Nhát cuốc cuối cùng làm bật lên tảng đất màu vàng mỡ màng,
mình đất phô ra những hạt cát thạch anh lấp lánh trong vắt. Làn hơi đất
Sau biến cố tang thương, đất nước đổi chủ cả hai chúng tôi bị đày vào chốn
hoang sơ cùng cực này, tôi tìm được ông và ông bắt được tôi. Tôi cho rằng trong
cuộc hội ngộ này có bàn tay sắp đặt của vị ác thần. Một cơ hội tàn nhẫn cho cả
hai phải chứng kiến số phận của nhau. Tôi bỗng dưng hóa thành nhân chứng và là
người tham dự một phần trong cuộc đời đầy thử thách gian nan, long đong kì dị,
tối tăm cùng cực của một nhân cách sáng trưng tuyệt vời. Chúng tôi nương tựa
vào nhau để tồn tại, tìm chút hơi ấm tình người để không mất niềm tin vào con
người.
Cuối năm 74 ông trở về Việt Nam để chịu tang mẹ và bị kẹt lại. Ở nước ngoài ông
được biết như một nhà bác học với tất cả cái nghĩa đích thực. Năm 60 ông đỗ tú
tài và nhận học bổng Colombo du học ngành y ở Pháp. Ra trường, ông là bác sĩ nội
trú tại bệnh viện Saint-Louis ở Paris. Sau ông dạy tại trường Y khoa Paris. Ông
là một giáo sư danh tiếng chuyên ngành cấy ghép. Rồi ông không đi dạy nữa mà
nghiên cứu ngành ghép tủy chữa ung thư máu thuộc viện Pasteur. Ông có quốc tịch
Pháp, vợ Pháp và hai con. Cả đời ông làm khoa học và phục vụ loài người. Ông
không quan tâm đến chính trị.
Thế mà ông lại tình cờ rơi đúng vào tâm cơn bão tồi tệ mùa xuân 75. Ông bị cuốn
phăng đi như chiếc lá khô. Tai hại thay, cái tính ngây thơ chuyện đời kiểu bác
học khiến ông hành động như trẻ con. Ông kể lại cho tôi nghe về những ngày đầu
tiên: Mẹ tôi bị ung thư đến giai đoạn cuối, theo y học thì khó lòng chờ đợi đứa
con thân yêu từ phương trời tây trở về để vuốt mắt. Thế mà bà vẫn sống ngoài
quy luật sinh học và sự tiên liệu của tất cả bác sĩ, chờ gặp tôi rồi mới ra
đi.
Làm khoa học cả đời tôi không tin vào điều huyền hoặc. Song lần này hiển nhiên
quá mà tôi lại là người trong cuộc, làm sao không tin ngoài cái thế giới vật chất
này còn có thế giới của tâm linh? Bà ra đi nét mặt thần thái toát lên vẻ thanh
thản nhẹ nhàng. Chôn cất mẹ xong tôi rã rời cả thân xác lẫn tâm hồn. Lúc đó
tình hình chiến sự ở Huế đã nghiêm trọng. Tôi vô Đà Nẵng, nơi đây còn hỗn độn
hơn, ngoài đường đủ mọi sắc lính, dân chúng người chạy ra bắc kẻ kéo vào nam.
Tôi đi lùng một chiếc vé máy bay đi Saigon, nhưng mọi chuyện đã trễ. Bằng đủ mọi
phương tiện di chuyển tôi chạy vào Nam với hy vọng mong manh sẽ kiếm được máy
bay qua Pháp. Nhưng đoàn người hàng vạn kéo nhau đến Nha Trang thì quân giải
phóng tràn vào, chận lại. Như thế là hết. Tôi phải làm gì ? Tôi làm khoa học,
không theo phe phái nào.
Tôi nghĩ chẳng ai làm gì mình. Song nhiều người quen biết tôi họ nói: Trong cao
trào này, một con người như ông, được đào tạo ở nước ngoài, cả đời sống ở nước
ngoài, mới ở nước ngoài trở về, quốc tịch Pháp, da dẻ trắng trẻo hồng hào, nội
cái đó cũng đủ cho đi tù rục xương. Tôi nghe có lý. Làm sao để được yên thân?
Tôi hành động theo kiểu tôi nghĩ và cho là đúng. Trước tiên tôi đốt mọi thứ giấy
tờ có liên hệ xa hoặc gần với tôi. Đốt một cách bí mật hồi hộp. Đêm lại , tôi lấy
cớ đun nước, tôi mò xuống bếp khơi lửa cho vào đó cái passport, cái căn cước,
nhiều giấy tờ, hàng trăm tấm danh thiếp. Số giấy tờ cần thiết cho cả một đời
người chỉ vừa đủ đun sôi ấm nước nhỏ. Tôi còn lén mang ra khỏi nhà một quãng thực
xa vất chiếc va li áo quần và bao nhiêu vật dụng cần thiết, làm như tất cả
chúng mang mầm bệnh dịch hạch. Sau đó tôi chẳng còn gì thuộc về dĩ vãng nữa.
Tôi suy nghĩ, hãy làm như mọi người và tuân theo mệnh lệnh của người cầm quyền
thì sẽ được yên thân. Lúc này người ta kêu gọi bỏ thành phố về nông thôn tăng
gia sản xuất. Ai không có đất thì xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tôi
nhờ cô em bán giùm tôi một cái biệt thự sang trọng được hai ngàn tiền cụ Hồ. Gồm
toàn những tờ giấy bạc màu đỏ mệnh giá mười đồng mà thời đó ai cũng thèm thuồng
và ngưỡng mộ. Số tiền này cũng chỉ vừa đủ mua một cái chòi tranh, với mảnh rừng
phát nham nhở làm cái rẫy. Nghĩ lại thật buồn cười vi la đi đổi chòi tranh, đất
thành phố đem đổi đất rừng. Tôi thì rất mãn nguyện, hăm hở tăng gia sản xuất.
“Mơ-xơ Bec-trăng” cầm rựa phát rẫy thực. Mới có nửa buổi tay ông đã phồng. Ba
ngày sau lên thăm ông anh, cô em thấy thân thể ông anh mình đỏ như con tôm luộc.
Và cái cảnh cười ra nước mắt: Một vị bác sĩ danh tiếng nằm sấp cho một lão nhà
quê cạo gió chữa bệnh. Lão già tên là Mười Cuốc, lão là người bán chòi bán rẫy
cho ông. Lão lấy cái muỗng nhôm cũ mèm đen sì, cạo dọc sống lưng, luôn miệng
than:
-" Gió” nhiều chi lạ. Chỗ mô cũng có “gió”. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ
tui chưa thấy người đàn ông nào da trắng mỏng còn hơn da con gái như anh Hai
Sâm này…
Lão bắt ông há miệng lè lưỡi ra cho lão bôi dầu cao sao vàng, thứ thuốc chữa bá
bệnh trong thời kì ấy. Dầu cay, nước mắt ông trào ra. Lão còn hối mụ vợ nấu nồi
nước lá xông. Bây giờ người ta thấy ông giáo sư danh tiếng, ngồi trên chõng tre
trùm mền rách run lập cập. Mấy ngày sau ông cũng qua khỏi, và mấy tháng sau làn
da hồng hào miền ôn đới cũng từ giả ông nốt. Anh chàng hớt tóc dạo cắt đi mái
tóc bềnh bồng bác học. Lúc đó có ai thấy ông, đầu đội nón cời, mặc cái áo bà ba
mốc thếch ngồi chồm hổm cạo nồi cơm cháy không thể nhận ra ông được. Cách mạng
đã đổi thay hình dạng gốc rễ của ông rồi.
Lần đầu tiên tiếp xúc với chính quyền cách mạng là một kinh nghiệm, thú vị, nhớ
đời. Ông cầm lá đơn tới miếu thổ thần, phía trước có treo lá cờ nửa xanh nửa đỏ,
trụ sở uỷ ban quân quản hành chính lâm thời. Cùng với ông còn có nhiều người
dân chờ đợi. Nửa tiếng đồng hồ sau có một thanh niên gầy gò, thấp bé chỉ đứng đến
vai ông.
Anh thanh niên có làn da màu chì, ửng vàng, dấu hiệu rõ ràng của bệnh sốt rét
ngã nước kinh niên. Anh ta mang trên vai cây súng dài lượt phượt, loại súng tên
là Gă-Răng ( Grant ) súng Mỹ, dùng từ thời chiến tranh Pháp Đức. Hình như khẩu
súng này đã bị chôn nhiều năm trong đất. Cái báng súng mối ăn như củ khoai
sùng, nòng súng và nhiều bộ phận khác han gỉ cả. Khẩu súng như thế chưa chắc bắn
đã được.
Thế nhưng hình như nó là món trang sức không thể thiếu được của bọn thanh niên
ham súng ống. Con người này, và vũ khí kia, khiến cho ông thêm băn khoăn. Cái
gì làm cho họ chiến thắng nước Mỹ giàu có hùng mạnh ? Cái vóc dáng của anh chủ
tịch uỷ ban quân quản là thế song cách làm việc của anh thực nhanh chóng giản dị.
Anh cầm lá đơn ông, hình như không đọc, thấy anh ta lật qua lật lại rồi ghi bên
lề hai chữ ”nhất trí“, chữ rất xấu, giống như người mới biết viết.
Ông hoang mang chưa hiểu nhất trí là sao, có người giảng, là điều gì ông ghi
trong đơn đều được chính quyền cách mạng chấp thuận. Trời ơi, những công việc hệ
trọng kiểu này, ở nước khác, người ta phải mở cả phiên toà, hoặc hàng bộ trưởng
nội vụ mới có quyền ký tên thay đổi. Thời gian cũng phải mất ít nhất mấy năm. Từ
giờ phút đó ông mang tên mới, Nguyễn Văn Sâm, với ngày sinh nơi sinh do ông tự
nghĩ ra, quốc tịch mới là người Việt Nam, nghề nghiệp làm nông, chỗ ở làng Cận
Sơn…Nghĩa là tất cả những gì cần thiết cho một con người chỉ được giải quyết
chóng vánh trong một phút. Ông bắt đầu có cảm tình với nền hành chính cách mạng,
quân quản.
Đã là công dân, phải có nghĩa vụ. Nghĩa vụ đầu tiên của ông là đi làm thuỷ lợi
mười ngày. Ông chẳng hiểu thuỷ lợi là gì. Sau mới biết là đi đào mương. Riêng đối
với ông, thuỷ lợi còn đơn giản hơn nhiều. Ông chỉ việc nhận tảng đất người bên
phải đưa, trao lại cho người bên trái. Việc này có khi lại vui vui. Nhờ người
ta xếp ông đứng gần cuối cái gọi là một “ dây chuyền sản xuất” Tức là một dãy
mười mấy con người, nên khi tảng đất đến tay ông, nó đã rơi rụng dọc đường gần
hết, còn lại nhỏ như cái bánh bao, chỉ cần nắm một tay ném lên bờ
mương.
Đi làm thuỷ lợi về ông nhận được tờ giấy khen. Ông nghĩ họ thực là hào phóng. Ở
các nước tư bản, làm việc cả đời như ông chẳng được tờ giấy khen nào. Về sau
ông mới hiểu đây là cách tốt nhất, ít tốn tiền nhất để khuyến khích người dân,
còn hòng điều động nhiều lần nữa. Cũng có một điều lạ, rất nhiều người, nhất là
thanh niên, thấy ông đi nghĩa vụ lao động mười ngày lại tỏ ra thèm thuồng, ước
muốn được như ông. Sau này ông mới hiểu, đi lao động dù sao cũng được cơm no
ngày ba bữa, ở nhà chỉ có cơm độn, một phần gạo, chín mười phần độn, nói như mọi
người củ khoai củ sắn cõng vài hạt cơm. Về sau ông mới thấy chính quyền cách mạng
chơi sang hơn tư bản nhiều. Người ta động viên hàng ngàn hàng vạn con người
trong nhiều tháng trời để làm một công trình hoàn toàn vô ích. Đào một con mương
dài hàng cây số, lồi lõm quanh co, chỗ cạn chỗ sâu và cuối cùng con mương thuỷ
lợi đó chưa một lần có nước chảy qua, mấy năm sau trở thành bình địa. Hỏi thì
người ta biện bạch, không cần kết quả, cái chủ yếu là giáo dục dân chúng miền
nam biết thế nào là ý thức lao động. Ôi hoá ra đây cũng là một trò chơi.
Thời gian đó nhiều sự trớ trêu của số phận đùn đẩy ông trở về với cái nghiệp y.
Ông cũng được nhiều lần ra vào “trung tâm y tế” và trong một thời gian dài được
cầm con dao mổ. Có lần tôi nhìn thấy bàn tay vàng của nhà phẩu thuật tài hoa Âu
châu cầm dao mổ nhưng không phải trong phòng mổ ở một bệnh viện danh tiếng nào
mà ở phía sau nhà lão Cuốc.
Ông đang thiến cho con bò tơ, cột đứng giữa hai gốc cau. Chỉ một vết rạch và
vài mũi khâu, trong chốc lát chú bò non, chưa nếm mùi đời đã trở thành vị hoạn
quan, thái giám. Về sau nơi nào cần thiến heo, trâu bò gà chó đều kêu ông. Đừng
tưởng những cuộc phẫu thuật kiểu này là không quan trọng, ai cũng làm được. Thời
kì này sinh mệnh con vật có khi còn lớn hơn con người. Có nhà con cái đau ốm chỉ
ra vườn hái lá làm thuốc, mà con heo nái bỏ ăn lại lên tỉnh mua thuốc trụ sinh
ngoại về chữa. Họ hành động thế cũng chỉ vì con heo nái là tài sản quý giá duy
nhất và nó nuôi sống cả gia đình. Vì thế mỗi khi dù cầm dao thiến heo ông cũng
hồi hộp vô cùng.
Lần khác giữa mùa lụt, vợ Tám Hoà chuyển bụng đẻ. Mụ này sinh khó vì đã bốn
mươi bốn tuổi rồi con sinh thêm đứa con thứ chín. Suốt thời kỳ mang thai mụ thiếu
ăn, còn bị sốt rét rừng hành hạ. Mụ bị phù thũng nặng, bàn chân húp không còn
thấy mắt cá, thiếu máu nặng màu da vàng như con tằm bủng và vạch mi mắt ra thấy
trắng nhợt. Nước lụt dâng ngập con đường về huyện về tỉnh. Không có cách nào di
chuyển sản phụ.
Mụ ta chuyển bụng một ngày một đêm rồi mà đứa con không chịu sổ ra. Tám Hoà nài
nỉ ông cứu. Ông liều ra tay. Mụ ta vừa đau đẻ vừa mắc cỡ, chửi chồng:" Bộ
ông muốn giết tui hay răng mà kêu cái thằng cha thiến heo về đỡ đẻ !...” Trong
cơn vật vã, mụ này níu cái thanh giường gần gãy, ông cầm tay mụ giữ lại, mụ cắn
cánh tay ông. Ông gồng mình cho mụ đàn bà hung giữ đau đẻ cắn. Cuộc sinh nở mẹ
tròn con vuông. Sau này có lần kể lại cho tôi nghe ông nói, bên Tây mấy con đầm
đau đẻ hung dữ lắm, họ la hét chửi chồng, có khi còn đánh cả chồng. Nhìn vết
răng mụ Tám trên cánh tay ông nhiều ngày chưa lặn tôi mới hiểu thế nào là lương
tâm người thầy thuốc.
Cuộc quay về ngành y của ông còn nhiều chuyện cười ra nước mắt. Xã cất cái chòi
làm trạm y tế, ông được triệu đến không phải để làm việc gì liên quan ngành y tế
mà để dọn dẹp vệ sinh, phát cỏ, hốt rác. Trạm này giao cho một anh binh nhì trước
ở ngành quân y quân đội cộng hoà cũ. Đoàn tiêm phòng về ông cũng được kêu tới nấu
nước luộc kim tiêm, còn nước sôi làm thịt gà, đãi đoàn. Ông còn phải đứng hầu
bia rượu cho mấy thằng y tá nhóc con trên tỉnh về.
Sau này người ta nói ông là tiên bị đọa. Có điều dù làm việc gì ông cũng hết
lòng, cần mẫn, không oán than bất mãn với bất cứ người nào, công việc gì. Tôi
còn nhớ vào giai đoạn ấy thường có cái kiểu, trước khi động viên dân chúng vào
công việc gì, luôn luôn phải họp dân năm lần bảy lượt, dân chúng đi làm rẫy về
mệt mỏi, tối lại chỉ muốn đi ngủ sớm, chiều nào cũng có tiếng loa đầu xóm cuối
xóm : “Ngay từ bây giờ đồng bào tập trung tại trụ sở để quán triệt mục đích yêu
cầu…ai không đi họp mất quyền lợi…” Không ai biết quyền lợi là quyền lợi gì. Họ
chỉ sợ không đi họp sẽ không yên thân. Mục đích yêu cầu cần quán triệt có khi
là những chuyện rất vớ vẩn như đào hố xí hai ngăn hay trồng bèo hoa dâu, được
thổi phồng như hai phát kiến vĩ đại của những nhà khoa học tài ba của nước ta
cho nhân loại…
Ông ăn ở gần như được lòng mọi người. Mấy thằng cha sồn sồn cán bộ hợp tác xã
có lần xúc lúa trộm đem bán lấy tiền kéo nhau về thành phố ăn chơi. Bọn họ rủ
ông đi gọi là “nếm mùi đời” cho biết. Ông từ chối, nói mình quê mùa không biết
ăn chơi kiểu đó. Mấy chị, thấy ông sống cô độc ai cũng dành làm mối kiếm vợ cho
ông, ông nói không dám đèo bòng, một mình nuôi không nổi thân.
Có lần tôi xúi ông về tỉnh khai hết sự thật về mình và liên lạc với toà Đại sứ Pháp
để được phục hồi. Ông nói, họ không tin đâu, giấy tờ đốt cả rồi. Với lại cần
thêm một thời gian nữa cho lòng người tỉnh lại, mọi giá trị sẽ được khôi phục.
Bây giờ thì chưa. Nghe thế tôi không dám xúi nữa. Tôi thấy cả đời ông chưa một
lần dối trá. Đây là lần dối trá đầu tiên về thân phận của mình và ông phải trả
giá. Cái giá thực là tàn nhẫn. Ông nói cần chờ một thời gian nữa. Nhưng số phận
lại có cách giải quyết của nó. Vở bi hài kịch đã tới hồi kết thúc.
Cuối hạ, buổi chiều thường bắt đầu bằng những cơn mưa giông. Đây cũng là thời
kì dậy lên bệnh sốt rét. Cỏ cây bờ bụi lớn cao lên vùn vụt. Mỗi khi phát rựa
vào muỗi túa ra cắn rát mặt. Một cơn sốt rét ác tính quật ngã ông chỉ vài giờ.
Tôi dìu ông tới trạm y tế xã, không một viên thuốc. Họ bảo tôi đưa ông về bệnh
viện tỉnh. Tôi dẫn ông đi được một đoạn thì ông đã hôn mê. Không có cách gì đưa
ông về tỉnh. Ông không ngồi lên xe đạp cho tôi đạp chở ông ra tới đường cái nhờ
xe đò đưa về phố. Giờ đó bọn trai tráng còn đang ở trong rẫy cả. Cuối cùng tôi
phải cõng ông ra đường cái, con đường dài hơn hai cây số.
Suốt đời tôi không thể nào quên được buổi chiều thê thảm đó. Gió giông gào thét
không ngừng trong khu rừng mọc toàn cây chà rang cao chưa quá đầu người. Cả khu
rừng bị đè bẹp run rẩy dưới cơn thịnh nộ của đất trời. Mưa lất phất lẫn trong
gió. Tôi cõng ông như cõng khối lửa trên lưng. Ông sốt rất cao, gió mưa thế vẫn
không làm giảm nhiệt độ cơ thể. Tôi nhớ lần đầu tiên gặp ông, lúc ấy ông như một
người ngoại quốc, to cao hồng hào khoẻ mạnh.
Nay chỉ sau mấy năm bị lưu đày khắc nghiệt ông gầy gò, quắt queo, đen điu, một
ông già nhà quê với hàm râu lưa thưa. Bây giờ ông nhẹ hổng, cõng ông tôi không
thấy nặng nề mệt nhọc gì cả. Lên tới đỉnh đồi, nhìn thấy chân trời mây đen đùn
lên ngồn ngộn. Từ trên tầng mây thấp, rất thấp, cảm như có thể đưa tay lên chạm
tới mây được, một tia chớp với cái bộ rễ cây ánh sáng, đánh ầm thẳng xuống khu
rừng, rất gần chỗ tôi. Có mùi khét giống như mùi điện chập, bên cạnh tôi ngọn lửa
lập loè cháy lên trong mưa.
Chưa bao giờ tôi chứng kiến hiện tượng tự nhiên nào kinh khủng đến thế. Tôi vẫn
chạy lúp xúp, cố sao cho kịp chuyến xe về tỉnh cuối cùng. Một lúc sau ông tỉnh
lại, bảo tôi đặt xuống, cho ông đi, ông kêu khát nước. Tôi dừng lại, mới
nghiêng người xuống thì ông lại quỵ ngã, không đứng lên được nữa. Ông lại rơi
vào cơn hôn mê. Ra đến đường cái, may sao có chiếc xe lam dừng lại cho chúng
tôi lên xe. Đây không phải chiếc xe chở khách mà là xe chuyên chở súc vật. Sàn
xe đầy phân heo. Tôi ngồi xổm bế ông như một đứa bé. Gã tài xế say rượu, hắn điều
khiển chiếc xe chạy điên đảo như người say. Khổ quá, tôi thầm mong cho xe rơi
xuống vực cho cả ba chết quách đi cho rồi.
Tới nơi tôi chạy thẳng vào khoa cấp cứu. Họ chận tôi lại, nói là để làm thủ tục
nhập viện, nhưng kỳ thực hỏi han đủ thứ làm như công an hỏi cung tội phạm, và
cuối cùng đòi tiền. Tôi nói láo cấp bách quá quên mang theo tiền. Cứu giùm đi rồi
tiền nong tính sau. Cả một giờ sau ông mới được truyền dịch. Mấy cô y tá trẻ
cùng với mấy cậu y sĩ hay bác sĩ gì đó vừa làm việc vừa cười đùa bỡn cợt nhau.
Họ chăm sóc bệnh nhân còn thua cả ông chăm sóc con vật. Tôi đứng một bên, cầm
cánh tay ông, mạch ông mong manh như tơ nhện. Cái lối mạch mà mấy ông lang sợ
nhất gọi là mạch chim sẻ mổ thóc. Mạch nhảy vài cái rồi ngưng, đập vài cái rồi
ngưng. Giống như tiếng gõ cửa của tử thần.
Mấy người thầy thuốc kéo nhau đi chơi, tôi nghe họ hẹn nhau ra biển. Tôi ngồi cạnh
ông. Tôi đưa tay sờ trán, thấy ông không còn sốt cao nữa. Trán ông đầy một thứ
mồ hôi lạnh, nhớp nháp và trơn như mỡ. Tôi mừng quá tưởng ông qua khỏi. Sau này
tôi mới nghe người ta nói đó là ”Xuất hạn”. Nghĩa là chỉ còn chốc lát nữa thôi.
Tôi thấy mấy ngón chân ông cứng đờ như được đẽo ra từ gỗ mít lò ra khỏi tấm ra
trắng, sờ thử, thấy lạnh ngắt. Bình sérum không chịu nhỏ giọt nữa. Tôi mở khoá
lớn hơn nhưng nó vẫn không chịu nhỏ giọt. Hoá ra máu trong người ông đã đông cả
lại rồi. Ông chợt mở mắt nhìn tôi, cặp mắt lờ đờ, tròng con mắt như được tráng
qua một lớp nước vôi, song cái nhìn vẫn còn đằm thắm dịu dàng. Rồi bỗng nhiên
hai mí mắt cứng đờ, không khép lại, nhanh chóng hoá đá, đôi mắt người chết.
Lúc này tôi mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt ông. Ông chết yên như ngủ. Trước đây
tôi có nghe chuyện về khuôn mặt người chết. Tôi không tin vào những chuyện huyền
hoặc, bây giờ thì tôi tin. Sau khi ông ngừng thở, có một quãng thời gian ngắn,
hiện ra một khuôn mặt đẹp, vẻ đẹp thánh thiện của cả cuộc đời sống lương thiện
sáng ngời hào quang nhân ái, vẻ đẹp tuyệt vời… Nhưng chỉ vài phút sau vẻ đẹp ấy
phai mờ dần, tắt hẳn, còn lại lạnh lẽo khuôn mặt người chết .
Giường bên, thêm một người nữa ra đi. Đó là một người Thượng. Không biết khi sống
trông hắn thế nào, lúc này trông thấy hắn gầy gò, đen thui, rướn người cong lên
như thân cây cháy nám trong mùa đốt rẫy. Vợ hắn ngồi cạnh chốc chốc vén cái váy
lên chùi mắt, tay quạt muỗi cho chồng. Chị ta tưởng mấy con muỗi đói bệnh viện
vẫn còn bu vào đốt cái thân thể lạnh giá. Bọn muỗi có con lầm tưởng bay đến sà
xuống đốt cái thân xác lạnh giá, vụt bay lên. Đôi mắt người phụ nữ Thượng ánh
lên một niềm yêu thương hoang dã giống như cặp mắt con thú trong bẫy. Nửa đêm
trong căn phòng nhỏ, hai người chết và hai người sống nhưng tâm hồn cũng đã chết.
Có tiếng thét lơ lớ rợn người:
- Thôi bỏ con ma đó chạy đi!
Chị này đứng lên dáo dát, cầm cái gùi toan chạy. Tôi chưa kịp hỏi bỗng lại có
tiếng chân người và tiếng thét hách dịch:
- Con mọi kia chạy đi đâu ? Tiền giường tiền thuốc chưa thanh toán.
Tôi biết chị ta phải khó khăn khổ nhọc lắm mới mang được người chồng bệnh hoạn
từ trong rừng thẳm về tới chốn phồn hoa đô hội này với niềm tin, khỏi bệnh,
cùng chồng đi bộ về buôn, qua khu rừng hướng dương vàng rực bạt ngàn. Nhưng nay
thì hết rồi, phải bỏ anh ta lại trốn về thôi, nhưng cũng không xong. Còn tôi khổ
sở chẳng thua người kia. Sáng sớm hôm sau tôi trốn ra khỏi bệnh viện. Tôi không
có lấy một xu trong túi làm sao đưa ông về? Chỉ còn cách đi xin kêu gọi tình
thương đồng loại. Nhưng hình như vào thời kỳ khốn khó chung cho cả nước, con
người để cho thú tính lấn áp, tình người hiếm hoi làm sao.
Ở vào cái thời mà sự dối trá tràn lan, một mình tôi nói thật, ai tin. Có một
con mụ vàng đeo đầy tay đang ngồi trong quán chỉ mặt tôi nói:" Bà con đừng
có tin mấy cái thằng xạo lưu manh này. Xin tiền chở bà con chết ở bệnh viện về
quê. Ngày nào tôi cũng thấy cái mặt hắn lảng vảng ở bến xe với mấy cái quán nhậu…”
Cuối cùng tôi phải đi bán bộ quần áo mặc trong người để thuê xe chở ông về. Còn
tiền viện phí tôi phải làm tờ cam đoan ký tên điểm chỉ, khai rõ ngọn nguồn quê
quán địa chỉ, mới được đem xác ông về.
Người ta đóng cho ông cái quan tài bằng gỗ thùng đạn, chôn ở chân đồi, lấy cái
lon sữa bò rỗng làm bát nhang.
Năm sau, vào một buổi trưa có đoàn xe du lịch sang trọng tiến vào xã. Dân chúng
chạy theo coi. Trong xe có cả người nước ngoài. Bọn trẻ con chạy theo xe hô to
:“Liên Xô ! Liên Xô !”
Xã tiếp đón rất niềm nở, họ hy vọng sẽ được ngoại quốc cho tiền, hay liên doanh
với địa phương. Khi hiểu ra chuyện đó là gia đình của Hai Sâm, họ giao đoàn cho
tôi hướng dẫn.
Buổi trưa nắng chang chang cả đoàn kéo lên đồi. Có một điều rất lạ, không thể
giải thích nổi. Hai đứa con ông, một trai một gái cỡ chín mười tuổi, chúng rất
xinh đẹp và giống ông như tạc, và như có điều gì mách bảo, chúng thân thiện với
tôi, một người hoàn toàn xa lạ, ngay lúc đầu gặp gỡ. Hai đứa nắm chặt tay tôi.
Ngang quán chị Liễu tôi ghé mua đôi nến trắng, bó nhang, tấm vải trắng lớn xé
làm nhiều mảnh khăn tang quấn cho vợ con ông, một vài người trong đoàn và cả
tôi. Tôi để giành một chiếc khăn tang dài và lớn , chẳng ai biết để làm gì.
Tôi đứng trong bóng mát cây Lim mà giờ đây sau mười mấy năm thoát khỏi ngục tù
chật chội đã trở thành tráng sĩ cổ thụ đại ngàn hùng vĩ. Tôi nhìn vợ con ông
sang trọng, xinh đẹp, dễ thương quỳ mọp sát đất theo đúng lễ nghi đông phương
bên nấm mộ thấp lè tè tồi tàn mà cỏ xanh đã úa màu. Tôi không khỏi chạnh lòng
rơi nước mắt. Cúng xong. Tất cả mọi người kéo nhau đến đứng trong bóng mát cây
Lim. Tôi cẩn thận quấn mảnh khăn sô cho cây, Mọi người lấy làm ngạc nhiên. Tôi
khấn :“Ông ơi, không ai biết chuyện đời ông, xin phép ông cho tôi được làm nhân
chứng lịch sử, kể lại câu chuyện đau thương không riêng cho ông, cho tôi mà cho
tất cả những kiếp người bị đày đọa trên mảnh đất này trong thời kỳ tối tăm nhất
của lịch sử đau thương”./.
Quý
Thể