Từ 1954 tại miền Bắc và sau 1975 trên phạm vi cả nước, bộ
máy tuyên truyền của đảng Cộng sản đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao
nhiêu thế hệ Việt Nam một Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chẳng khác gì một con ma,
ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. VNCH là hiện thân của mọi
thứ tội ác.
Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà
ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ thì VNCH có ba đặc điểm
lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas hơn mười năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Có.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có.
Nhưng các đặc điểm đó có đại diện cho Việt Nam Cộng hoà
(VNCH) không? Không.
Cho đến nay, một số người hoặc vì không có cơ hội nghiên cứu
sinh hoạt chính trị tại miền Nam, không phân biệt được sự khác nhau giữa chính
quyền và chế độ chính trị hoặc vì nghe riết những lời tuyên truyền của đảng đến
độ nhập tâm, đã đồng hoá chính quyền của các ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh với VNCH.
Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con
trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn
áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân
chủ do dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến
Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng
hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về
toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh
thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch
sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết
lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết
dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng,
bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9
chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó,
quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt.
Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực
hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng
xã hội”.
Hiến pháp 1967 tốt đẹp đến nỗi ông Lý Quý Chung, trong Hồi
ký không tên, xuất bản tại Sài Gòn trước ngày ông qua đời, dù chê bai các chính
quyền miền Nam tàn tệ, cũng không thể nói xấu bộ luật tối thượng của chế độ cộng
hoà như một diễn đàn để ông ta thực thi dân chủ: “Quốc hội lập hiến kéo dài
một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính trị tại nghị
trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua mạng lưới
báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với các vấn đề
dân chủ, chiến tranh, hoà bình v.v…”
Về căn bản, không có nhiều khác biệt giữa Hiến pháp VNCH
1967 và Hiến pháp Nam Hàn 1948 được tu chỉnh lần cuối vào năm 1987. Cả hai hiến
pháp đều dựa trên chế độ cộng hoà, phân quyền rõ rệt, thích hợp với đà tiến hoá
của văn minh nhân loại.
Dân chủ không phải là món quà của ông thần tài đem đặt ngay
trước cửa nhà mà là chiếc máy lọc từ nước đục sang nước trong, từ phong kiến lạc
hậu đến văn minh tiên tiến, và trong tiến trình đó hai quốc gia VNCH và Nam
Hàn, đều phải trải qua những kinh nghiệm máu xương trên con đường dân chủ hoá đất
nước. Giống như người dân Nam Hàn, người dân miền Nam Việt Nam cũng vừa học dân
chủ và vừa tập sống dân chủ với tất cả những khó khăn thử thách.
Điểm khác nhau chính giữa Nam Hàn và Nam Việt Nam là cơ hội.
Nam Hàn có cơ hội để biến những ước mơ của dân tộc Triều
Tiên gói ghém trong hiến pháp của họ để ngày nay là nước giàu mạnh nhất nhì
châu Á. Miền Nam Việt Nam thì không.
Chế độ cộng hoà tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên
trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã trở
thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của
chế độ cộng hoà hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống
trong tức tưởi.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ cũng phải bước
qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng vậy.
Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan
tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai,
có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng
cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính.
Nếu trước 1975, vì thiếu cái nhìn về cả hai bên của cuộc chiến
và bất mãn trước xã hội nhiễu nhương, việc kết án chính quyền là “trấn áp” có
thể còn thông cảm được, thế nhưng sau 48 năm sống dưới chế độ độc tài đảng trị
vẫn có kẻ biện minh cho hành động đốt xe, bắt cóc, ném bom xăng vào thương xá,
ném lựu đạn vào nhà hàng ăn uống trước đây thì quả thật là vô cảm.
Đặc điểm thứ ba đảng tuyên truyền là miền Nam chỉ biết “ôm
chân Mỹ”.
Thật mệt mỏi nếu lại phải lần nữa đem so sự lệ thuộc vào Mỹ
của chính quyền miền Nam và sự lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Cộng của đảng CSVN
và cũng chẳng sướng ích gì khi phải đọc lại bảng kê khai vũ khí, quân trang,
quân dụng mà hai đế quốc cộng sản đổ xuống Việt Nam.
Cho dù sự lệ thuộc vào cường quốc là điều không tránh khỏi
trong thế giới phân cực của thời kỳ Chiến tranh Lạnh vừa qua thì chọn lựa cường
quốc nào sẽ mang lại nhiều lợi ích cho đất nước hơn?
Lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn, hầu hết các nước chọn
lựa hay do điều kiện chính trị thế giới đẩy đưa, đã đứng về phía tự do dân chủ
như Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ v.v. đều trở nên
các quốc gia ổn định và phát triển nhờ chính sách đối ngoại thân Mỹ một cách
khôn khéo, trong lúc các nước theo chân Liên Xô, Trung Cộng như Bắc Việt, Cu
Ba, Bắc Hàn thì kết quả ra sao không cần phải phân tích.
Không ai từng chống Mỹ quyết liệt hơn cố tổng thống Anwar
Sadat nhưng để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Ai Cập, năm 1976, ông đã bỏ đồng
minh Liên Xô để bước sang phía thế giới tự do cho dù ông biết trước sự chọn lựa
đó có thể trả giá bằng nhiều rủi ro như ông tiên đoán trong diễn văn đọc trước
Quốc hội Israel ngày 20 tháng 11 năm 1967.
Một số người có thể cho rằng Hiến pháp VNCH cũng do người Mỹ
nhúng tay vào. Dù điều đó đúng thì đã sao. Hiến pháp của quốc gia Nhật Bản hiện
đại cũng do bàn tay của Mỹ nhưng ngày nay tướng McArthur chẳng những không bị
oán ghét mà còn được nhân dân Nhật xem như là một trong những người có công lớn
trong việc xây dựng nước Nhật hiện đại.
Dân chủ là một kỳ quan được nhân loại bồi đắp qua nhiều thời
đại chứ không phải là tài sản riêng của quốc gia nào.
Học hỏi cái hay cái đẹp của các nước tiên tiến để áp dụng
vào cuộc cách mạng dân tộc và phát triển đất nước như cụ Phan Chu Trinh từng thống
thiết kêu gào gần trăm năm trước, luôn luôn là điều đáng khuyến khích.
Phân tích để thấy, chế độ cộng hoà tuy không còn hiện diện tại
miền Nam nhưng các giá trị dân tộc, nhân bản và khai phóng thể hiện trong Hiến pháp
VNCH vẫn còn đó. Gia tài quý giá đó chẳng những không rã mục theo chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh mà ngày nay đã vượt ra khỏi biên giới Bắc Nam
để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Nếu ai cho người viết phô trương quá đáng hãy tạm gác qua
bên các định kiến Bắc Nam, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả
khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng
hoà trên trang đầu của Hiến pháp mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung của
Hiến pháp VNCH 1967 thôi, người đọc sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc
Việt Nam cần phải đạt đến.
Việc lặp lại những lời tuyên truyền cũ mèm của đảng cho rằng
chế độ cộng hoà tại miền Nam là “sản phẩm do chính quyền Mỹ tạo ra trong Chiến
tranh Lạnh” chẳng khác gì chê lớp rong rêu ngoài vỏ một con trai.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện
tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống dân
chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi
mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách
mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường,
tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế
độ cộng hoà sau này.
Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của
dân tộc đã được đổi bằng mồ hôi nước mắt của nhiều người. Những ai biết gạt bỏ
định kiến Bắc Nam, gạt bỏ lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sẽ thấy đó chính là hành
trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các
thế hệ mai sau.
Tiếc thay, viên ngọc và viên sỏi khác nhau khi nằm trong tay
người thợ bạc nhưng lại giống nhau khi nằm trong tay mấy cậu bé bắn chim.
Do đó, phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền
miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống
hay chết theo một chính quyền.
Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người
và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân
tộc.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm
thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật.
Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán,
đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng
nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và
chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn
tồn tại và lớn lên.
Đối mặt với một kẻ thù Trung Cộng đông hơn nhiều và mạnh hơn
nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3
triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay.
Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ
tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam.
Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy
tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống
giáo dục một chiều Cộng sản, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá
trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng
vào thực tế đất nước sau 48 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế,
chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi
như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện
vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào
cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo
CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng, họ không có và cũng
không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm
người cầm quyền được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước.
Sau mỗi cơn giận hờn, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc
Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm
thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng Cộng sản theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai
nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt
Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy.
Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế
hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc
tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng
nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Giống như hầu hết các nước cựu Cộng sản ở Đông Âu và khối
Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ
bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16
chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ Cộng sản.
Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển
thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH
trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư
cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất,
dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của
đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới.
Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu
gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng
chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.