Hồi tôi học lớp bảy, trường có phong trào làm báo tường mừng
Xuân. Vì lớp không có ban Báo Chí nên tên lớp trưởng kiêm hết mọi chuyện, kêu gọi,
gom bài. Hắn gặp tôi tại sân trường cuối giờ hôm đó:
– Bà ráng viết một vài bài cho báo tường lớp mình nha!
Tôi cũng hơi chảnh:
– Để tui suy nghĩ rồi trả lời ông sau.
– Suy nghĩ gì nữa! Mà nè, bà phải gọi tui là anh mới đúng,
vì tui hơn bà một tuổi.
Tôi trề môi dài cả thước:
– Còn lâu! Học chung lớp, ai cũng như nhau.
– Nhưng tên của tui là Nguyễn Anh Nuôi, bà nhớ chưa?
Sự thực mà nói, hắn ta hiền khô, hay cười trừ mỗi khi có
chuyện bế tắc, nhưng tại vì cái lý lịch “dân tập kết”, nói giọng nửa nam nửa bắc,
đôi khi làm tôi khó chịu, không muốn kết thân. Lúc ấy “giải phóng” đã bốn năm rồi,
tôi đã qua cái thuở thơ ngây chưa biết gì về thời cuộc, nhất là vừa mới chứng
kiến ông anh thứ tư của tôi đậu đại học vẫn phải đi “nghĩa vụ quân sự”, rồi đào
ngũ trốn chui trốn nhủi, sau đó may mắn vượt biển qua được Songkla, Thailand.
Trường tôi vì gần khu quân sự nên thời điểm đó đón nhận một mớ học sinh là con
của các gia đình cán bộ tập kết, hoặc từ bên kia vỹ tuyến tràn vào, mà nghe cái
tên thôi cũng đoán được lý lịch của từng đứa. Lớp kế bên có hai anh em sinh đôi
Nguyễn Văn Thống Nhất, Nguyễn Văn Hữu Nghị (hãi chưa?) Rồi còn có Phạm Trường
Sơn, Trần Nam Tiến, rồi Vũ Huân Chương (chắc ba nó là Vũ Bằng Khen quá!), thậm
chí có cả Đoàn Tiệp Khắc, Võ Việt Xô nữa cơ (thật là hùng tráng tình quốc tế
anh em). Tuy nhiên, trong cả đám học sinh miền ngoài đó, chỉ còn lại tên Anh
Nuôi lớp trưởng khá hiền lành nên tôi còn “giao lưu”, nói chuyện.
Nói gì thì nói, viết văn là sở thích của tôi từ thuở bé. Tôi
còn nhớ, lúc ấy báo chí chưa có nhiều, chỉ có vài tờ nhật báo, trong đó có tờ
Sài Gòn Giải Phóng. Mỗi thứ ba hằng tuần, tờ báo có trang dành cho thiếu nhi,
giới trẻ. Tôi và một đứa bạn cũng mày mò, viết bài, bỏ vào phong bì, ra đầu xóm
mua con tem, ghi địa chỉ toà soạn, rồi mang ra bưu điện gửi, và sau đó thấp thỏm
đợi chờ. Nên chuyện báo tường chỉ là chuyện nhỏ, tôi viết một mạch về mái trường,
về lớp học, về bạn bè thầy cô, trong vài ngày là xong. Tôi hào hứng đưa tên lớp
trưởng hai đoản văn tản mạn. Hắn nhận xong, hỏi tôi:
– Bà nè, tui mới về trường năm nay, nên chưa rành vụ báo tường,
bà nói sơ sơ cho tui nghe coi.
– Thì tìm mua một tấm giấy cứng màu trắng, khổ rộng, rồi để
tất cả các bài trên đó, trang trí cho đẹp vào.
– Vậy thì đâu có bao nhiêu bài?
– Ngáo ạ! Mỗi mục có thể có vài bài là các trang giấy chồng
lên nhau, như những tờ lịch xé vậy đó, người xem chỉ việc lật lên lật xuống.
– Mà cần những mục gì?
– Thôi ông hỏi nhiều quá, lên văn phòng mà hỏi thầy Hiệu
Phó. Tóm lại, các mục tiêu biểu là Thơ, Văn, Tạp Bút, Truyện Cười, Lượm Lặt Đó
Đây, Dưới Mái Trường, tuỳ mình chế ra mục nào mình thích nữa.
Gần tới ngày treo báo cho toàn trường ngắm thì hắn tuyên bố
lớp 7A1 của chúng tôi sẽ không có báo, vì không kịp thời gian.
Hắn khai thật với tôi:
– Thiệt tình là tui đã cố gắng, đã họp với mấy tên biết vẽ
trong lớp mình, nhưng cuối cùng chẳng ra đâu vào đâu. Hơn nữa, đến giờ phút này
chỉ mới nhận được… hai bài của bà thôi à, làm sao ra nổi tờ báo??
Hắn nói vậy thì tôi nghe vậy, hơi thất vọng chút xíu, chớ biết
sao bây giờ, vì thời hạn đã cận kề, chỉ có trời mới giúp được. Đến ngày khai mạc
báo tường, tôi hớn hở cùng bạn bè đi xem các tờ báo lớp khác. Bỗng tôi thấy hai
bài của mình trên báo tường lớp sáu và tác giả ghi bên dưới là Nguyễn Anh Thư,
chính là em gái thằng lớp trưởng. Tôi giận run người, nổi cơn điên, đến phòng
hiệu trưởng mách thầy giáo phụ trách Báo Chí và chạy đi gặp hắn, để sỉ vả một
trận. Sân trường giờ ra chơi biết tìm hắn nơi đâu? Chạy ra sân banh thì thấy hắn
đang co giò chuẩn bị một cú sút phạt đền vào lưới đối phương. Nhìn thấy tôi tiến
tới với bộ mặt trời gầm, đất lở, hắn làm liền cú sút bóng, nhưng trái bóng bay
thẳng qua xà ngang, lọt ra ngoài hàng rào sân trường. Hắn đỏ mặt, chạy về phía
tôi, là tôi trút ngay cơn giận vào hắn:
– Nè ông! Tại sao hai bài của tôi có mặt trên báo tường lớp
6A1 dưới tên của em gái ông?
Hắn nhễ nhại mồ hôi, vẫn bình tĩnh gãi đầu, và cười trừ:
– Tui không biết! Chắc là nó lấy trộm trên bàn học của
tui.
– Nói vậy tưởng tui tin sao?
– Thiệt đó! Tui không biết, thôi bà đừng giận nữa.
Không để hắn nói hết câu, tôi gằn giọng:
– Kể từ ngày hôm nay, à mà không, kể từ giây phút này, ông
nhớ tránh xa tui ít nhất là ba mét nhé, nếu không thì đừng trách tui hung dữ!
Nói xong cho hả cơn giận, tôi đùng đùng bỏ đi, mặc kệ hắn đứng
như trời trồng giữa sân banh nắng gắt.
Đó là chuyện của xa lắc xa lơ, còn tiếp theo là chuyện mới
đây, khi ở bên Canada xứ lạnh tình nồng. Những năm trước, khi còn là thành viên
của Ban Quản Trị Hội Người Việt Edmonton, tôi phụ anh Hội Trưởng, kiêm trưởng
ban Báo Xuân xem xét các bài vở trước khi layout. Bữa đó, có một bài thơ được gửi
từ Saskatoon, nhưng đó lại chính là bài thơ của tôi đã từng đăng trên Báo Xuân
Hội Người Việt những năm trước đó. Giờ bài thơ được sửa lại vài chữ ở vài câu,
và đề tên tác giả mới. Sau khi tìm hiểu, được biết tác giả là một chú “có tuổi”,
cũng có hoạt động cộng đồng ở vùng Saskatoon, tôi bàn bạc với anh Hội Trưởng, rồi
bắt đầu gửi email: “ Cám ơn chú đã sửa lại bài thơ của cháu hay hơn, nhưng rất
tiếc là chúng cháu không thể đăng bài thơ này nữa vì nó đã được đăng cách đây
vài năm”.
Tưởng đọc email xong thì chú ấy im lặng cho xong, ai ngờ chú
ấy email lại, phủ nhận:
“Ồ, vậy là chúng ta tư tưởng lớn gặp nhau. Riêng bài thơ này
tôi đã làm từ chục năm trước rồi cơ!” (Ngầm ý là chú ấy mới chính là tác giả).
Không muốn đôi co với người lớn tuổi, tôi lại bàn bạc với
anh Hội Trưởng, và gửi tiếp email: “Dạ, cháu biết tư tưởng giống nhau trong văn
chương là chuyện bình thường. Tuy nhiên, Ban Biên Tập vẫn quyết định không đăng
(lại) bài thơ này! Mong chú thông cảm”.
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ hồi đó trong xóm tôi, có chị kia
đi đánh ghen chồng ngoại tình. Chị đến tận nhà tình địch, gõ cửa, và y như rằng,
có chồng chị ở trỏng. Vậy mà chồng chị giải thích anh ta đến đó để… trả nợ tiền
làm ăn cho cô kia. (Còn tại sao “trả nợ” phải vào phòng đóng cửa thì không thấy
nói). Chị hàng xóm của tôi thuộc loại lạt lòng, nên bỏ qua, không làm lớn chuyện,
vợ chồng vẫn vui vẻ như chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng chị có tuyên bố một
câu: “Đờn ông hả? Khi họ sai lầm, phạm tội, bằng chứng rành rành, nhưng việc đầu
tiên là họ vẫn luôn luôn chối”.
So sánh với hai “sự cố” của tôi, cũng thấy… quen quen! Bây
giờ nhớ lại, tôi không còn nổi cơn sừng sộ như cô bé tuổi 13 hoặc bực bội của
tuổi “chớm… sồn sồn” như xưa nữa. Ngược lại còn thấy vui, vì nhờ vậy tôi mới có
bài viết này và có những kỷ niệm vui để mỗi khi đến Ngày Phụ Nữ mà kể tội...
đàn ông.