết nghe câu vọng cổ Út Trà Ôn: Gánh nước đêm trăng để nhớ
con bồ cũ mà tui từng gánh nước giùm em mấy trăm “đôi” rồi sau đó em cặp “đôi”
với thằng khác!
Nghe vọng cổ đã rồi qua nghe tân nhạc: “Đêm nhớ về Sài gòn…
thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi, những con đường thèm đôi chân vui, đã bao
lâu chờ đợi, đường im nghe quá khứ trong sầu, đường chia ly vẫn ngóng tin nhau,
tình lẻ loi canh thâu…”
Mấy ông nhà nhạc nầy nhớ Sài Gòn, là nhớ phố nhớ phường; vì
xưa tối ngày mấy ổng cứ đi long nhong ngoài đường, rồi vô quán cà phê nghe nhạc
của chính mình viết mà người khác hát để… “Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa, ánh
đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa, ai sầu trong quán úa… Để bóng mẹ hiền mờ mờ
bên song, mắt người tình một trời mênh mông, gợi bao nhiêu cho cùng…”
Thưa tui cũng nhớ Sài Gòn như mấy ổng vậy; nhưng nhớ vì tò
mò. Tui nhớ nhứt là cái đường Da Bà Bầu mà trên đường đó, ông Nhạc trẻ Trường Kỳ
hồi xưa, sau qua Canada viết báo, từng nói nhà tui ở đấy đó nhe. Chu choa người
ta ở mấy con đường đẹp và thơ như Duy Tân, Tự Đức hoặc giàu như ở Tú Xương, người
ta khoe là quá phải. Ổng ở đường Da Bà Bầu mà ổng cũng khoe?
Song, nghĩ cho kỹ! Mấy ông viết báo phải có cái đề tài gì độc
nhứt vô nhị trên chốn giang hồ, bài viết mới ăn khách, không lo đụng hàng hay
chôm của người khác trên web. Cả ngàn ông ký giả, chỉ có Trường Kỳ là ở đường
Da Bà Bầu thì khoe là cũng phải quá rồi!
Xin tầm chương trích cú để thỏa mãn cái óc tò mò của một tay
nhiều chuyện như tui, Da Bà Bầu hổng phải là da của bà bầu đâu, mà là quán của
một bà tên Bầu (hay đang có bầu) dưới gốc một cây Da. Bà con miền Nam mình gọi
là cây Da, bà con miền Bắc 54 mình, như ông Trường Kỳ gọi là cây Đa. Nếu cho ổng
đặt tên thì Da Bà Bầu nó sẽ thành Đa Bà Bầu (để thiên hạ tưởng rằng đàn bà con
gái trên đường nầy ai cũng ôm một bụng bầu hết ráo… thì càng thêm báo).
(Cây Da trốc gốc trôi rồi! Em xa người nghĩa đứng ngồi không
an. Hay cây Da trước miễu, ai biểu cây Da tàn… Bao nhiêu lá rụng thương chàng bấy
nhiêu! Dù sau 75, cây Da tàn và chàng đã bỏ nàng, vọt mất tiêu rồi!)
Cây Da thân lớn, tàn lớn, chống mưa bão phẻ re hè! Nếu cây
Da không nằm cạnh bến sông là khó lòng trốc gốc lắm; nên bà Bầu mở cái quán dưới
tàn cây Da nầy vừa mát vừa phẻ trong cái nóng bức của cái đất Sài Gòn.
Thưa xa quê từ độ đứt phim nên bà con mình lúc buồn tình hay
đem cuốn phim cũ ra mà chiếu lại. Mấy tay tai to mặt lớn, có trách nhiệm nhiều
về cái vụ mất nước nầy thì viết hồi ký để phủi trách nhiệm: “Hổng phải tại tui!
Mà tại Trời xui khiến nên đôi mình mới xa?!” Còn bà con nào hơi “bèo” bởi con
nhà nghèo, không chức tước danh phận gì ráo thì chiếu lại tuồng cũ như Vàm Kinh
Cũ, nếu em xưa ở gần một bến sông. Còn anh nào dân chợ, đi đường lộ đá xanh đã
quen chưn, thì viết Con Đường Cũ.
Nên tui cũng bắt chước quý ông anh viết về con đường tình ta
đi, cho nó có tụ, vui với người. Vui đâu hổng thấy, tui chiếu phim cũ, vô tình,
sót một khúc là bị rầy: Chẳng qua khi viết bài về:
Đề ơi lúc chiều về mình đánh con dê,
Mà sao đề lại xổ con kê (tức con gà) hỡi đề!
Tui có nhắc tới đường Trần Hưng Đạo B mà bị rầy quá
xá.
Ông bạn văn của tui vốn là bà con, cháu chít chừng mấy mươi
đời vương của Trần Thượng Xuyên, ở Cù Lao Phố, Biên Hòa, vì ủng hộ Nguyễn Ánh
nên bị nhà Tây Sơn dợt cho một trận lên bờ xuống ruộng. Đại Phố điêu tàn phải
chạy về Chợ Lớn làm ăn buôn bán tiếp. Vừa là tác giả vừa là độc giả mà thằng chả
khó dàn trời mây đi. Giả bắt lỗi là tui viết Trần Hưng Đạo B là hổng có được.
Con đường nầy là do Vi Xi nó đặt ra năm 1976, hổng phải thời mình, nên ảnh hổng
có chịu.
Trần Hưng Đạo B nầy là cái đường Đồng Khánh, thời Việt Nam Cộng
Hòa mình, chạy từ đường An Bình mút chỉ vô tới Chợ Lớn.
“Tui sanh đẻ ở đó nè ông Nội!” Ảnh nói với tui như vậy đó bà
con ơi!
Anh muốn đem tên con đường xưa em đi, đường Đồng Khánh, vô
bài viết của tui mới được. Bạn bè mà! Muốn là chiều! Thế là tui lại tầm chương
trích cú từ ông Vương Hồng Sển, ông Bình Nguyên Lộc tới ông Sơn Nam. Toàn là những
‘bồ’ kiến thức về đường phố Sài Gòn mà ngộ cái là… hổng có ông nào sanh đẻ tại
Sài Gòn hết ráo!
Ông Vương Hồng Sển dân Sóc Trăng! Ông Bình Nguyên Lộc dân Đồng
Nai, Biên Hòa (Lộc của ổng là con nai đó bà con ơi)! Còn ông Sơn Nam (không ở
trên núi) mà tuốt miệt Gò Quao, Rạch Giá!
Thưa, trở lại thời Tây chiếm đóng! Sài Gòn và Chợ Lớn bị
ngăn cách bởi một vùng đầm lầy. Từ Sài Gòn vô Chợ Lớn, đi đường Route Haute (Đường
Cao) tức đường Hồng Thập Tự, chạy trên đồi cao, nối với Route Basse (Đường Thấp),
chạy ven đầm lầy, tức đường Nguyễn Hoàng vào những năm 60.
Mãi tới ngày Mùng 9 Tháng Chạp năm 1913, Tây lục lộ mới xây
xong con đường thứ hai, đặt tên là Đại lộ Sài Gòn-Chợ Lớn băng qua vùng đầm lầy.
Cuối năm 1916, Đại lộ nầy đổi tên là Đại lộ Galliéni, tên một viên tướng Tây có
công trạng với Thực dân Pháp vừa mới đi chầu ông bà ông vải. Đại lộ Galliéni bắt
đầu từ đại lộ Bonnard (tức đường Lê Lợi, trước chợ Bến Thành), chạy tới đường
An Bình, nối với đường des Marins, tên thời Tây, sau đó chánh phủ mình đặt tên
là đường Đồng Khánh!
Vi Xi không khoái Vua Đồng Khánh nhà Nguyễn nên đổi tên khúc
đường nầy là Trần Hưng Đạo B để tiếp tục đi vào Chợ Lớn. Do đó nếu anh bạn
văn Tàu lai của tui hổng chịu tên Trần Hưng Đạo B thì anh cự tụi nó! Sao lại quay
qua cự tui hè? Thưa, tụi nó bây giờ đặt tên đường phố lôm côm lắm! Tui đâu có
dám binh mấy cái chuyện ngu ơi là ngu nầy đâu.
Chớ hồi xưa chánh phủ VNCH mình đặt tên đường đâu ra đấy, lớp
lang thứ tự, hợp lý chớ đâu có loạn xà ngầu như bây giờ. Chẳng hạn từ bến
xe Miền Tây vô Chợ Lớn trước, mình có Hồng Bàng, An Dương Vương, Triệu Đà, Bà
Triệu… rồi thì có Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục… Cứ thế vào càng gần trung tâm
thì càng gần hiện tại như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi… Nhà Nguyễn mới vãn hát
không lâu, lại càng gần trung tâm hơn nữa như: Nguyễn Hoàng, Minh Mạng, Tự Đức
cùng chư tướng như Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Lê Văn Duyệt… Các bến sông thì
có Vạn Kiếp, Hàm Tử… lớn nhất tên Bạch Đằng… Nơi mà quân ta đã thủy chiến mấy
trận làm Tàu phù… phù mỏ hết ráo!
Thưa! Tên đường là chuyện lớn, chuyện quan trọng, chớ không
phải là chuyện giỡn chơi. Vì nó có cất giữ biết bao nhiêu là kỷ niệm của những
người con xa quê, viễn xứ như chúng ta. Anh bạn văn, đường Đồng Khánh, hỏi tui
Tết nầy có về Sài Gòn ăn Tết hay không? Tui trả lời: “Tui chỉ về khi nào không
còn đường Trần Hưng Đạo B nữa mà phải là đường Đồng Khánh mới được!” Chi vậy?
Vì tên đường năm cũ, tui mới quen, mới thuộc, mới biết đường lại nhà anh, kiếm
tiền lì xì và nhậu chơi. Còn cầm bằng tên đường cũ mất rồi vẫn không phục hồi
trở lại, mà tui ham vui về, sợ đi lạc, bị xe bắt chó bắt thì tội nghiệp cho con
vợ của tui lắm nhe!
Đoàn Xuân Thu