Cụ Bùi
Viện
Học giả
Nguyễn Hiến Lê là học…thiệt. Sách của ông toàn cỡ nhức đầu. Từ cổ chí kim, từ
đông sang tây. Đại Cương Triết Học Trung Quốc, Nho Giáo, Khổng Tử, Lão Tử, Hàn
Phi Tử, Tuân Tử, Lão tử bên đông, bên tây có Lịch Sử Thế Giới , Lịch sử Văn
Minh Ấn Độ, Nguồn Gốc Văn Minh, toàn thứ dữ. Ông viết nhiều, viết đủ loại. Theo
Wikipedia, tác phẩm của ông được phân chia làm nhiều mục: Triết học (15 cuốn),
Lịch sử (10 cuốn), Giáo dục, Giáo khoa (17 cuốn), Chính Trị, Kinh tế (2 cuốn),
Gương Danh Nhân (15 cuốn), Khảo luận, Tùy Bút, Du Ký (18 cuốn), Tự luyện, Học
Làm người ( 21 cuốn), Văn học, Tiểu thuyết (19 cuốn). Bạn muốn biết di sản đồ sộ
của ông gồm bao nhiêu cuốn, xin chịu khó làm một con tính cộng. Tôi ngợp quá
nên chẳng tính toán chi được. Trong 19 cuốn được xếp vào danh mục “Văn học, Tiểu
thuyết” phần lớn là truyện dịch. Chỉ có cuốn “Con Đường Thiên Lý” được ghi là
“tiểu thuyết”. Cuốn tiểu thuyết lạc lõng này ít người chú ý tới. Tôi không phải
là ngoại lệ. Phần “học giả” của ông đã lấn lướt phần “nhà văn”. Cho tới mới đây
tôi mới biết tới cuốn “Con Đường Thiên Lý” này do một sự tình cờ. Bèn tìm đọc.
Truyện bắt
đầu vào năm tác giả học năm thứ ba trường Bưởi, chơi thân với một anh bạn tên
Trần văn Bảng, con một ông đồ, quê ở Phú Thọ. Anh này rất thông minh, đọc nhiều
sách tiếng Pháp ngoài các sách giáo khoa của nhà trường. Một bữa, khi Nguyễn Hiến
Lê về quê bạn chơi, anh Bảng tiết lộ một chuyện. “Anh ngưng lại, mắt
long lanh, môi hé một nụ cười. Tôi làm thinh, đợi anh kể. “Lúc nãy anh bảo người
Việt đầu tiên qua Hoa Kì là Bùi Viện. Sai. Người đầu tiên là cụ Trần Trọng
Khiêm”. “Trần Trọng Khiêm là ai? Ở thời nào vậy? Tôi không nghe tên đó”. “Cũng
sống ở triều Tự Đức như Bùi Viện, nhưng sanh ở đầu đời Minh Mạng, hơn Bùi Viện
khoảng hai chục tuổi. Chúng ta không biết rõ Bùi Viện qua Hoa Kì năm nào, nhưng
tôi biết chắc cụ Trần Trọng Khiêm đặt chân lên đất Hoa Kì năm 1849 và đã sống ở
Hoa Kì bốn năm năm”. “Lạ nhỉ. Một điều quan trọng như vậy mà sử không chép”.
Tôi ngồi dậy, tu một hớp nước trà tươi mang từ nhà. Anh cũng ngồi dậy và bắt đầu
kể. “Cụ Trần Trọng Khiêm là em một ông cụ sáu đời của tôi, cụ Trần Mạnh Trí.
Nhà chỉ có hai anh em trai, gái còn mấy người nữa nhưng gia phả chúng tôi không
ghi. Cụ Khiêm sanh năm Tân Tị (1821), năm thứ nhì triều Minh Mạng, mắt sáng, da
ngăm ngăm, thân hình vạm vỡ, mười tám tuổi đã học đủ các lề lối khoa cử, nổi tiếng
văn hay chữ tốt trong miền, được thầy học quí lắm, hy vọng sẽ làm vẻ vang cho
trường. Nhưng tính tình cương cường, hào hiệp, coi thường khoa cử, không thích
công danh”.
Sở học từ
nhà trường khiến tôi vẫn đinh ninh người Việt đầu tiên đặt chân tới Mỹ là cụ
Bùi Viện.
Không phải
một lần mà tới hai lần. Năm 1873, cụ Bùi Viện xuống thuyền từ cửa biển Thuận An
ở kinh đô Huế, ngược đường ra Bắc, đáp tàu đi Hương Cảng. Khi đó Hương Cảng là
đầu mối giao thông nối châu Á với thế giới phương Tây. Tại đây, cụ Bùi Viện đã
kết thân được với viên Lãnh Sự Hoa Kỳ. Cụ ngỏ ý muốn sang cầu viện Hoa Kỳ. Viên
Lãnh Sự đã viết một thư giới thiệu với một người ở Mỹ có thể giúp cụ tiếp cận
được với Tổng thống Mỹ. Cụ Bùi Viện lập tức quay trở về Huế để trỉnh sự việc với
vua Tự Đức. Sau đó cụ tiếp tục qua Nhật và đáp tàu đi San Francisco. Cụ lưu lại
đây khoảng một năm để vận động và được Tổng thống thứ 18 của Hoa kỳ là Ulysses
Grant tiếp kiến. Lúc này Mỹ và Pháp có chiến tranh với nhau tại Mexico nên Tổng
thống Grant cũng muốn giúp một nước đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không
có quốc thư nên hai bên không thể chính thức giao ước.
Cụ Bùi Viện
phải quay về nước để tâu tình hình và trình những điều mắt thấy tai nghe tại Mỹ
cho nhà vua. Vua Tự Đức bằng lòng trao quốc thư cho cụ Bùi Viện theo lề lối ngoại
giao chính thức. Cụ Bùi Viện lại lên đường qua Mỹ. Năm 1875, sứ thần Bùi Viện
trình quốc thư lên Tổng Thống Grant nhưng xui xẻo gặp lúc Mỹ và Pháp hết thù địch
nên Tổng thống Mỹ đã khước từ không giúp Việt Nam chống Pháp.
Năm 1873 cụ
Bùi Viện mới xuống tầu đi Hương Cảng. Không biết chính xác năm nào cụ đặt chân
tới Mỹ. Trong khi đó, cụ Trần Trọng Khiêm được biết chính xác đặt chân tới Mỹ
vào năm 1849. Vậy chuyện cụ Bùi Viện mất một kỷ lục là chuyện chính xác. Nhưng
tại sao cụ Khiêm lại lưu lạc tới Mỹ? Năm 20 tuổi, cụ Khiêm lập gia đình với một
phụ nữ họ Lê, người cùng tổng. Ba năm chung sống mà vợ chồng không có mụn con
nào. Bà họ Lê này trước đây bị tên chánh tổng muốn ép về làm vợ lẽ nhưng không
thành. Tên quan này đem lòng căm thù. Năm 1843, tên chánh tổng này đã giết bà
cùng với người lão bộc rồi đốt nhà phi tang. Một năm sau, đúng vào ngày giỗ đầu
của vợ, cụ Khiêm giết tên chánh tổng để trả thù cho vợ. Sau đó, cụ bỏ xứ, trốn
xuống phố Hiến thuộc tỉnh Hưng Yên, đổi tên là Lê Kim, xuống làm việc cho một tầu
buôn ngoại quốc. Đời cụ bắt đâu lưu lạc qua nhiều nước. Vốn thông minh nên chỉ
trong 5 năm cụ học và nói được 4 thứ tiếng: Anh, Pháp, Hoa, Hòa Lan.
Năm 1849, cụ Lê Kim đặt chân tới miền Saint Louis, bên bờ sông Mississipi. Qua
New Orleans, tiểu bang Lousiana, Lê Kim theo đoàn người qua miền Tây tìm vàng.
Học giả Nguyễn Hiến Lê viết: “Ở Nouvelle Orléans chắc cụ đã xuống một
chiếc tầu đồ sộ sơn trắng chở được cả ngàn tấn, có chân vịt ở ngang hông, nhiều
bánh xe mà sau này Mark Twain tả trong các tác phẩm của ông. Cụ đã lênh đênh nửa
tháng trên con sông Mississippi dài vào hàng nhì hàng ba trên thế giới, ở gần
vàm rộng mênh mông như biển cả, đứng bờ bên này không thấy bờ bên kia. Nhìn những
khu rừng sên (chêne), những bãi cỏ bát ngát trên bờ, những con cá lớn bằng cả một
chiếc thuyền thúng nhảy vọt lên khỏi mặt nước, vẩy bạc, lấp lánh dưới ánh
trăng, nghe những tiếng hát lạ tai của biết bao giống người trên chiếc tầu, tuy
khác giọng nhưng cùng một niềm nhớ quê, cảm xúc trong lòng cụ ra sao nhỉ?”.
Cụ Lê Kim
biết nhiều thứ tiếng nên được làm thông ngôn cho đoàn tìm vàng gồm nhiều quốc tịch,
nói nhiều thứ tiếng. Trước đó thủ lãnh của nhóm gồm chừng 60 người đã hỏi về khả
năng nói nhiều thứ tiếng của Lê Kim. Cụ bùi ngùi trả lời: “Tôi nói được tiếng
Pháp, Anh, Hòa Lan, Trung Hoa và một thứ tiếng khác nữa!”. Thứ “tiếng khác” đó
khi ấy chắc chẳng ai biết nên cụ không hài ra. Nhờ có thể tiếp xúc với mọi người
trong đoàn bằng ngôn ngữ của họ, Lê Kim được mọi người thán phục. Cụ lại luôn
luôn đề cao đạo đức mà cụ đã được dậy dỗ từ thời còn ở trong nước nên tiếng nói
của cụ có sức mạnh. Khi đoàn gặp một làng người da đỏ ngăn cản không cho đi
qua, trưởng đoàn phải nộp cho họ một số vật dụng, mọi người phản đối vì cho như
vậy là nhục. Cụ ôn tồn giải thích: “Họ là những người chất phác, giữ tín mà không
sợ chết. Chúng ta phải giữ tín với họ. Sau chúng ta còn nhiều đoàn tìm vàng
khác đi qua đây nữa, chúng ta không nên vì cái lợi nhỏ gây nỗi khó khăn cho người
sau. Ấy là chưa kể gây với họ thì thế nào cũng có người chết. Thử hỏi bấy nhiêu
món có đáng đổi một mạng người không?”. Mọi người cho là phải!
Chuyến đi
thiệt cực. Nhiều người bỏ mạng vì đói khát, tật bệnh hoặc thú dữ. Cụ Lê Kim
không ham vàng nên khi về tới San Francisco, cụ làm báo. Học giả Nguyễn Hiến Lê
viết về chuyện này: “Một hôm cụ Lê Kim vừa về tới chòi, khoe với Hans:
“Nhân đi qua tòa soạn Daily Evening, thấy họ dán giấy cần một người làm việc vặt
trong tòa soạn biết tiếng Anh, tiếng Pháp, tôi xin vào đại, khoe còn biết cả tiếng
Hòa Lan, tiếng Trung Hoa nữa, họ nhận liền: 100 Mĩ kim mỗi tuần, hứa sẽ tăng
thêm nếu đắc lực. Công việc tựa như tùy phái, ngồi tiếp khách lại mua báo hay
đăng quảng cáo”. Sau đó Lê Kim được làm phóng viên, viết tin tức cho
báo. Theo một bài báo của Tiến Sĩ Chu Huy Sơn, Lê Kim đã làm cho hai báo Alta
California và Morning Post trước khi làm cho Daily Evening với bút danh Lee
Kim.
Trần Trọng
Khiêm (1821-1866)
Chuyện của
ông Lê Kim đã được ghi lại trong cuốn sách tiếng Pháp “La Ruée vers L’or” của
René Lefèvre, do nhà xuất bản Dumas ở Lyon in vào năm 1937.
Tháng 11 năm
1853, người ta còn thấy Lee Kim, người Việt Nam đầu tiên đặt chân tới Hoa Kỳ đồng
thời là nhà báo Việt Nam đầu tiên, tại Berkeley, Hoa Kỳ. Sau đó Lê Kim về nước,
Tiến Sĩ Chu Huy Sơn viết: “Quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn nơi đất khách,
nỗi nhớ quê nhà luôn cánh cánh trong lòng, cụ Trần Trọng Khiêm quyết định hồi
hương. Đến Hồng Kông, cụ nhập tịch Trung Quốc, rồi về Việt Nam trong thân phận
người Minh Hương (người Hoa di cư) với họ tên là Lê Kim. Năm 1854, Lê Kim về tới
Nam bộ, liền bắt tay ngay cùng bạn bè khai khẩn đất hoang lập nên ấp Hòa An thuộc
phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường (nay là Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Cụ Khiêm lập
gia đình với một người phụ nữ Nam bộ họ Phan, sinh hạ được 2 người con trai đặt
tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Lấy chữ Xuân để nhớ về làng Xuân Lũng”.
Trong gia phả của
dòng họ được viết vào năm 1928 cũng đã ghi: “Cụ khai phá miền Hòa An
chưa được mười năm, làng xóm vừa mới phong túc, thì nước nhà bị nạn ngoại xâm.
Năm Giáp Tí, cụ khảng khái bỏ hết nhà cửa ruộng đất, dùng hết tài sản cùng với
cụ Ngũ Linh Thiên Hộ mộ được mấy ngàn nghĩa quân, phất cờ khởi nghĩa
trong Đồng Tháp Mười. Cụ có tài bắn súng, bách phát bách trúng, xây cất đồn
lũy, cầm đầu một nhóm lính đào ngũ Pháp, tấn công Cái Bè, Mỹ Quới, quân Pháp
trăm phần điêu linh. Cụ bà cũng dắt con theo, thật đáng mặt cân quắc anh hùng.
Năm Bính Dần, Pháp đem quân bao vây ba mặt, tấn công đồn Tiền, cụ tổ chúng ta
chống cự không nổi, tuẫn tiết. Các đồn khác lần lần thất thủ, nghĩa quân phải
rút lui, khí thế suy mòn, sau cùng tan rã. Hỡi ơi! Lòng trời không tựa, tấm
gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh mà: chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị
còn truyền hậu thế. Trước khi mất, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá, rán nuôi
con, dạy cho con cháu giữ đạo trung hiếu, làm ruộng mưu sinh, đừng trục lợi cầu
vinh, đừng ham vàng bỏ nghĩa. Nghĩa quân chôn cụ ở dưới chân giồng Tháp. Năm đó
cụ chưa tới ngũ tuần. Cụ bà theo lời dặn, về làng Mỹ Quới cất chòi, làm ruộng,
nuôi heo. Họ chúng ta mấy đời nay không ai làm giàu, chỉ mong đủ ăn, giữ được
thanh bạch, chính là giữ được cái nếp của các cụ vậy”.
Năm cụ Trần Trọng
Khiêm tuẫn tiết là 1866. Cụ hưởng dương đúng 45 tuổi. Trên mộ bia của cụ có ghi
đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên
sinh / Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”. Hậu
thế ghi công người con yêu của đất nước đã sống một đời hào hùng bằng hai con
phố mang tên Trần Trọng Khiêm. Đó là đường Trần Trọng Khiêm tại phường Long
Bình, thành phố Thủ Đức. Và tại phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, con
đường Trần Trọng Khiêm nối đường Lê văn Hiến với đường Chương Dương.
Cuốn tiểu thuyết
“Con Đường Thiên Lý” của Nguyễn Hiến Lê ngả về tài liệu hơn là văn chương. Dù
sao, đây cũng là một tài liệu quý về một người Việt chọc trời khuấy nước không
chỉ ở trong nước mà còn ở ngoài nước. Khởi đầu cuốn truyện, tác giả đã nhắc tới
anh bạn học trường Bưởi tên Trần văn Bảng, người đã hé lộ về cuộc đời của Trần
Trọng Khiêm. Anh cũng chính là người đã giữ bức thư bằng chữ Nôm mà Trần Trọng
Khiêm gửi về quê nhà ngoài Bắc sau khi trở về miền Nam Việt Nam. Bức thư đã được
một Hoa kiều chuyển về Phú Thọ cho người anh ruột tên Trần Mạnh Trí, cụ tổ bảy
đời của anh Trần văn Bảng. Thư không dám để tên thật, chỉ ghi là Lê Kim. Ông
Trí nhìn qua nét chữ và những ý ngầm gửi trong thư nhận ra đúng là ông em đã
gây án mạng và trốn biệt tích từ nhiều năm trước. Ông Trí đã dè dặt, không tin
ông Tàu đưa thư nên không viết thư hồi đáp, chỉ nhắn miệng: gia đình ở quê nhà
bình an, người đi xa chưa nên trở về lúc này. Nhận được lời nhắn, ông Trần Trọng
Khiêm hiểu nên ở lại miền Nam tham gia kháng chiến chống lại thực dân Pháp.
Anh Trần văn Bảng
là người đã giữ bức thư này. Anh cho Nguyễn Hiến Lê coi: “Tối đó tôi nhắc
anh Bảng kể tiếp chuyện cụ Khiêm. Anh gật đầu, lên nhà trên một lát, rổi trở xuống,
vặn to ngọn đèn dầu, đưa tôi coi một tờ giấy bản vàng khè, lủng một vài lỗ, có
nhiều nếp gấp gần muốn rách, nét chữ đã mờ nhưng còn đọc được”. Bức
thư đã được lưu giữ tới anh Bảng là bảy đời.
Ngày nay người Việt
tỵ nạn cộng sản đã định cư tứ tung khắp thế giới. Cộng đồng người Việt tại Mỹ
đã đông đảo tới hàng triệu người. Việt kiều đi về Việt Nam như đi chợ. Mấy ai
đã có lúc dư thời giờ đặt câu hỏi ai là Việt kiều đầu tiên. Cụ Trần Trọng Khiêm
đã một mình ra đi, một mình sống trên đất Mỹ trong nhiều năm trời, một mình quy
hồi cố hương. Tôi nghĩ tới sự cô đơn của cụ. Rời cuốn sách điện tử “Con Đường
Thiên Lý”, tôi bâng khuâng như rời xa một người thân. Rất xa nhưng cũng rất gần!