Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì
con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến
nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt
ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu
tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ
chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”.
Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ,
ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó
cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao(?) Trong nhà vợ chồng
cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao
cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng
chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời
con chó!
Trời sinh ra con chó có được cái tính bẩm sinh: thính tai, thính mũi,
khôn ngoan, thân thiện, gắn bó, thủy chung với chủ. Người ta nuôi chó coi
như một bạn đồng hành giúp ích được nhiều việc như: giữ nhà, săn bắt, dẫn
dắt người mù… ở Bắc Cực còn bắt chó kéo xe. Ngày nay, một số người nuôi
con chó nhỏ để làm cảnh, coi như thú cưng trong nhà vì nó luôn luôn quấn
quít, thân thiện, trung thành giúp họ bớt cô đơn và có được những giây
phút mơn trớn, vuốt ve, dịu dàng làm bớt đi những căng thẳng.
Mỗi con chó sinh ra đều có một phần số: “chó tây” có đời sống khác với
“chó ta” - “chó ta” được nuôi ở miền Bắc khác con “chó ta” nuôi ở miền
Nam.
Đọc những truyện ngắn của nhà văn Nam Cao, mô tả “cậu Vàng” của
Lão Hạc, Cái Chết Của Con Mực… hay Kim Lân kể về Con Chó Xấu Xí, ta
cảm thấy số phận con “chó ta” sao mà thê lương đến não lòng – dù hết lòng
trung thành với chủ, cuối cùng vẫn bị bạc đãi - người ta bán đi hay giết
thịt. Thật khốn nạn cho cuộc đời con “chó ta”.
Trong văn học cổ Việt Nam còn lưu lại bằng chữ Nôm câu chuyện “Lục
Súc Tranh Công”: trâu, chó, ngựa,dê, gà, và lợn - viết theo thể “nói
lối”. Con chó tranh công với trâu và kể lể với chủ: “Trời đã
sinh các hữu kỳ tài/ Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ… Vốn như đây ốm yếu
chân tay/ Cũng hết sức gia trung xem xét … Kẻ đầu kia, người việc nọ/ Đứa
coi ngoài, có đứa giữ trong/ Đêm năm canh con mắt như chong/ Đứa đạo tặc,
nép oai khủng động/ Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống/Đứa gian tham thấy bóng
cũng kinh… Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh/ Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc/
Bao quản chui gai, lước góc/ Chi này múa mỏ, lòn hang/ Anh trâu sao chẳng
biết thương/ Nỡ lại ra lời sanh nạnh… Ăn thì cơm thừa, canh cặn, môn sượng,
khoai sùng/ Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều/ Có cũng rằng, không cũng chớ…
Vốn như đây gia tài ủy ký/ Mà chủ không tốn kém đồng nào/ Nên
không muông coi trước, giữ sau/ Thì của ấy về tay kẻ trộm…”
Con “chó ta” bị hắt hủi, nó phải kể lể như trên. Con “chó tây” cũng đi
vào văn học Âu - Mỹ từ xa xưa, nhưng lại được ca ngợi và tôn vinh qua câu
chuyện rất cảm động và thâm thúy sau đây:
Năm 1870, Luật sư George Graham West (1830 – 1904) đã đọc một bài “bào chữa”
chỉ có 375 chữ ca ngợi con chó trong vụ kiện của người thợ săn kiện người chăn
cừu đã giết con chó của mình. Bài bào chữa có tên “A Tribute to The Dog”
đã thuyết phục toàn thể Bồi Thẩm Đoàn và thân chủ ông đã thắng kiện. Sau
đó, bài bào chữa này được lưu truyền trong văn học Mỹ và được tờ New York
Times bình chọn là bài diễn văn hay nhất thế kỷ. Ngày nay, trước tòa án
Warrensburg, bang Missouri người ta dựng tượng đài con chó Old Drum với
bài “A Tribute to the Dog” để ghi nhớ sự kiện lịch sử này. George Graham
West nổi tiếng trong lịch sử Mỹ nhờ bài diễn văn này.
Đọc một đoạn trong bài diễn văn (đã dịch ra Việt ngữ) làm ta suy ngẫm và ngậm ngùi:
….” Trên thế gian vụ lợi ích kỷ này, con người chỉ có thể có được một người
bạn vô tư không điều kiện, một người bạn không bao giờ rời bỏ ta, không
bao giờ vô ơn bạc nghĩa, không bao giờ phản bội, đó là con chó của ta.
* Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta, dù ta giàu sang hay ta nghèo khó, dù ta
khỏe mạnh hay ta ốm đau bệnh tật. Nó ngủ dưới nền đất lạnh, bất chấp giá
rét mùa đông hay bão tuyết, miễn sao được ở gần ta. Nó vẫn hôn vào bàn tay
ta dù ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vào những vết thương
và những chỗ ta đau đớn khi va chạm với sự tàn bạo của cuộc đời. Nó canh
giấc ngủ cho ta khi ta là kẻ khốn cùng cũng giống như khi ta là một ông
hoàng.
* Khi tất cả bạn bè đều rời xa ta, riêng con chó thì ở lại.
* Khi ta mất hết của cải, thân bại danh liệt, thì tình yêu thủy chung của
con chó đối với ta vẫn ngời sáng như ánh mặt trời xuyên thấu chín tầng
mây.
* Nếu chẳng may ta bị cuộc đời ruồng bỏ, rơi vào cảnh không bạn bè
không nhà cửa, thì đối với con chó trung thành, không có một đặc ân nào
cao cả hơn là được ở bên cạnh ta, để bảo vệ ta chống lại những hiểm nguy,
chống lại kẻ thù.
* Và đến lúc cuộc đời ta kết thúc, thần chết rước ta đi và thân xác ta
nằm dưới lòng đất lạnh, khi người thân bạn bè đưa tiễn đã quay về để tiếp
tục bận rộn với cuộc sống của họ, thì con chó cao quý vẫn còn nằm bên nấm
mồ ta, đầu gục xuống giữa hai chân, đôi mắt đau buồn nhưng vẫn mở to cảnh
giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết.”
Đọc những truyện kể về con chó, tôi nhớ đến “con Đớm” nhà tôi.
Năm đó bà chị dâu của tôi có bầu trên năm tháng, anh tôi xin một con chó
con của nhà ông Lý Bản về nuôi, gọi nó là “con cún”, trông nó mũm mĩm rất
dễ thương, nhưng lại làm nhiệm vụ “dọn bãi” cho đứa con sơ sinh của anh chị
- mỗi lần bà chị dâu gọi: “cún… cún… chậc…chậc…” Nó lăng xăng chạy đến ngoắc
đuôi lia lịa “dọn bãi” một cách cần mẫn, tận tình – tôi thấy nó hèn hạ và
dơ dáy! Cho nên mỗi lần nó đến gần, tôi cho nó một đá - đuổi đi… Nhiều lần
như thế, nó biết phận, đứng xa xa, nhìn tôi với ánh mắt lấm lét, nhưng cái
đuôi vẫn ve vẩy hững hờ. Hình như nó mong đợi tiếng tôi gọi nó. Nhưng chưa
bao giờ! Rồi nó lặng lẽ bỏ đi…
Khi đứa con của bà chị dâu lên hai, con “cún” không còn làm nhiệm vụ “dọn bãi”
nữa. Lúc này thân hình nó tròn trịa, cao to, hai tai vểnh lên, hai đớm trắng
trên mi mắt rõ nét, trông rất ngộ. Anh tôi đặt tên cho nó “con Đớm” và bắt
đầu huấn luyện cho nó săn chuột, canh giữ chuồng gà, không để chồn, cáo
vào bắt gà ban đêm. Ban ngày, khi trải lúa ra sân phơi, “con Đớm” nằm đuổi
bọn gà đến ăn lúa. Có mặt “con Đớm”, bọn gà không dám bén mảng. Khi nó
lang thang đâu đó mà anh tôi gọi: “Đớm… ô… ô! Đớm… ô… là nó chạy đến ngoắt
đuôi - chờ lịnh. Nó hiểu và làm được những việc anh tôi sai bảo.
Anh tôi thương và quý “con Đớm”, nhưng tôi vẫn còn mặc cảm với nó. Nhưng
có một lần con Đớm làm tôi cảm động và thích thú. Chuyện thế này:
Thằng Thương ở trong xóm, nuôi một con chó Vện - con chó này nổi tiếng khôn
ngoan và hung dữ - thấy ai lạ là nó nhe răng gầm gừ, như muốn xông đến cắn người
ta, nhưng khi thằng Thương tỏ vẻ niềm nỡ với khách thì nó liền tỏ ra
thân thiện, ngoắt đuôi, mừng! Thằng Thương hãnh diện về con Vện của mình,
đi đâu cũng dẫn con Vện theo cùng. Một hôm tôi gặp thằng Thương ở đầu ngõ,
con Vện vừa trông thấy tôi, nó gầm gừ … Con Đớm từ trong nhà chạy ra đứng
cạnh tôi, sủa vang và nghênh con Vện. Thương là thằng ngổ ngáo, chẳng những
nó không la con Vện mà còn “sịt… sịt…” chỉ tay cho con Vện xông vào con Đớm.
Hai con chó cắn nhau dữ dội. Thằng Thương vỗ tay reo…
Nhưng sau một hồi cắn đấu kịch liệt, con Vện của thằng Thương cúp đuôi bỏ chạy.
Thằng Thương tiu nghỉu bỏ đi. Con Đớm chạy lại bên tôi, tôi cúi xuống vuốt ve
nó – lông nó ướt đẫm, trên mũi và chân trước bị cắn chảy máu . Tôi vào nhà
giã củ nghệ, kêu nó lại, lấy nghệ đắp lên vết thương, nó ngoan ngoãn nằm
yên. Từ đó tôi thương con Đớm - đi đâu tôi cũng cho nó đi theo. Và cũng từ
đây con Đớm là bạn thân thiết nhất của tôi thời thơ ấu ở làng quê Vĩnh
Phú.
Đến một ngày có lệnh diệt chó để ngừa bệnh “chó dại”. Hằng ngày có một
toán đi diệt chó, họ rảo quanh làng rình rập, bắt chó… Họ mang theo gậy,
búa, và dây thòng lọng. Anh tôi thương con Đớm, anh tỉ tê với nó thế nào
mà nó hiểu - mỗi khi nghe tiếng người, nó chạy vào gầm giường trốn biệt.
Nó cũng không theo tôi ra khỏi nhà. Nó thoát nạn một thời gian. Nhưng sau
đó Ủy Ban Hành Chánh xã ra thông báo: “Nhà nào còn lén lút nuôi chó mà
không khai báo, coi như có hành vi phản động.” Hồi đó, ở trong vùng Việt
Minh kiểm soát, ai cũng sợ bị ghép vào thành phần phản động hay Việt gian
– bị ghép vào hai thành phần này, sớm muộn gì cũng bị cho đi “mò tôm”. Bởi
vậy, anh tôi đành chỉ chỗ con Đớm trốn cho toán diệt chó. Sáng hôm ấy anh
tôi đem đến cho con Đớm đĩa cơm có chan nước thịt và mấy lát thịt heo. Anh
tôi vuốt ve nó, nhìn nó ăn, anh tôi khóc! Rồi anh ra khỏi nhà trước khi
toán diệt chó đến. Anh tôi không muốn thấy cảnh đau lòng…
Khi toán diệt chó đến, con Đớm chạy trốn dưới gẩm giường, họ xông ngay vào
chỗ nó đang trốn. Nó hết đường tẩu thoát… Lúc ấy ở nhà chỉ có mình tôi,
tôi nhìn họ hung bạo như quân cướp. Tôi sợ họ như con Đớm đang sợ - nó co
dúm lại, run run, không kháng cự. Họ lấy cây gậy dài đè vào cổ, một tên
khác đưa dây thòng lọng vào cổ, kéo nó ra… Hai chân trước con Đớm cố bám
vào sàn nhà, miệng kêu ẳng ẳng, mắt nhìn tôi như cầu cứu… Tên bắt chó chẳng
chút xót thương, hắn lôi xệch con Đớm ra cửa. Khi cái dây thòng lọng siết
chặt cổ, lưỡi con Đớm thè ra, không còn kêu được nữa, nhưng mắt nó hướng về
phía tôi, ướt đẫm… Nước mắt tôi cứ tuôn ra, tôi khóc nức nở…cho đến lúc bọn
họ lôi con Đớm ra khỏi ngõ, tôi kêu lên Đớm ơi trong tiếng khóc nghẹn
ngào.
Vào thời đó, ở làng tôi chưa biết ăn thịt chó. Họ giết con Đớm và đem
chôn nó bằng cách nào, tôi không được chứng kiến, nhưng cách họ bắt con Đớm
lôi đi quá tàn nhẫn. Hình ảnh đó ám ảnh tôi trong một thời gian dài. Sau
này nghe anh tôi kể: - Họ ra lịnh diệt chó để ngừa bệnh dại chỉ là cái cớ
- mục đích chính là để ban đêm cán bộ rình rập các nhà địa chủ, phú nông
nghe ngóng tin tức, không bị lộ (lúc đó chính sách cải cách ruộng đất bắt
đầu ló dạng ở Liên Khu 5).
Năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, Chính quyền Quốc Gia tiếp quản
Liên Khu 5. Bấy giờ tôi đã qua thời thơ ấu – tôi rời làng quê ra tỉnh theo việc học
hành. Chuyện tiếc thương con Đớm rồi cũng phôi pha theo năm tháng.
Tiếp theo, đời tôi nổi trôi theo vận nước với bao thăng trầm, khổ nhục,
vì cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Cho đến một ngày, thời cuộc đẩy đưa,
tôi được định cư trên nước Mỹ.
Từ đây, cuộc đời đưa tôi đi vào ngã rẽ mới. Những ngày đầu tiên sống
trên đất Mỹ, với tôi không biết bao nhiêu điều lạ lẫm - phải tìm hiểu, học
hỏi mới quen dần. Chuyện “con chó ở xứ Mỹ” là một trong những câu chuyện
được nghe người ta ví von nhiều nhất: “ Xã hội Mỹ xếp hạng đàn bà số một,
thứ hai là chó mèo, đàn ông đứng hàng thứ ba.” Chớ có quen tật bạo hành phụ
nữ; ngược đãi, hành hạ chó mèo. Loạng quạng phạm vào những điều căn bản
đó, cảnh sát còng tay đưa ngay về bót - phải trái: hạ hồi phân giải. Học
được điều đó, nên biết thân phận của mình, tôi không dám to tiếng với vợ;
tránh xa chó mèo để khỏi mang họa vào thân.
Nhưng càng sống lâu trên đất Mỹ, tôi thấy thuơng cho thân phận cho con
“chó ta”. Vì thấy con chó Mỹ sướng quá! Con “chó ta” thì: “Ăn cơm
thừa, canh cặn, môn sượng, khoai sùng…Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều/ Có
cũng rằng, không cũng chớ…” Còn con chó Mỹ được luật pháp bảo vệ.
Theo “Texas Penal Code # 420”: Người nuôi súc vật trong nhà phải có bổn phận
cho ăn, cho uống, cho chỗ ở. Thiếu một trong các điều nêu trên và cố ý
hành hạ, bỏ bê, giết hại chó mèo sẽ bị bỏ tù một năm và số tiền phạt có thể
lên tới bốn chục ngàn dollar.
Thỉnh thoảng báo chí Mỹ đưa tin về những vụ như ông Dennis, ở Tennessee bị bỏ
tù 9 tháng vì bỏ đói, bỏ lạnh và xích con chó ngoài vườn cho đến chết. Những
tin như thế có làm tôi xúc động, nhưng rồi cũng chỉ thoáng qua vì lúc đó
còn nhiều công việc khác phải lo toan, chuyện chó mèo coi như phù phiếm.
Đến một hôm, tôi nghe nhiều người “kháo” nhau về chuyện chó - đây là chuyện
“chó Mỹ”. Nguồn tin loan truyền rằng: “Một người Việt Nam tỵ nạn, sang Mỹ
hơn một năm, chỉ làm công việc dẫn chó đi chơi, đi ị, hốt cứt chó…mà kiếm được
tiền mua nhà.” Ở cái xứ Hiệp Chúng Quốc này, có những chuyện mới nghe rất
khó tin, nhưng rồi có thật, nên tôi để ý theo dõi và tìm hiểu… Thì ra chẳng ai
xa lạ - thằng Tuất bạn cùng quê với tôi, qua Mỹ theo diện HO3 đã tạo nên
câu chuyện này.
Hôm gặp nhau ở Cali, nó mời tôi về nhà chơi, đãi đằng cơm nước chu đáo. Tôi
chăm chú nhìn căn nhà, tuy không lớn lắm, nhưng có sân trước, vườn sau –
cây trái sum suê, mát mẻ, êm đềm. Tôi biết nó có được cơ ngơi như thế này
là nhờ công việc “dẫn chó đi chơi, đi ị...” đúng như người ta đã “kháo”.
Nhưng chẳng lẽ hỏi hết ngọn ngành, tôi tế nhị, nói:
- Mày giỏi thật!
- Giỏi giang gì - trăm chuyện cũng nhờ con chó. Nó trả lời.
- Thì tao cũng nghe thiên hạ nói thế, nhưng chưa biết công việc cụ thể thế nào?
Mày có thể kể cho nghe, được không?
Nó thành thật kể hết đầu đuôi:
- “Khi mới sang đây, gia đình tao được hưởng trợ cấp xã hội, lại được cho
thêm tiền Food Stamps - đủ sống. Hai đứa con đi học được xe đưa đón, ăn
trưa ở trường miễn phí, tao đi học ESL. Vợ tao muốn có thêm chút tiền mua
sắm này nọ, nên xin vào làm nhà hàng, mỗi tháng kiếm được năm, sáu trăm. Với
tao như thế là Thiên Đàng. Nhớ lại những ngày cơ cực trước đây, tao thầm cảm
ơn nước Mỹ đã cưu mang. Nhưng phải tính chuyện tương lai, khi hết được hưởng
trợ cấp xã hội, phải lo tìm việc, nên hằng ngày sau giờ học ESL, tao đi tìm
tin tức đó đây, thì vận may đưa đến: chiều hôm ấy trên con đường vắng, tao gặp một
bà già Mỹ, một tay chống gậy, một tay cầm dây dắt chó. Con chó của bà to
và khoẻ, nó cứ lăng quăng chạy nhảy, cái dây xích đã kéo ra hết cỡ, nó vẫn
muốn chạy xa hơn, kéo bà già xiêu xiêu muốn ngã và trông bà có vẻ mệt lắm,
tao bèn xổ tiếng Anh mới học được: - May I help you? Bà già vừa thở vừa
đưa đầu dây xích cho tao.
Lúc này tao muốn kêu con chó trở lại. Tiếng Việt mình thì gọi “ô... ô…”
hay “chấc… chấc”, còn tiếng Mỹ không biết nói làm sao, tao bèn dùng thứ
ngôn ngữ “ba rọi”- tao lấy tay ngoắc ngoắc, miệng kêu chấc… chấc… rồi nói:
- come here. Ấy vậy mà con chó hiểu, nó chạy đến bên tao, ngoắc đuôi, mừng,
rồi nhảy cửng lên người tao. Tao bế nó vuốt ve, nó nằm yên. Bà già Mỹ nói:
“Hai ngày mới cho nó ra ngoài chơi một lần, nên mỗi lần được ra khỏi chuồng
nó chạy nhảy lung tung - tên nó là Johnny - cứ kêu tên là nó chạy về.”
Thằng Tuất nhấp ngụm nước, tiếp tục kể:
- Bà già gọi: “Johnny, go home”. Con chó nhảy ra khỏi tay tao, lon ton chạy trước.
Bà già quay sang hỏi tao: “Nhà anh ở đâu?” Tao cho bà ta địa chỉ. Mặt bà ta có
vẻ vui, bả nói: “Vậy là rất gần nhà tôi”. Rồi bả hỏi tao đủ thứ chuyện: về
gia cảnh, về lý do được định cư ở Hoa Kỳ và cuộc sống hiện tại ra sao? Tao
kể hết sự thật. Bà ta tỏ ra xúc động. Bà nói rất nhiều, nhưng tao chỉ hiểu
đại ý. Khi về trước cổng nhà, bà mở ví đưa tao hai chục đô, tao không nhận,
bà nài nỉ, nhưng tao nhất định không nhận. Tao cúi xuống, đưa bàn tay ra,
con Johnny đưa chân trước lên bàn tay tao như kiểu bắt tay từ giã. Tao đứng
lên, chào bà với câu vừa học được – “Bye bye, see you tomorrow.” Bà ta nở
nụ cười thân thiện, rồi bảo: - “Nếu anh không bận việc, mỗi ngày đến đây dẫn
Johnny đi chơi vài giờ, tôi sẽ trả thù lao 20 dollar.” Tao OK liền. Ngày
hôm sau tao đến, bà vui mừng, chỉ tao cách dẫn chó đi chơi ở nơi nào và chỉ
cách hốt cứt chó khi con Johnny làm xấu. Thế là từ đó tao có cái nghề mới “dẫn chó
đi chơi… đi ỉa…” kiếm mỗi tháng gần năm trăm đô.
Thằng Tuất nheo mắt, cười cười, hỏi tôi:
- Ở Mỹ có nhiều chuyện “khó tin mà có thật”, đôi khi “làm chơi mà ăn thiệt”.
Mày có thấy như vậy không?
- Chỉ có mày may mắn, chứ tao cày bở hơi tai mới kiếm được đồng dollar.
Nó kể tiếp:
- Một hôm dẫn chó đi chơi về, tao thấy vườn cỏ nhà bà cao, tao ngõ ý cắt
giùm cho bả. Bà ta bảo: “Trước đây có thằng Xì, cứ hai tuần đến cắt cỏ một lần, mỗi
lần nó lấy $30,00, nhưng cả tháng nay không thấy nó trở lại, có lẽ nó về xứ. Bây
giờ anh muốn giúp tôi thì lấy máy cắt cỏ trong kho ra cắt, tôi sẽ trả tiền
công như thằng Xì.
Tao Ok liền! Tao cắt cỏ xong còn dọn dẹp, tỉa cây gọn gàng, sạch sẽ.
Tao làm việc cần mẫn, bà ta thích lắm, khi ra về bả đem cho tao lon coca với
40 dollar, nhưng tao chỉ lấy $25,00. Tuần sau, bả giới thiệu cho tao cắt cỏ
hai nhà bên cạnh, cứ thế tiến lên… thêm mấy nhà. Thế là bây giờ tao có hai
nghề: “cắt cỏ và dẫn chó đi chơi”, mỗi tháng kiếm trên ngàn đô. Tao dành dụm
gần một năm, có được số tiền kha khá, gặp lúc nhà hạ giá, điều kiện dễ
dàng, chỉ cần down 10% là có thể mua được nhà. Thế là tao liều mua căn nhà
này với giá dưới trăm ngàn.
Ngồi nghe nó kể mà thấy thèm, lúc đó tôi ở Tiểu bang Maryland, xin được việc
làm trong tiệm 7- Eleven, lương $6.00 một giờ, chuyện mua nhà chỉ là giấc
mơ - chắc phải chờ đến kiếp sau. Nhưng trong lòng vẫn có cái ước mơ và hy
vọng - biết đâu cũng có được cái may mắn như nó, nên tôi hỏi:
- Hai cái việc này có dễ tìm không?
- Tìm việc cắt cỏ không khó lắm, nhưng cái Job “dẫn chó đi chơi…” phải tùy
cái duyên, cái nghiệp. Nó trả lời như thế, rồi kể tiếp:
- Mấy ngày đầu tao dẫn chó đi chơi, dân ta nhìn tao với con mắt thiếu thiện cảm.
Họ bảo tao “học làm sang”. Nhưng khi biết tao “dẫn chó thuê”, họ thông cảm.
Nhưng khổ nỗi, con Johnny, thấy người Việt là nó sủa vang trời. Tao chửi
thầm trong bụng: “bố khỉ, chó mà cũng kỳ thị chủng tộc…” Nhưng không phải
thế, một vài người nó lại tỏ ra thân thiện, như hôm gặp thằng Hóa, một phật
tử thuần thành, nó ngoắc đuôi, mừng! Cũng hôm ấy, đi một đoạn đường gặp thằng
Phong, dân Bắc kỳ, mới đi lễ nhà thờ ra, con Johnny lại sủa vang, tao lại
chửi thầm: “con chó này kỳ thị tôn giáo” Nhưng cũng không phải thế. Có người
nó thân thịện, có người nó sủa vang. Cuối cùng tao khám phá một điều kỳ diệu
nơi con chó: hễ người nào không ăn thịt chó thì con Johnny tỏ ra thân thiện;
ngược lại những người đã ăn thịt chó thì con Johnny tỏ ra căm thù, tránh
né và sủa không ngừng.
Về lại Maryland, tôi cố lân la với mấy ông bà già dẫn chó đi chơi, may ra
tìm được cái Job “thơm” như thằng Tuất, nhưng khi tôi đến gần, mấy
con chó nhảy dựng lên, sủa vang trời. Nhớ lại chuyện thằng Tuất kể: “con
chó căm thù những nguời đã ăn thịt đồng loại của nó.” Thế là tôi không còn
hy vọng gì với cái nghề “dẫn chó đi chơi…” Vì trước đây, đã mấy lần theo bạn
bè xuống Ngã Ba Ông Tạ nhậu thịt chó. Bấy giờ tôi nghiệm ra cái nhân duyên
và nghiệp quả trong kiếp nhân sinh. Tôi an phận với công việc hiện tại của
mình.
Rồi ngày tháng trôi qua, tôi đến tuổi về hưu, các bạn già đồng hương rủ
nhau họp mặt ở nhà thằng Tuất. Bây giờ thằng Tuất giàu sụ, mua nhà mới, rộng
rãi thênh thang. Bạn bè gặp nhau, mừng vui kể lại những thăng trầm trong
cuộc sống và rồi “chuyện chó” được nhắc đến. Một ông bạn kể về con chó của
đứa cháu ngoại. Ông bảo: “con chó Mỹ, nó sung sướng đến độ tôi phải ganh.
Này nhé: nó được đưa đi tỉa lông, cắt móng, khám bịnh định kỷ; ăn toàn đồ
organic, ngủ thì chiếu hoa nệm gấm… Khi con cháu đi du lịch xa gởi chó vào
khách sạn chó (animal shelter), bịnh thì vào nhà thương chó (Animal
Hospital), có bác sĩ thú y chăm sóc. Tính ra tiền chi phí nuôi con chó còn
nhiều hơn tiền già của tôi” Rồi ông ta kết luận: “Sau khi chết, nếu có sự
đầu thai, tôi sẽ xin đầu thai làm con chó.”
Một ông già ngồi cạnh, cười khẩy và nhắc nhở:
- Ông cẩn thận khi xin đầu thai - phải xin ghi vào sổ là “chó tây” ở trên nước
Mỹ mới được - Chứ để lọt vào danh sách “chó ta” mà ở Việt Nam thì bỏ mẹ cuộc
đời!
Lê Đức Luận
(tháng
2-2023)