Sau 1975 những người còn ở lại miền Nam Việt Nam không biết
những ai đã nghĩ ra và những ai đã là người đầu tiên ra khơi vượt biển đi tìm tự
do, để cho dòng người đi sau tiếp nối không bao giờ ngừng nghỉ nếu các trại tị
nạn không đóng cửa chấm dứt chương trình cưu mang những người vượt biển.
Ai cũng mơ ước, cũng tính đường đi tìm tự do tùy theo hoàn cảnh
khả năng tài chính của mình. Bao nhiêu người đã may mắn đến bến bờ và cũng bao
nhiêu người bất hạnh bỏ xác ngoài biển khơi!
Tôi nhớ mãi một câu chuyện vượt biên dù đã mấy chục năm qua rồi.
Khoảng năm 1983 nhà tôi quay trở lại
bán cà phê và nước ngọt, lúc này công nhân viên của nhà máy Z751 (tức Lục Quân
Công Xưởng trước 1975) không đông đảo những nhân viên và lính tráng trước kia,
nhưng khách hàng vẫn khá đông là bà con lối xóm. Chú Bích là người hàng xóm hay
ra uống cà phê tại quán tôi. Nhà chú ở trong hẻm, bước ra khỏi hẻm đi vài căn
là tới quán cà phê nên rất thuận tiện cho chú. Lần nào ra quán chú cũng dẫn
theo thằng con út tên Báu khoảng 10 tuổi và gọi cho nó một chai nước ngọt, hai
bố con ngồi uống như hai người bạn, bố uống xong cà phê trước thì đợi thằng con
uống xong phần chai nước ngọt hai bố con mới ra về, dù nó vừa uống vừa nói
huyên thuyên với bố đủ thứ chuyện thật lâu.
Có lần hai bố con đang uống trong
quán thì thằng Báu thấy ông bán cá lia thia cá Xiêm dắt xe đạp đi ngang qua, nó
vùng chạy ra xem và đòi bố mua. Chú Bích bỏ dở ly cà phê đen nóng bước ra
ngoài, ông bán cá đã đứng lại đợi khách, thằng Báu ngắm nghía đã đời từng con
cá sắc màu đang bơi ngoe nguẩy trong những bịch ny lông đầy nước treo tòng teng
đầy trên khung dây thép cứng khoanh tròn chở sau xe của ông bán cá rồi mới chọn
cho mình 1 con cá Xiêm vừa ý, thằng bé khôn thật cá Xiêm đắt tiền hơn cá lia
thia và đẹp hơn, trẻ con nào cũng thích.
Khi trở vào quán ly cà phê của chú
Bích đã nguội tanh mà cả bố và con cùng vui. Chú thương con và chiều con lắm.
Thằng Báu giống bố, đẹp trai giống
bố. Hình ảnh hai cha con đi đâu cũng có nhau đã quen thuộc với tôi cũng như với
mọi người hàng xóm, ngay cả khi chú Bích mang chiếc xe đạp ra tiệm sửa xe thằng
Báu cũng lót tót đi theo, tôi cũng đang chờ vá chiếc xe đạp tại đây và nghe thằng
Báu nói với bố:
– Mai mốt con lớn con làm nghề sửa
xe đạp, sửa xe cho bố không lấy tiền,
Lời nói ngây thơ mà chí hiếu, tôi
nghe còn cảm kích nói gì chú Bích, chắc chú rất mát lòng. Hai cha con thật thân
tình và gần gũi như bóng với hình.
Chú Bích là đại úy của quân lực Việt
Nam Cộng Hòa, ngày 30 tháng Tư năm 1975 chú đang nằm điều trị tại Tổng Y viện Cộng
Hòa. Khi quân Việt Cộng chiếm bệnh viện và xua đuổi những thương bệnh binh chế
độ cũ ra ngoài, chú trở về nhà với vết thương điều trị dở dang. Nhưng nhờ thế
mà chú không thể đi trình diện tập trung “học tập cải tạo” được, ủy ban phường
đã cho chú Bích ở nhà dưới sự quản chế của địa phương, chú Bích không thể đi
đâu xa hay vắng mặt lâu được.
Mấy năm qua, từ ngày miền Nam bị
“giải phóng” chú Bích chỉ ở nhà, làm việc nhà trong khi vợ chú bôn ba làm việc
hết tổ hợp này đến tổ hợp khác để nuôi chồng và 3 con. Không ai hiểu vì sao chú
không đi làm khi sức khỏe đã tương đối khá. Vậy mà một hôm hàng xóm kháo nhau rằng
chú Bích dẫn thằng Báu đi vượt biên. Người đời thính tai và tinh ý thật, nhà
nào có ai đi vắng chẳng giấu được lâu, nếu một hai tháng không trở về thì một
là đi vượt biển trót lọt, hai là chết biển hay là vào tù.
Bởi thế có ai đó đã chế ra câu “Con
đi được con nuôi má, con chết biển thì nuôi cá và con ngồi tù thì má nuôi con”.
Xóm tôi thời điểm đó đã có hai gia đình có con đi vượt biển bị mất tích. Nhà bà
Tịnh đứa con gái đi chuyến tàu chưa ra tới khơi xa đã bị đắm, nghe đồn những
xác chết trôi tấp vào Mũi Né, Phan Thiết, bà Tịnh đã tất tưởi ra Phan Thiết ăn
chực nằm chờ thuê người đi tìm xác con gái mấy ngày mà không được. Nhà bà Trí
thì tang thương hơn, cả con và cháu là 5 người, họ ra đi biền biệt không một
tăm hơi gì. Bà Trí chờ mong tin và đau khổ đến héo hon gầy rộc đi như một xác mắm
khô. Nhưng bà vẫn can đảm một năm sau lại cho thằng con trai đi vượt biên tiếp,
chuyến này trời không phụ lòng bà, chuyến tàu nó đi đã cặp bến bình yên. Bà Trí
từng tuyên bố với người bạn thân: “ Tôi cho các con đi vượt biển để tìm tương
lai, các con đi được thì dù tôi có ra chợ ăn mày hay ai mang tôi ra chợ bắn chết
tôi cũng chịu”.
Tôi thông cảm cho hoàn cảnh chú
Bích lắm, vì gia đình tôi cũng đang “xây mộng” cho các em đi vượt biển nên cầu
mong nếu tin đồn ấy là sự thật thì hai cha con chú được bình yên đến nơi đến chốn.
Chú Bích không dẫn con đến quán tôi uống cà phê suốt hai tuần lễ liền. Có lẽ giờ
này hai cha con chú đang lênh đênh ngoài biển khơi rồi?
Bây giờ thì hàng xóm đã hiểu ra,
chú Bích không đi làm vì không muốn bị ràng buộc bởi công việc để dễ dàng toan
tính chuyện vượt biên. Nhà cô Bích thì cửa đóng then cài để tránh sự dòm ngó của
hàng xóm và công an khu vực.
Cho đến tuần lễ thứ tư thì hàng xóm
lại kháo nhau:
– Chú Bích đến đảo rồi.
– Hai cha con thật may mắn.
– Cũng may cho ông đại úy, ở nhà bị
công an quản chế, cứ mỗi tháng phải ra trụ sở công an trình diện một lần, đi
đâu phải xin phép, tù giam lỏng như thế ai mà chịu nổi, mấy năm qua tuy mang tiếng
là hết hạn quản chế nhưng công an khu vực vẫn thỉnh thoảng đến nhà thì khác gì
bị quản chế đâu.
Có bà không tin hỏi lại cho chắc
ăn:
– Sao bà biết là đại úy Bích đến đảo
rồi? mà đảo nào?
– Chẳng biết đảo nào, miễn là đến xứ
tự do. Sáng qua chính mắt tôi thấy cô Bích hớn hở nấu cà ri gà, chắc mấy mẹ con
ăn mừng vì được tin chồng vượt biên thành công.
– Sao bà biết cô Bích nấu cà ri gà?
Bà có vào bếp nhà cô Bích không?
Bà kia quyết liệt:
– Tôi đi chợ thấy cô Bích mua 1 con
gà và bó sả.
Một bà có mấy đứa con đi vượt biển
may mắn đến nơi đã tỏ ra hiểu biết:
– Nay mai cô Bích có điện tín thì
biết ngay, không đảo Bidong Mã Lai, thì đảo Galang Indonesia, không đến
Songkla Thái Lan, thì đến Phi Luật Tuân, Hồng Kông…
Thế là tin đồn bố con chú Bích đi
vượt biên đến nơi và ở nhà vợ chú đã nấu món cà ri gà ăn mừng bung ra, càng lúc
càng lan rộng, mấy người hàng xóm đến quán tôi uống cà phê truyền tai nhau thoải
mái thì làm gì mà công an khu vực và uỷ ban phường không biết. Công an phường
đã gọi cô Bích lên để chất vấn và dọa sẽ cắt hộ khẩu chồng con cô, cô Bích một
mực chối cãi nói rằng hai vợ chồng bất hòa cãi nhau rồi ông chồng giận dỗi mang
thằng út đi đâu cô không hề biết.
Tới giờ phút này thì khó có thể giấu
giếm được nữa, với niềm vui mừng cô Bích đã tâm sự kín đáo với vài người
hàng xóm thân là chú Bích và thằng Báu đi vượt biên, hai người cùng chuyến
tàu đã đánh điện tín về nên cô rất mừng, chỉ yên trí đợi điện tín của chồng gởi
về thôi.
Thế là tất cả những tin đồn đều là
sự thật, kể cả chuyện nhà cô Bích nấu cà ri gà ăn mừng. “Tình báo” hàng xóm thật
bén nhạy. Ngày nào cô Bích cũng mong chờ anh đưa thư đi qua, thậm chí nhà không
có thư cô Bích cũng vẫy anh đưa thư để hỏi thăm là có điện tín hay thư từ gởi đến
địa chỉ nhà cô không. Chắc cô Bích e rằng anh đưa thư để thất lạc tờ điện tín của
chồng cô đâu đó, vì mỗi ngày qua mà vẫn bặt vô âm tín.
Vài tháng đã trôi qua, niềm vui mừng
của gia đình cô Bích đã xẹp xuống bớt, cô băn khoăn và lo lắng ra mặt, ai hỏi
thăm thì cô chỉ trả lời đang chờ đợi điện tín của chồng, cô đặt nghi vấn là có
thể chú Bích làm mất chỉ vàng mang theo nên không còn tiền để thư từ hay đánh
điện tín nữa? Hoặc chú muốn làm gia đình bất ngờ đợi đến Mỹ mới báo tin chăng?
Cô Bích đã bám víu vào những lý do
mong manh ấy để hi vọng, để đợi chờ. Và rồi không ai dám lên tiếng hỏi thăm cô
Bích về tin chồng con của cô nữa, chỉ sợ làm cô hoang mang thêm và lo lắng
thêm. Nhưng cô Bích vẫn không ngừng hi vọng, cô vẫn chờ anh đưa thư mỗi ngày đi
qua nhà. Anh đưa thư quá quen thuộc với địa chỉ những người trong xóm, anh hiểu
thấu tim gan người ta, biết tâm lý của người ta, nhà nào có thư thường tức thư
nội địa trong nước Việt Nam thì anh làm xong nhiệm vụ một cách mau chóng, chẳng
trông mong gì, nhà nào có thư từ nước ngoài gởi về anh hớn hở mang tới và bao
giờ cũng nhận được tiền thưởng của người nhận thư dù chưa biết trong thư nói
gì. Nhất là nhà có người đi vượt biên gởi điện tín báo tin đã đến trại tị nạn
là anh càng lãnh thưởng nhiều, anh biết mình sẽ là người đầu tiên báo tin vui,
anh biết cách làm người ta sốt ruột mới chìa tờ điện tín ra.
Có lần anh mang tờ điện tín cho bà Sáu hàng xóm cạnh nhà
tôi, 2 đứa con bà đi vượt biên 4, 5 tuần lễ mà chưa có tin, gia đình bà như ngồi
trên chảo lửa, anh đưa thư thong thả chống chân xe đạp và càng thong thả mở cái
túi đeo trên vai đựng đầy thư từ rồi lại thong thả nói khi cả nhà bà Sáu đã đứng
trước mặt anh nãy giờ:
– Ai ra ký tên nhận giùm, điện tín
từ Mã Lai nè.
Cả nhà bà Sáu cùng vỡ òa niềm vui mừng
không cần giấu giếm, nhận tờ điện tín và dúi vào tay anh đưa thư một nắm tiền
không cần đếm. Sau này anh đưa thư sắm xe Honda loại xịn đi đưa thư chắc là nhờ
anh ky cóp những bổng lộc này.
Anh đưa thư đã mang tin vui đến cho
nhiều người, nhưng nhà cô Bích thì không, nhìn vẻ mặt cô Bích hi vọng và thất vọng
mỗi ngày khi không có thư từ, anh đưa thư cũng mủi lòng, anh né không dám đi
ngang qua nhà cô Bích nữa mà đi lòng vòng lối khác để giao thư cho được yên
thân. Tôi hỏi điều này thì anh đưa thư xác nhận:
– Tôi không nỡ nhìn cô Bích thất vọng
chị à, mỗi lần thấy tôi cô Bích không hỏi nữa chắc vì cô ngại đã hỏi nhiều lần
mà không có gì, nhưng cô vẫn nhìn tôi với ánh mắt chờ mong.
Tôi chỉ biết thở dài:
– Cô Bích cũng có lý chứ, biết đâu
tin vui đến muộn? Không lẽ người đi cùng tàu đến nơi mà cha con chú Bích không
đến nơi.
Đã nhiều lần cô Bích đến hai gia
đình họ hàng bên chồng có người thân đi cùng chuyến tàu với chồng con cô để hỏi
thăm tin tức nhưng vẫn không biết gì hơn. Rồi họ đã đi định cư ở nước ngoài do
được bảo lãnh từ lâu mà cô Bích vẫn chưa nhận được điện tín của chồng. Điều bí ẩn
ấy bao trùm lên gia đình cô Bích và hàng xóm suốt nhiều năm trời.
***
Năm 1991 gia đình tôi sang Mỹ định cư diện HO.5, và hơn 10
năm sau tôi tình cờ bắt liên lạc được với người bạn thân cùng xóm tên Hằng sống
ở Houston, Texas. Hằng di tản sang Mỹ từ năm 1975, Hằng là cháu ruột của chú
Bích. Sau những lần chuyện trò hỏi thăm nhau từ quá khứ đến hiện tại kể từ khi
biến cố 1975, tôi mới chợt nhớ ra và hỏi Hằng về chú Bích và đã biết sự thật
đau lòng.
Cha con chú Bích đi vượt biên cùng
hai người cháu họ, chuyến tàu chở hơn 70 người bị lạc hướng lênh đênh nhiều
ngày trên biển, xăng dầu, thực phẩm và nước uống dự trữ hầu như cạn kiệt, thuyền
trôi tự do và chờ chết chùm, không chết vì biển thì cũng chết vì đói khát, mọi
người lo sợ khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện ngày đêm tùy theo tôn giáo của
mình, cả tàu tuyệt vọng và bi thảm như đại tang. Họ suy sụp cả thể xác lẫn tinh
thần, đoàn người như những bóng ma trong con tàu trôi vật vờ vô định cả ngày lẫn
đêm
Chiếc tàu trôi giạt vào gần một hòn đảo thì mắc cạn, ai nấy
đều mừng rỡ coi như vừa chết đi sống lại, đám đông kéo nhau lên đảo, nước ngập
lên tới cổ tới ngực tùy chỗ nông sâu. Chưa biết trên đảo có gì nhưng biết là
không bị chết chìm ngoài biển khơi là mừng rồi.
Giữa cảnh chen lấn nhau lên bờ thằng
Báu xảy chân ngã xuống biển, khi người ta biết và cứu được thì nó đã chết đuối
rồi. Chú Bích ôm xác con lên bờ khóc lóc một cách điên dại. Dù mệt mỏi và đuối
sức, những người đồng hành cũng giúp chú Bích để xác thằng Báu vào một khe đá
và lấy những tảng đá nhỏ khác che chắn lại coi như một nấm mồ. Một nhóm
khác đi dạo thử trên đảo để xem xét tình hình, họ nói đây là đảo hoang chỉ
toàn là san hô và đá tảng với vài loại cây mọc thưa thớt chẳng thể tìm đâu ra
lương thực hay nước uống cả. Bây giờ đám thuyền nhân lại lo chết đói chết khát
trên hòn đảo hoang vu rộng lớn này. Họ quyết định rủ nhau đi tìm chỗ nào cao
ráo nhất để đốt vải, đốt áo làm khói hiệu may ra có tàu nào trông thấy mà đến cứu
còn hơn ngồi chờ chết. Mọi người đi, nhưng chú Bích không chịu đi. Chú Bích bây
giờ như một người điên, chú ngồi khư khư bên xác thằng Báu với đôi mắt vô hồn
và miệng thì không ngớt lẩm bẩm một câu duy nhất:
– Cứu con tôi! Cứu con tôi! Cứu con tôi!
Mọi người xúm vào khuyên giải và năn nỉ chú:
– Đằng nào cháu cũng chết rồi, anh hãy đi theo chúng tôi để tìm sự sống.
Hai người cháu họ của chú cũng vừa rơi nước mắt vừa vỗ về chú như vỗ về một đứa
trẻ con:
– Chú ơi, chú để xác thằng Báu ở đây, đi với tụi cháu, chúng ta phải đi khỏi
nơi đây may ra sẽ sống sót.
Nhưng chú Bích vẫn khăng khăng từ chối, chú lảm nhảm gọi tên con và khóc
tu tu thảm thiết. Thật không ngờ một người lính tác chiến từng vào sinh ra tử,
chỉ sau những ngày lênh đênh trên biển với bao căng thẳng lo âu, bao suy nhược
tinh thần và thể xác cộng thêm cái chết bất ngờ của thằng con thâu yêu mà người
đàn ông can trường ấy bỗng hóa thành điên dại.
Không thể thuyết phục được chú Bích đoàn người để chú ở lại bên xác con và kéo
nhau đi tìm chỗ khác trên đảo. Họ lôi thôi lếch thếch dắt díu nhau, bồng bế
nhau, lôi kéo nhau đi trên những tảng đá nhọn gập ghềnh cả nửa buổi trời đến nỗi
nhiều người chân chảy máu hay sưng vù lên. Tới một chỗ khá cao, tầm nhìn ra biển
rộng hơn thoáng hơn thì họ dừng lại. Khi trông thấy bóng con tàu nhỏ xíu ngoài
xa họ đốt áo cho khói lên liên tục nhưng chiếc tàu vẫn vô tâm không hề hay biết.
Sáng hôm sau họ tỉnh dậy sớm thì thấy một con tàu đang lù lù đến rất gần, nhiều
người mừng vui quá hét lên vang trời vang biển, nhiều người khác thì lo đốt áo
làm khói hiệu và cả đám đông kéo nhau đứng trên những tảng đá cao nhất để giơ
tay vẫy vẫy cầu cứu.
Tất cả những người trên chuyến tàu đã được cứu thoát như một phép nhiệm màu trừ
hai cha con chú Bích. Cùng đi môt chuyến tàu, cùng trải qua những gian nan nguy
khốn vậy mà số phận đã nghiệt ngã với hai cha con chú, không được đến bến bờ mơ
ước cùng với họ.
Có người thương tâm nói với thủy thủ trên tàu về trường hợp chú Bích, nhưng họ
nói nếu không nhớ đích xác ở đâu thì họ không có thì giờ đi tìm được và có những
nơi trên đảo con tàu không thể đến gần vì san hô và đá ngầm. Các thủy thủ cũng
cho biết đây là đảo hoang không có con người và các phương tiện sinh hoạt khác.
Chuyến tàu của Indonesia đã đưa đoàn người vượt biên đến đảo Galang xong họ tiếp
tục cuộc hành trình.
Hai người cháu họ của chú Bích đánh điện tín về cho gia đình, sau đó họ khuyên
gia đình giấu kín cái chết thương tâm của cha con chú Bích trong nhiều năm, đợi
thời gian như liều thuốc nhiệm màu từ từ chữa lành vết thương của gia đình người
bất hạnh, mãi những năm sau này họ mới cho cô Bích biết.
Hằng đã liên lạc với hai người cháu họ ấy ở Mỹ và được biết sự thật chuyến đi
vượt biên này từ họ.
Hơn 30 năm qua tờ điện tín mà cô Bích mong đợi không hề đến và không bao giờ đến.
Không ai biết tin gì về cha con chú Bích, nhưng ai cũng có thể suy đoán đoạn kết
vở bị kịch là chú Bích đã chết đói chết khát bên cạnh xác con trai mình trong
tình trạng tâm thần điên loạn.
Cha con chú Bích đã thoát khỏi Việt Nam, chú Bích đã thoát khỏi cảnh công an quản
chế giam lỏng.
Nhưng họ chỉ đi được nửa cuộc hành trình, đã bỏ xác nơi đảo hoang.
Hai cha con chú Bích vẫn bên nhau như ngày nào nơi mái nhà xưa, nơi hàng xóm
cũ. Xung quanh hai cha con chú là biển khơi bao la. Sóng và biển sẽ ru hai linh
hồn bơ vơ kia giấc ngủ ngàn đời, ngàn đời…
Nguyễn Thị Thanh Dương