Mấy ngày qua tôi dọn dẹp nhà cửa để đón cặp vợ
chồng từ tiểu bang Connecticut qua. Chị tên Thanh Hương, thuộc khoá đàn chị của
trường NTN mà tôi thường sinh hoạt họp mặt chung, anh tên Lê Phong đi du học Mỹ
khóa một OCS (Officer Candidate School) vào năm 1970, là Sĩ Quan Liên Lạc
Hải Yểm (Naval GunFire Liaison officer). Anh đã đi tù “cải tạo” từ
năm 1975 tới 1985.
Anh chị qua dự khoá hội ngộ “Gia Đình Hải Quân THĐ /OCS” tại nhà hàng Dynasty nằm
trong khu Grand Century thuộc vùng Bắc Cali. Hai ngày nữa mới họp mặt, nên anh
chị có thời gian chở tôi xuống Sacramento thăm bà hiệu trưởng trường Nữ Trung Học
Thành Nội xưa.
Sáng nay dậy sớm, tôi dọn thức ăn sáng và pha cà phê. Mấy anh em ngồi ôn chuyện
xưa ngoài vườn. Tiếng chim hót réo rắt vui tai, không khí yên bình của buổi
sáng tạo cảm giác thảnh thơi cho những người lớn tuổi đã về hưu, hưởng nhiều bổng
lộc của đất nước Mỹ này. Bắt đầu từ những câu chuyện trên trời dưới đất, đi
quanh thời gian hiện tại và ngày xưa, từ từ dẫn đến giai đoạn miền
Nam bị rơi vào tay Cộng Sản. Bỗng dưng nét mặt anh Phong trầm xuống. Anh kể
khoảng thời gian bị đi tù, quãng đời mà anh nói luôn ám ảnh trong đầu óc, dù
anh đã cố gắng quên.
Chúng tôi hết đùa giỡn, lắng nghe câu chuyện một cách trân trọng của những mảnh
đời khổ nhục lúc bị mất nước. Những người con từng hăng say chiến đấu, hy sinh
tính mạng để bảo vệ đất nước, nhưng vận nước nổi trôi, và các anh phải chịu sống
trong lao tù đày đọa. Giọng anh từ từ như đang sống lại …
– Tui bị đưa đi “cải tạo” đầu tiên từ trại Thanh Hóa, rồi đến Nghệ An, Hà Tịnh,
Lòng Hồ Sông Mực, cuối cùng về trại Ái Tử Bình Điền. Nói chung khi được mùa
khoai bắp thì tiêu chuẩn mỗi tù nhân nhận hai trái bắp đủ hột, ăn không được
no, mất mùa thì trái bắp không có hột, chỉ toàn là cùi bắp, tù nhân phải ăn hết
cùi bắp mới giải quyết cơn đói hành hạ đến run tay run chân.
Chị Hương nén tiếng thở dài, quay sang tôi:
– Em thấy khổ chưa
Anh tiếp tục:
– Ngày nọ vệ binh ném lựu đạn bắt cá ở Lòng Hồ Sông Mực, cán bộ đã bắt hết những
con cá lớn béo tốt. Buổi chiều sau một ngày lao động, tù nhân trở về sông tắm rửa,
còn lại những con cá nhỏ, anh em tù bắt về dự trù tối nấu ăn. Nơi Lòng Hồ Sông
Mực trời rất lạnh, nên hai đầu láng lúc nào cũng có hai nhóm lửa để sưởi ấm. Một
anh tù tên T hí hửng, mừng rỡ công lao mình hốt được lon cá, vừa đem ra tìm
cách hơ cho cá chín. Không may, bọn cán bộ đi ngang qua, họ túm anh này ra
ngoài rừng bắt ăn lon cá sống. Anh T vừa ăn vừa ói mửa nôn thốc vì mùi
tanh. Nhiều cán bộ bao vây đánh anh T liên tục, ép phải ăn cho hết. Suốt buổi anh
T bị đánh nhừ người, tiếng ói như bò rống vang trong đêm khuya. Anh em bạn tù nằm
nín thở không ai ngủ được, trăn trở nhìn ánh lửa bập bùng trong bóng tối,
trí óc ngớ ngẩn tê liệt, miệng lưỡi đắng nghét, quai hàm cứng lại muốn á
khẩu.
Anh ngừng nói, hợp ngụm cà phê dường như đè nén nỗi cảm xúc đang dâng lên
– Tui cũng vớt được nửa lon gô, đêm trắng mắt sợ hãi, ám ảnh âm thanh ói mửa của
T, chỉ trông trời mau sáng để đem cá ra suối đổ đi, vì điều đơn giản là không
muốn mình bị đánh và ăn cá sống như anh bạn.
– Trời ơi
Tôi rùng mình thốt lên. Anh lắc đầu nói tiếp:
– Anh Nguyễn N trước là Đại uý Trinh Sát có dáng người cao ráo, nhanh nhẹn, đẹp
trai và tánh tình rất vui vẻ. N được phân công làm đội trưởng ra vào nhà bếp
nhận những việc lặt vặt. Nhà bếp để dành phần cơm cho cán bộ đi công tác, N đói
quá ăn lén phần cán bộ nhiều lần. Cán bộ nghi ngờ giả đi công tác, rình rập
theo dõi và N bị bắt quả tang, cán bộ đánh một trận nhừ tử gần chết. Cái đói
hành hạ thời gian sau N thường bắt cóc nhái ăn, rồi bị chết và chôn tại
Lòng Hồ Sông Mực.
Im lặng một hồi như đang nguyện cầu cho người bạn xấu số, mọi người cũng im lặng
theo, anh tiếp:
– Cán bộ có lúc ăn tiệc, thức ăn dư thừa quăng đổ vào thùng nước gạo. Ngày
hôm sau những người giữ công việc nuôi heo dùng nước gạo, vớt những thứ gì có
thể ăn được đem về chia anh em tù, bị cán bộ biết được, họ cấm không cho đụng
tới thùng nước gạo, chờ đến năm, sáu ngày sau thùng nước thối rữa mới
cho lấy.
Hàng ngày anh em vào rừng kiếm gỗ, có những khúc to nặng tới mét rưỡi, gắng sức
cả chục người mới vác về nỗi, dùng cưa đóng bàn ghế cho cán bộ. Có những hôm đi
sâu tới ba, bốn ngọn đồi. Anh em gặp bãi nấm vui mừng hái luộc ăn tại chỗ,
ai dè bị trúng độc. Trong đoàn có bác sĩ H bị nặng nhất, đi không được anh em
phải khiêng về.
Nhấp tiếp cà phê, anh lại thong thả:
– Tụi tui đi Thanh Hoá chặt 10 hecta rừng ở Lòng Hồ Sông Mực để làm
Thuỷ Điện. Giai đoạn đó tui bị bệnh thương hàn nặng được đưa về Ái Tử. Một hôm
khoảng chín, mười người tù rủ nhau đi trốn, vừa ra cổng đã bị chận bắt.
Tui được giao việc nuôi heo, mang thức ăn cho những người ngồi trong hộp (chuồng
chó). Đi ngang qua ngôi nhà điều tra của cán bộ, thấy áo tù dính đầy máu rớt
văng từng mảnh khắp nơi, chắc hẳn các bạn tù bị đánh đập kinh khủng lắm….
Tô cháo đã vơi, ly cà phê cũng
cạn. Trời rực hồng tươi sáng, cây cỏ xanh um, mấy khóm hoa hồng vàng, đỏ, tím
tươi màu còn đọng những giọt sương mai lấp lánh chưa chịu tan. Bầu trời xanh
ngát, những cụm mây trắng tản mát trôi nhiều phương, tôi ngẩng mặt nhìn rồi thốt
một câu lấy lệ “ngàn năm mây bay” để cố nuốt những giọt lệ chực trào ra, trái
tim nén thở theo câu chuyện đau lòng tức tưởi.
Tôi châm trà thêm vì anh vẫn nói say
sưa như chưa bao giờ được nói. Hình như mắt anh lạc thần, không nhận diện những
gì trước mắt mà chỉ thấy khoảng thời gian trong địa ngục tối tăm của tháng ngày
tù đày.
Nhiều tiếng phôn liên tục, anh Phong tạm ngưng câu chuyện để sửa soạn lên họp bạn,
bàn bạc chuẩn bị cuộc gặp gỡ của “Gia Đình Hải Quân THĐ /OCS” ngày mai.
Đêm hội ngộ khoảng hơn hai
trăm người. Bạn bè gặp nhau tay xiết chặt mừng rỡ, bộ y phục trắng ngời
của binh chủng Hải quân lúc làm lễ thật oai phong đẹp mắt.
Tôi đang để dòng ký ức quay về năm tháng cũ thì anh Phong đến ngồi bên chúng
tôi, nét mặt anh tư lự thoáng buồn:
– Họp mặt để gặp nhau mừng rỡ chuyện trò, vì mái tóc ai cũng đã điểm sương chiều,
vượt tuổi thất thập cổ lai hy. Bao nhiêu bạn đã ra đi, mấy người còn ở lại?!!
Nhớ thời tuổi trẻ giữ gìn non sông, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc, bảo vệ lá cờ
vàng có chính nghĩa. Sự biến đổi tình hình quá lẹ làng, cái đau của thể
xác nào so được nỗi đau của tinh thần luôn dày vò. Mặc lại bộ quân phục của Hải
Quân như để giải tỏa niềm mơ ước cũng như nỗi uất ức phần nào, và cũng để ôn
lại một thời của người lính Việt Nam Cộng Hoà với tinh thần bất khuất, sẵn sàng
chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Tôi suy nghĩ miên man: những lớp người được đi du học Mỹ, được đào tạo huấn luyện
kỹ càng về ngành thuỷ. Tinh thần họ anh dũng, chí làm trai can trường, sẵn sàng
chiến đấu để bảo vệ miền Nam, đem sự an vui cho người dân sống trong ấm no, tự
do và hạnh phúc. Biết bao người lính đã hy sinh xương máu với cuộc chiến do miền
Bắc muốn xâm lấn, biết bao người lính vẫn kiên trì chiến đấu đến giờ phút cuối. Ôi
thế sự bể dâu…Chỗ lạc hậu đòi giải phóng nơi tân tiến văn minh, chỗ nghèo đói
đòi giải phóng nơi ấm no. Họ dùng miệng lưỡi khôn khéo để ngon ngọt với dân miền
Nam, nhưng dân miền Nam vẫn luôn nhớ câu nói của tổng thống Thiệu “Đừng nghe những
gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm.”
Các hình ảnh đấu tố chôn sống cày đầu thật dã man tàn ác ở miền Bắc với
chiến dịch cải cách ruộng đất. Chuyện điển hình là ông nội tôi có tên trong
danh sách, gia đình phải trốn thoát chạy đêm từ làng quê lên Hà Nội để xuống Hải
Phòng di cư vào Nam. Ký kết ngừng bắn, để dân được sống yên bình nhưng tuổi thơ
của tôi luôn nghe bên tai tiếng pháo kích, luôn xem cảnh nhà sập, trường học sập,
trẻ em người lớn chết thảm thương diễn ra hằng ngày. Bằng chứng rõ rệt nhất là
Tết Mậu Thân không thể che giấu được tội ác của họ. Miền Nam đào tạo các binh
chủng lính là để tự vệ, quan tâm bảo vệ tới đời sống thanh bình của người dân
chứ chẳng xâm lấn miền Bắc, chỉ có họ ký kết ngưng bắn nhưng lại phá hủy, xé
ngay bản hoà đàm Paris.
Tháng tư năm 1975 họ chiến thắng
miền Nam, cho tôi mở lớn mắt nhìn cảnh tượng người dân Quảng Trị vừa nghe rục rịch
tình hình chiến sự đã khủng hoảng cắm đầu chạy trên Đại Lộ Kinh Hoàng để vào Huế,
đã diễn ra biết bao cảnh chết chóc điêu tàn. Huế lại đua nhau chạy vào Đà Nẵng.
Tại sao lại có cảnh cha gánh mẹ già, vợ vác con dại…Từng đoàn người lầm
lũi đi bộ trên đèo Hải Vân, dùng tất cả sức mòn hơi cạn miệt mài đi như chạy trốn
ma quỷ đang ám sau lưng, tiến nhanh về phía có ánh mặt trời.
Tháng tư năm 1975 một bầu trời tang
thương, mây đen u ám chụp xuống cuộc sống dân miền Nam. Nhà sĩ quan bị tịch
thu, dân bị ép đi kinh tế mới, con “ngụy” không được học. Vợ sĩ quan lăn lóc giữa
chốn bụi trần, dãi nắng dầm mưa kiếm cơm gạo nuôi con, và chắt chiu từng đồng
dành dụm đi thăm chồng…
Đổi tiền, khám xét tư gia thành phần buôn bán, ăn cướp trắng trợn tài sản mồ
hôi nước mắt của dân…Đây rất rõ ràng chuyện của ba tôi, ông là trưởng cuộc
Cảnh Sát, sau một năm đi học tập, ông không được ở thành phố. Muốn yên thân ba
tôi kéo cả gia đình lên kinh tế mới vùng Sông Dầu thuộc tỉnh Phan Rang sinh sống.
Với sáng kiến và sự lanh lẹ tháo vát, ông mở ngay lò đúc gạch, con cái sắm bò
vào rừng kéo gỗ. Tình trạng khả quan ba tôi tuyển hết dân trên vùng kinh tế mới
vào làm lò gạch, phát lương và xuất tiền trả bệnh viện lúc công nhân ốm đau. Dần
dần ông đệ đơn xin huyện xã cấp gạo theo tiêu chuẩn công nhân được hưởng quyền
lợi lãnh phần mỗi tháng. Công việc càng ngày càng phát triển, các bệnh viện,
trường học, cơ quan lên ký hợp đồng mua gạch rất đông khách hàng. Chỉ một khoảng
thời gian ngắn khấm khá, cấp lãnh đạo gởi giấy “mượn” lò gạch, mượn trâu bò và
xe kéo. Ba tôi biết trước tình hình, còn chút của cải là hai chiếc xe đạp và
máy hát, sáng sớm hôm sau cha con tôi đạp về vùng kinh tế mới khác gởi nhà
ông chú. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh hai cha con đạp xe từ 5 giờ
sáng tới 2 giờ chiều dưới trời nắng gắt, chỉ nghỉ ăn cơm trưa nơi cửa hàng
dịch vụ ăn uống tại thành phố Phan Rang. Ba tôi thở dài nói với các con “Một chế
độ lạ lùng bất nhân, mình nghèo thì họ đạp cho chết luôn, mình khá một tý thì họ
đi ăn cướp ngang nhiên …chưa thấy chế độ nào như chế độ này.”
Khi họ vào chiếm Đà Nẵng, mẹ tôi sợ hãi tột cùng, mặt tái xanh gọi tôi lại, đưa
tiền và mếu máo nói “con thích ăn gì thì cứ ăn, xong tới tiệm thuốc Tây mua mấy
chai thuốc diệt rầy bọ về, mấy mẹ con mình cùng uống, chứ mẹ đã từng sống với họ
rồi, sống không nổi đâu con ơi”. Tôi sững sờ nhưng quay lưng bỏ đi tránh nhìn
nét mặt đau khổ tột cùng của người mẹ đã chạy trốn năm 1954 di cư vào Nam.
Cảnh vượt biên tiếp diễn, chồng vợ xa
nhau, tình yêu tan rã, gia đình ly tan, mạnh ai nấy đi tìm sự sống, tìm sự tự
do trong nguy hiểm, sống chết liều mình giữa biển khơi, đàn bà con gái gặp hải
tặc. Chẳng kể đâu xa, gia đình nhà chồng tôi có em gái bị mất tích, cháu gái biền
biệt không nghe tin tức, bà con chồng bị hải tặc giết quăng xác giữa biển khơi.
Muốn hiểu thêm nữa thì có hàng vạn chuyện thương tâm kể sẽ không hết.
Thông cảm niềm đau chung của đất nước
và nỗi buồn khôn tả của các anh. Nhớ lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam “làm
tướng mà không giữ được thành thì sống làm chi nữa”, cùng Thiếu Tướng Phạm
Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên
Vỹ cũng như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn văn Long, và còn nhiều nhân vật
khác nữa đã tuẫn tiết. Những người lính thầm lặng bỏ xác, còn các anh thì bị
đày đọa chốn rừng sâu nước độc, chỗ tăm tối mà loài người cứ ngỡ chỉ
có ở chín tầng địa ngục trong các bộ kinh Phật Giáo thường đọc, nhưng sự
thật đã hiển hiện ngay nơi cõi trần gian này.
Ngày cuối cùng anh chị còn lên San Jose dùng bữa cơm thân mật với số bạn bè định
cư vùng này trước khi trở về. Chia tay chúng tôi, anh chị than nhẹ
– Đi chơi vẫn không yên, bà con kêu réo giúp việc này, lo việc kia dồn dập.
Tôi cười:
– Tại có tài thì phải mang nợ.
Quả thực trong thời gian ở lại nhà tôi, anh chị đã bận rộn liên tục trả lời
phôn. Tôi được biết bước đầu lúc đặt chân đến Mỹ, định cư nơi tiểu bang Connecticut,
anh làm việc tại cơ quan International Rescue Committee (IRC), giúp đỡ người tỵ
nạn thế giới. Lo vấn đề foodstamp, trợ cấp, welfare, tìm xe, hướng dẫn đường xe
bus, kiếm việc, làm SS, ID.
Lúc tuổi về hưu cho đến hiện nay anh nhận thông dịch mọi việc toà án, bệnh
viện, di trú, quốc tịch. Hai người thay phiên nhau đi đón phi trường hoặc
làm tài xế những việc khẩn cấp.
Anh chị là người sống có tình có nghĩa, đầy ắp lòng nhân hậu nên tùy trường hợp
mà tính giá tượng trưng hoặc giúp đỡ không công.
Tiễn anh chị ra xe, anh tuy đã gần bát thập nhưng nhìn còn khỏe mạnh, hai người thường lái
xe xuyên bang thăm bạn bè. Con cái trưởng thành lập gia đình ra riêng, chỉ còn
đôi vợ chồng già tìm niềm vui nơi các sinh hoạt cộng đồng, nơi hội Cao Niên, và
họp bạn năm xưa. Những câu chuyện anh kể, hãi hùng và man rợ đã lấy những giọt
nước mắt của tôi không ít. Giờ đây các anh còn chỗ dung thân nơi đất khách quê
người, tuổi già lực bất tòng tâm, nhưng vẫn còn an ủi được nhìn thấy lá cờ vàng
thân yêu. Tôi luôn kính ngưỡng những người lính Việt Nam Cộng Hoà, những người
bị tù tội một thời tưởng như từ cõi địa ngục được sống sót trở về.
Tháng Tư Bừng Ký Ức
Mỗi tháng tư về gợi nhớ thay
Miền Nam điêu đứng lệ vơi đầy
Đua nhau chạy giặc tìm phương thoát
Giặc Cọng xông tràn quyết chiếm vây
Lầm lũi đoàn người bước thật nhanh
Hải Vân cuốc bộ vẫn cam đành
Tay bồng, tay ẵm kiên trì sức
Gắng gượng trèo đèo phút tử sanh
Các tướng can trường chẳng sợ chi
Niềm đau “mất nước sống làm gì“
Xem thường sự chết tìm đường tử
Lịch sử trang hùng sẽ khắc ghi
Người lính phế binh quá thảm thương
Thân đang điều trị chuyện khôn lường
Lết rời bệnh viện đời tăm tối
Cuộc sống không tìm ánh thái dương
“Cải tạo” chồng đi biệt mút mùa
Rừng thiêng nước độc bị giam lùa
Khổ sai, lao động thân mòn mỏi
Nước mắt chan hoà cúi phận thua
Vợ lết bên lề nét xác xơ
Kiếm tiền nuôi nhọc đám con thơ
Chắt chiu gom góp thăm tù tội
Đợi mãi mù tăm dõi bóng chờ
Những kẻ yêu rồi cũng hết duyên
Chia tay vượt biển trốn chui thuyền
Tương lai tự cứu liều giông bão
Ánh sáng Tự Do quyết đến miền
Mỗi tháng tư về dạ chứa chan
Lưu vong gìn giữ lá cờ vàng
Bây giờ dẫu điểm sương đầu bạc
Bốn tám năm còn nỗi hận mang
Minh Thúy Thành Nội
Tháng Tư / 2023