Tuổi học trò là tuổi mang nhiều kỷ niệm khôn nguôi. Chúng ta
nghĩ về thuở xa xưa đó như nghĩ về sân đá banh, suối Đốc Học, suối Mu-ri
(Maury), thác Nhà Đèn, hồ Piscine, hồ Trung Tâm hay cột đèn ba ngọn, kể cả con
chim, con dế, một thứ keo dính chặt trong trí nhớ học trò. Hồi xa xưa đó chắc
ai cũng nhớ những ngày đầu rụt rè theo cha mẹ đến trường, có đứa còn đái dầm, đứa
ỉa đùn, có đứa khóc nhè, đứa thò lò mũi xanh. Bậc mẫu giáo là bậc đầu đời của
tuổi thơ đi từ chỗ ê a vỡ lòng cho đến chỗ biết đọc, biết viết như một phép lạ
thần kỳ. Học đường là những bậc thang tiến thân trên đó mỗi năm nhà trường đòi
hỏi sức học của con em để bước lên lớp cao hơn hầu mai sau làm người hữu ích
cho xã hội, cho nước nhà.
Trước năm 1975, thị xã Ban Mê Thuột có nhiều trường lớp, từ mẫu giáo tới tiểu học lên trung học, công tư thục. Thuở đó, Ban Mê Thuột không có trường đại học. Trường mẫu giáo thì hầu như ở địa phương nào cũng có. Một ngôi Đình, một ngôi Chùa, một ngôi Nhà Thờ, kể cả tư gia cũng có thể mở vài ba lớp học vỡ lòng. Thầy giáo thường là những ông thầy già nghiêm khắc dạy học trò chữ nghĩa kèm theo roi vọt.
Tôi còn nhớ như in về ngày đầu tiên của tuổi thơ đến trường
mẫu giáo Rạng Đông. Đầu thập niên 1950, trên đầu dốc ngã ba Tôn Thất Thuyết -
Ama Trang Long là nơi sinh hoạt nhộn nhịp của bến xe ngựa. Từ bến xe ngựa theo
con đường đất đổ dài xuống suối Đốc Học, tới lưng chừng dốc phía bên trái là
trường mẫu giáo Rạng Đông của thầy Phán, người Bắc lai Pháp, lũ học trò chúng
tôi thường gọi là "ông thầy già" (về sau có thêm thầy Chiều, con trưởng
của thầy Phán phụ dạy), phía bên phải con dốc có một dòng suối chảy ngầm dưới
lòng vực sâu ngày đêm rì rầm đổ xuống suối Đốc Học.
Cái thời xa mịt mù xa trong quá khứ ấy, thầy giáo trị con
nít học trò lười biếng, ngỗ nghịch bằng đòn roi. Tội nghiệp tuổi thơ ham ngủ đến
trường trễ thường bị phạt, Trong giờ học, ngủ gục hoặc cười đùa, nghịch ngợm vô
tư, không bị đứng khoanh tay trong góc lớp thì cũng bị quỳ sơ mít, chưa kể bị
roi mây quất trên đầu, trên cổ, trên lưng hoặc bị thước bảng đánh vào lòng bàn
tay, đánh trên mu bàn tay hoặc đánh trên năm đầu ngón tay chụm lại; về nhà tha
hồ bà nội bà ngoại vừa xức dầu vừa xuýt xoa thoa bóp vết thương cho thằng cháu
học trò mặt mũi còn ngờ nghệch, thơ ngây. Hiện nay, việc đánh đòn đã bị các nước
cấm vì ảnh hưởng xấu đến trẻ em.
Học xong mẫu giáo tôi lon ton lên tiểu học. Hồi xưa, lớp nhỏ
nhất của bậc tiểu học là lớp năm (còn gọi là lớp Đồng ấu), rồi lớp tư là lớp Dự
bị, lớp ba (Sơ đẳng), lớp nhì, cuối cùng là lớp nhất. Khác với ngày nay lớp năm
là lớp một, lớp nhất là lớp năm. Năm năm mài đũng quần trên ghế nhà trường cũng
có nhiều kỷ niệm đáng nhớ.
Ngày đầu tiên đến trường, ngoài áo quần mũ dép mới, còn có
chiếc cặp-táp nho nhỏ. Trong cặp đựng sách, vở, thước kẻ, cục phấn, bảng đen, cục
gôm, giấy chậm. viết chì, viết mực và lọ mực xanh hoặc tím có khoen đeo vào
ngón tay. Học trò đi học không có cây viết giống như Tề Thiên không có cây thiết
bảng. Cây viết mực hữu ích biết chừng nào, nó góp phần quan trọng trong việc học
vấn của học trò nói riêng và con người nói chung.
Cây viết chấm mực, từ thuở ra đời vào thế kỷ thứ XIX đến nay
vẫn thủy chung theo ta đi vào kỷ niệm cho đến cuối đời. Cây viết này làm bằng gỗ
sơn hai màu có lỗ gắn ngòi viết, khi viết thì chấm vào bình mực, nếu ngòi bị rè
có thể thay ngòi khác. Về ngòi viết chấm mực, ở bậc tiểu học có ba loại ngòi viết:
ngòi viết lá tre, ngòi viết bầu và ngòi viết bắp chuối. Hầu hết học trò tiểu học
thường dùng ngói viết bầu và ngòi viết bắp chuối hơn là ngòi viết lá tre vì đầu
ngòi nhọn hay bị xóc giấy. Bình mực còn gọi là lọ êke bằng nhựa. Bình có hai lớp,
lớp trong đựng mực gắn liền với lớp ngoài hình phễu trên to dưới nhỏ. Khi vào lớp
học trò đặt bình mực vào một cái lỗ khoét sẵn trên bàn học cho khỏi đổ mực ra
bàn.
Cũng cần nói thêm bàn học gắn liền với ghế ngựa dài khoảng
2m vừa đủ để bốn trò ngồi chung một bàn. Bàn học có hộc để cặp-táp, sách vở,
trên mặt bàn có khoét bốn lỗ để đựng bình mực êke. Học trò tiểu học thường hay
nghịch ngợm, phá phách, sôi nổi với tiếng dội ngàn thu: "Nhất quỷ, nhì ma,
thứ ba học trò". Tôi còn nhớ có lần tiếng trống trường báo giờ học, học
trò sắp hàng hai trước sân lần lượt đi vào lớp. Đang lục đục ngồi xuống ghế chợt
nghe có tiếng thét của một trò bưng đít nhảy dựng lên mếu máo khóc bù lu bù loa
làm cả lớp giựt mình. Thì ra anh học trò chung bàn ngồi xuống trước với ý đồ cầm
cây viết dựng đứng chờ bạn mình vô tình ngồi xuống để ngòi viết đâm lủng đít
chơi cho vui. Tuổi thơ hồn nhiên đến thế là cùng. Thuở đó, học trò không được
xưng mày tao chi tớ mà phải xưng với nhau bằng "trò".
Nổi tiếng nhất thị xã Ban Mê Thuột là trường tiểu học Nguyễn
Công Trứ nằm ở góc đường Tôn Thất Thuyết và Phan Bội Châu, phía sau trường là
Đình Lạc Giao và chợ Đê sát với chợ cá bên tay phải, giáp với đường Quang
Trung. Trường cất theo hình chữ U gồm những dãy nhà trệt, tường gạch, mái ngói.
Hiệu trưởng trường Nguyễn Công Trứ là thầy Lê Hữu Giáp (chồng cô Trang). Cô
Nguyễn Thị Trang làm Hiệu trưởng từ năm 1957, sau khi thầy Giáp mất. Đến năm
1960 trường Nguyễn Công Trứ chia làm trường nam tiểu học và trường nữ tiểu học.
Trường có hai buổi học (Kinh Thượng đề huề). Buổi sáng dành cho học trò nam, buổi
chiều là học trò nữ. Sau đó trường nữ tiểu học dời về đường Bà Triệu (gần trường
Trung học BMT) và đổi tên thành trường Nữ tiểu học Bà Triệu. Cô Nguyễn Thị
Trang là Hiệu trưởng trường này cho đến ngày mất nước. Hiệu trưởng trường nam
tiểu học là thầy Đỗ Minh Giảng và Lưu Quý Chiểu. Nét văn hóa dễ thương của ngày
xa xưa đó là "tiên học Lễ, hậu học Văn" nên học trò rất ngoan, chăm
chỉ học hành và biết kính trọng Thầy Cô (Tôn Sư Trọng Đạo).
Đặc biệt giữa sân trường tiểu học Nguyễn Công Trứ có một cây
cầy trăm năm*. Gốc cây to khoảng sáu bảy người ôm, có nhiều rễ phụ chằng chịt,
cành lá xum xuê vươn lên cao ngất, phủ mát cả một mảng sân trường. Giờ ra chơi
hầu hết học trò đều tụ quanh gốc cây, nô đùa, chạy nhảy, cò cò, u mọi, nhảy
dây, chọi banh, thảy lỗ và… uýnh lộn. Vào những đêm mưa to gió lớn, cây cầy thường
bị sét đánh. Nghe đồn cây cầy trăm năm thường có ma quỷ nên người ta đặt trên
chảng ba một cái miếu nhỏ trừ tà. Ngày nay, trường tiểu học Nguyễn Công Trứ và
cây cầy không còn nữa, được thay thế bằng khu chợ búa.
Ngoài ra còn có các trường như trường tiểu học Nguyễn Du
dành riêng cho học sinh người Thượng, nằm trên đồi hướng xuống suối Đốc Học,
bên kia đường là Biệt Điện Bảo Đại. Trường tiểu học Thánh Tâm cất theo hình thập
tự giá. Trường tiểu học La San nằm sau nhà thờ chánh tòa (giáp với trường nữ
Vinh Sơn, sau dời về đồi Đức Mẹ). Trường tiểu học Độc Lập. Trường tiểu học cộng
đồng Hưng Đạo. Trường tư thục Sông Hồng. Trường tiểu học quân đội Lam Sơn bằng
gỗ dành riêng cho con em quân nhân v.v…
Học hết năm năm tiểu học thì lên trung học đệ nhất cấp. Lên
trung học thì cây viết chấm mực được thay bằng viết máy bơm mực (bảnh nhất thời
đó là viết parker); nhà trường cấm học sinh dùng viết nguyên tử vì ảnh hưởng đến
chữ viết. Bậc trung học phổ thông có các trường như trường trung học Bồ Đề trên
đường Phan Bội Châu, do các thầy Trụ trì chùa Khải Đoan thành lập, gồm các học
sinh nam nữ không phân biệt tôn giáo. Trường trung học Bán Công ở cuối đường
Hai Bà Trưng do thầy Lê Thanh Nhàn làm Hiệu trưởng. Trường nữ trung học Vinh
Sơn (cấp I và II) nằm trên đường Phan Chu Trinh gần ngã sáu, do các Soeur đảm
trách giảng dạy. Trường trung học Hưng Đức ở đường Độc Lập do linh mục Đặng Sĩ
Bình làm Hiệu trưởng. Trường tư thục Bạch Đằng ngay ngã tư Tôn Thất Thuyết -
Phan Bội Châu, ngó xéo qua trường tiểu học Nguyễn Công Trứ, đặc biệt có nhà thơ
Viên Linh dạy Việt văn. Trường Trung học Quận Ban Mê Thuột, thầy Nguyễn Văn
Phúc làm Hiệu trưởng. Trường trung học Nông Lâm Súc nằm gần cây số 5 trên đường
ra phi trường Phụng Dực. Trường trung học La San nằm trên đồi Đức Mẹ do các
frères giảng dạy, có tiếng dạy giỏi và kỹ luật nghiêm khắc. Sau này vì cần mở rộng
thêm trường nên xây thêm trường La San đồi, dời trường ra đó và nhận thêm nữ
sinh. Trường Kỹ Thuật Y Ut dạy kỹ thuật cho các học sinh người dân tộc thiểu số
, nằm cạnh trường tiểu học Nguyễn Du. Tất cả học sinh đều ở nội trú và được
nuôi ăn học miễn phí. Trường Sư Phạm bổ túc gần phi trường L19 và trường Sư Phạm
Cao Nguyên xây vào năm 1972 theo phong cách nhà rông của dân tộc thiểu số (nay
là trường Đại Học Tây Nguyên)… Trước 1975 thị xã Ban Mê Thuột không có cấp đại
học.
Trong các trường trung học kể trên, nổi tiếng nhất vẫn là
trường Trung học Ban Mê Thuột. Đây là trường công nên năm đầu tiên học sinh phải
qua một kỳ thi tuyển. Trường Trung học Ban Mê Thuột được thành lập vào đầu niên
học 1959-1960 do sự sáp nhập hai trường Trung học Kinh và Thượng tại Ban Mê Thuột:
– Trung học Y Jut (trước đây tên là Collège Sabatier năm
1946-1958) là một trường trung học dạy tiếng Pháp dành riêng cho học sinh người
Thượng, do thầy Đỗ Đức Riệu làm Hiệu trưởng.
– Trung học Nguyễn Trường Tộ thành lập năm 1955 là trường
duy nhất chỉ có một lớp Đệ thất, do thầy Đỗ Trọng Thạc làm Hiệu trưởng. Ngôi
trường đơn sơ này nằm ở khách sạn ông Nicolas, bên cạnh plantation café của dượng
tôi là ông Jean Maury, sau để lại cho ông bà Huấn. Niên học 1957-1958, thầy Phạm
Văn Đồng được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng chung cho hai trường Y Jut và Nguyễn Trường
Tộ, kết hợp học sinh Kinh Thượng dưới một mái trường chung là trường Trung Học
Ban Mê Thuột. Năm 1968, trung học Ban Mê Thuột đổi tên thành trường Tổng hợp
Ban Mê Thuột. Gọi là Tổng Hợp vì nhà trường khởi dạy thêm các môn như Canh
nông, Kế toán, Mỹ thuật, Đánh máy chữ, Nữ công gia chánh… Trường vẫn tọa lạc số
57 đường Bà Triệu.
Đi học ai cũng biết đồng phục luôn gắn liền đời sống của mỗi
học sinh, giúp tạo nên vẻ đẹp của tuổi học trò. Ở đây, đồng phục của trường
Trung học Ban Mê Thuột cũng thật đặc biệt. Nam sinh trẻ trung trong đồng phục
áo sơ-mi xanh dương, quần xanh đậm là ý thức truyền thống và là niềm tự hào độc
nhất vô nhị của nhà trường (trừ những ngày lễ mới mặc áo trắng). Đặc biệt nữ
sinh trong chiếc áo dài xanh quần trắng thướt tha, nổi tiếng với vẻ đẹp e ấp, hồn
nhiên là biểu tượng tinh khôi, là hình ảnh riêng của miền đất huyền thoại.
Hiệu trưởng Trường Trung học Ban Mê Thuột qua các thời kỳ gồm
có:
1959-1962: Thầy Phạm Văn Đồng.
1962-1964: Thầy Nguyễn Khoa Phước.
1964-1969: Thầy Nguyễn Khoa Tuấn.
1969-1971: Thầy Nguyễn Phước Quang.
1972-1974: Thầy Lê Văn Tùng.
Trường Trung học Ban Mê Thuột cũng là nơi xuất thân của những
cây bút tên tuổi, như nhà báo Lê Thiệp (mất năm 2013 tại Hoa Kỳ), nhà thơ Triều
Hoa Đại (Florida), nhà thơ Chinh Nguyên (San Jose), nhà văn Lê Hữu (Washington
state), nhà thơ Y Cao Nguyên (California), nhà thơ Như Thương (Florida), nhà
thơ Trần Huy Sao (San Diego), nhà văn Nguyễn Ngọc Chính (Việt Nam), nhà thơ
Hùng Bi (Việt Nam)… Đồng thời ngôi trường này cũng lưu lại hình bóng những người
lính Quân lực VNCH đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, như phi
công trực thăng Dương Đức Luân Đôn, em của chị Dương Thu Hương, phi công Nguyễn
Mạnh Dũng, con thầy Nguyễn Huy Quang dạy vẽ.
Trường trung học Ban Mê Thuột cũng là nơi tôi bỏ học rất sớm
và trở về rất trễ dưới hình thù một người lính xuất thân từ trường Sĩ Quan Trừ
Bị Thủ Đức. Tôi còn nhớ, năm 1970, vào những ngày cuối tuần không kẹt ứng chiến
trong đơn vị tôi hay tới trụ sở Du Ca Lòng Mẹ sinh hoạt với các bạn Du ca do
trưởng Nguyễn Quyết Thắng hướng dẫn. Một ngày hè trời ui ui, anh em Du ca chúng
tôi kéo nhau lên trường Trung học BMT sinh hoạt văn nghệ. Giăng bandroll trên
hàng hiên nhà trường với hàng chữ Du Ca Lòng Mẹ BMT bên cạnh huy hiệu Du Ca Việt
Nam, anh em đoàn viên hăng hái cất cao những khúc du ca đầy sức sống, thổi đến
trái tim người nghe những lời tình tự dân tộc, yêu quê hương đất nước hùng cường.
Tôi học năm 1960, thời của thầy Hiệu trưởng Phạm Văn Đồng.
Mười năm sau, 1970 là thời của thầy Hiệu trưởng Nguyễn Phước Quang, anh học trò
xưa trở về trường dưới hình thù một thành viên Du ca, cùng anh em hát những
khúc hát Du ca vạm vỡ tác động lên cuộc sống con người.
Từ đó, chiến cuộc ngày càng leo thang khốc liệt, tôi giã từ
bạn bè, anh em, một lần nữa từ biệt trường xưa tôi đi vào chiến tranh cho đến
ngày mất nước. Nước mất, nhà tan, tôi đi tù Cộng sản đến năm 1979 vượt biên ra
nước ngoài đến nay tôi vẫn chưa trở về cố hương lần nào.
Trường Trung học Ban Mê Thuột ngày xưa, với cổng trường xẹo
xọ, bùn đeo bụi bám, với dãy nhà trường hình chữ U mái ngói cũ kỹ, tường gạch
rêu phong, với phấn trắng bảng đen, với những cây phượng vỹ còn trẻ, với lá cờ
vàng ngạo nghễ bay trong mưa nắng giữa sân trường và Thầy Cô và bạn học - ngày
nay đã lùi sâu trong quá khứ xếp lại thành kỷ niệm khôn nguôi.
Tôi có một tật xấu, là ở tuổi về chiều tham dự "Ngày của
Thầy Cô", ngày Tôn Sư Trọng Đạo, tôi hay thò tay vào sâu trong quá khứ lục
lọi moi ra những hình ảnh kỷ niệm của thuở học trò. Chẳng làm gì ngoài việc ôn
cố và âm thầm mang ơn Thầy giáo Cô giáo đã dạy dỗ mình… biết đọc biết viết. Dù
mình chẳng là gì hay có là tướng tá, bác sĩ kỹ sư chi chi đó, nhưng biết
"chăm sóc" lòng biết ơn Cha Mẹ, nhớ ơn Thầy Cô mới là người đáng quý
trọng, mới đích thị là "nên người". Hơn nữa, những người học trò ngày
xưa nay đã già hết rồi. Có người còn đó và có người đã mất đi, huống hồ là Thầy
Cô. Thôi thì xin hẹn nhau mai này cùng về Việt Nam.
Hẹn một ngày mai tay nắm tay ta cùng lên đường
Cùng Thầy Cô xưa xin ghé thăm ngôi trường ta đó
Để cùng nghe ra hồn vẫn bay xanh ngoài lồng ngực
Để cùng nghe ra trường lớp như nghiêng vào câu thơ
Hẹn một ngày mai theo bước nhau ta cùng quay về
Tìm lại trên môi câu hát vang vang lời hành khúc
Tìm lại trong anh màu phấn phai rơi qua đời thường
Tìm lại trong em bài toán chia ra thành thân thương.