Bên ngoài trời mưa tầm tã. Cửa đóng kín nhưng trong nhà vẫn nghe tiếng gió giật từng cơn. Vinh nhìn lên đồng hồ treo tường thấy đã chín giờ tối, như vậy cơn mưa đã kéo dài hơn hai tiếng. Nếu trời không mưa giờ này chắc Vinh vẫn còn ngồi ở quán cà phê nói chuyện với anh em cho qua thì giờ vì vợ con đã về quê, hết giờ làm về nhà thấy trống vắng buồn bã. Cầm ly trà lên, Vinh uống hết một chút còn lại. Trà nguội nhưng vẫn còn ngon lắm, pha từ gói trà nhỏ của ông Văn, nhân viên trong sở tặng cho Vinh hồi chiều. Món quà thật nhỏ nhưng gói ghém ân tình lớn cho người sa cơ lỡ bước. Vinh tính mang ly xuống bếp rửa rồi lên lầu đi ngủ sớm thì nghe tiếng gõ cửa dồn dập. Vinh thầm lo, nghĩ có thể là công an đến bắt người vì đêm hôm mưa gió ai mà đến thăm.
Chuyện công an đến nhà bắt người không cần trát tòa hay báo trước là chuyện thường xuyên trong chế độ mới. Biết là phải mở cửa nhưng Vinh cũng lớn tiếng hỏi xem là ai. Bên ngoài cũng gào lên để át tiếng gió “Em là Hải đây Ông Thầy ơi. Xin mở cửa”. Hải lách mình bước vào trong nhà rồi xoay người đóng ngay của lại. Hải mặc áo mưa dài, đội nón bảo hộ nhưng cả người ướt nhem vì mưa lớn quá. Trong khi Hải cởi áo mưa Vinh nối dây cái sưởi điện để trên bàn và nấu nước pha ấm trà mới. Vừa ngồi xuống, Hải lên tiếng “Trời mưa bão nhưng em cũng muốn đến vì có chuyện quan trọng cần bàn với Ông Thầy”. Hải vừa nói vừa cười, cũng với nụ cười ấm cúng và thân tình như xưa. Tuy bất ngờ cả về hoàn cảnh thăm viếng và lý do nhưng Vinh vẫn giữ thái độ tỉnh táo, vui vẻ và chú ý lắng nghe không tỏ vẻ nghi ngại gì cả. Năm 1972 vào thời điểm sản xuất đạt
kỷ lục cao nhất nhà máy xi măng tuyển dụng nhiều nhân công trẻ là người địa
phương không có nghề kỹ thuật, vào làm việc với tư cách phu thường. Hải là một
trong số nhân công mới này. Lúc đó Hải còn mang tên Phan Văn Hai, 18 tuổi, nghề
phụ đánh cá, thuộc diện hoãn dịch lý do gia cảnh “mẹ góa con côi”. Khi đó
Vinh là trưởng cơ xưởng nên cho Hai làm theo toán thợ hàn. Nhờ có sức vóc và chịu
khó lại thêm tính tình hiền hậu dễ thương nên Hai làm việc rất năng nổ, được mọi
người thương mến. Một năm sau Vinh sắp xếp cho Hai học việc thợ hàn. Nhờ tính
chuyên cần ham học hỏi Hai luôn tìm dịp học ở Vinh và các thợ giỏi về lý thuyết
nghề hàn điện nên tiến bộ rất nhanh. Chưa đầy hai năm từ ngày vào làm Hai có thể
tự mình làm được nhiều việc và được lãnh lương phụ thợ. Vì thế, Hai vẫn gọi
Vinh là “Ông Thầy” để tỏ lòng biết ơn đã nâng đỡ và cất nhắc. Vinh từng khuyên
nhủ Hai chỉ cần làm việc siêng năng là đủ chứ không cần xưng hô như thế nhưng
Hai vẫn gọi khi không có người thứ ba.
Biến cố bi thương của ngày 30 tháng
tư đến không ngờ. Cả hai phe thắng và bại đều gọi là “cuộc đổi đời”. Mọi thứ đều
thay đổi, theo chiều hướng đi xuống, từ thực tế đời sống cho đến giá trị con
người. Ban giám đốc cùng những kỹ sư trụ cột của nhà máy tuy không trực tiếp cầm
súng chiến đấu, chỉ làm công tác kỹ thuật nhưng cũng bị đưa đi tù tập trung với
mỹ từ là “học tập cải tạo”. Đây là đòn thù có tính toán và lường gạt ở qui mô lớn,
không lường được hậu quả đất nước sẽ tụt hậu do thiếu nhân lực xây dựng thời hậu
chiến. Nhóm điều hành mới của nhà máy cũng có ban giám đốc cùng với đầy đủ các
ban ngành nghe tên rất “nổ” nhưng thực chất gồm toàn những kỹ sư không có ai
làm được bài toán phân số. Thực trạng này không chỉ có ở nhà máy Vinh từng làm
việc mà xảy ra ở tất cả các cơ sở, từ kỹ thuật, giáo dục đến y tế trên toàn miền
Nam. Vì thế dân chúng đã xài những danh từ mới như “bác sĩ xuyên tâm liên” “kỹ
sư chuyên tu” để chế nhạo những chất xám của chế độ mới luôn hô hào là nhân dân
làm chủ đất nước. Và những ông bà chủ này lại bị gạt thêm một lần nữa khi nghe
rêu rao là nhà nước khoan hồng cho một số bác sĩ kỹ sư trở lại nhiệm sở cũ để
lao động xây dựng đất nước chứ không dám nói là với đội ngũ bác sĩ khám bệnh chỉ
cần mang ống nghe vào một lỗ tai và kỹ sư cơ khí chỉ có tay nghề đánh búa tạ để
tán “lê vê” thôi thì làm sao điều hành những bệnh viện và nhà máy tối tân của
miền Nam. Vinh là một trong số những trí thức tạm gọi là may mắn được thoát tù
cải tạo sớm vào thời điểm đó. Ngay hôm sau ngày Vinh trở về nhà máy cũ một ông
cối là Đỗ Mười, bộ trưởng bộ xây dựng của chế độ mới đến “tham quan” và tập
trung những kỹ sư “ngụy” lên hội trường để nói chuyện. Lão quan chức nức tiếng
này đúng như lời truyền miệng sau khi nhân dân đọc được những lời ca tụng tâng
bốc của báo chí đương thời. Đó là một quan lớn tài nghệ tuyệt vời, luôn kiên
quyết hành sử đúng theo lập trường của giai cấp công nhân với một khuôn mặt rặc
ròng “răng đen mã tấu”, Không khác gì các quan chức khác, nhất là ở các trại tù
tập trung, ông ta nói dai nói dài nói dở và lời lẽ vô cùng sắt máu. Buổi “trao
đổi” với các kỹ sư “ngụy” thực sự là đòn đe dọa phủ đầu mà thôi. Nội dung vắn tắt
Vinh không bao giờ quên là “Các anh thuộc giai cấp bóc lột. Cách mạng không
giết, tha học tập cải tạo còn cho các anh trở về làm việc lại là sự khoan hồng
to lớn. Các anh phải giác ngộ, tự nguyện lao động tốt để lấy công chuộc tội với
quần chúng nhân dân và xây dựng đất nước. Các anh bây giờ chỉ là cá nằm trong rọ.
Càng phản kháng hay phá hoại chỉ tự làm trầy vi tróc vẩy mà thôi. Các anh phải
nhớ lấy”. Nói đến đây ngài bộ trưởng lên giọng, gương mặt vênh lên phừng phừng
giận dữ, tiếng nói rít róng giữa hai hàm răng khít chặt nghe thật khiếp. Số phận
của kỹ sư “ngụy” lưu dung được một quan lớn khẳng định là như thế. Liệu hồn mà
giữ lấy mạng.
Khi trở lại làm việc Vinh gặp lại
Hai. Cuộc đổi đời đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời của Hai một cách không ngờ. Từ
Phan Văn Hai phụ thợ hàn trở thành Phan Thanh Hải bí thư đoàn thanh niên CS. Được
chế độ mới xem là rường cột để bồi dưỡng trở thành lãnh đạo trong tương lai nên
thanh niên được tin cậy và giao phó nhiều nhiệm vụ quan trọng. Công nhân, tức
là chủ mới của nhà máy, xì xào Hai có cha là dân tập kết năm 1954 chứ không phải
là con mồ côi. Sau 1975 thân phụ của Hai hồi kết làm tới bí thư tỉnh ủy của địa
phương. Câu tục ngữ “Con vua thì được làm vua. Con sãi ở chùa thì quét lá đa”
cũng được áp dụng triệt để trong chế độ mới. Chữ triệt để ở đây bao hàm ý nghĩa
người tin cậy được không cần có tài đức chỉ cần huyết thống của đảng viên là đủ
để khỏi phản phúc. Cha, bí thư tỉnh ủy thì con trai bí thư đoàn thanh niên là
chuyện tất nhiên rồi. Vinh thắc mắc, với trình độ học vấn tiểu học, ít nói, chỉ
có cá tính hiền lành, chăm chỉ thì từ phu chuyên leo lên tới chức bí thư đoàn
thanh niên Hải phải “phấn đấu” tới cỡ nào mới phục vụ tốt cho đảng. Tuy Hải đã
xem Vinh là ân nhân nhưng hoàn cảnh đã đổi khác liệu có yên ổn hay không. Vì
suy nghĩ như thế nên mỗi lần gặp mặt Hải thấy anh chàng vẫn vui vẻ và lễ phép
như xưa Vinh không thấy thoải mái tuy vẫn điềm tĩnh và lịch sự khi nói chuyện.
Đêm nay, dù trời mưa bão Hải một mình đến nhà thăm bảo là có chuyện muốn bàn
làm cho Vinh không khỏi bồn chồn lo ngại nhưng vẫn bình thản chờ Hải mở lời.
Hải ngồi xuống ghế cầm ly trà lên
nhấm nháp chậm rãi. Đây không phải là phong cách của người làm công tác thanh
niên phục vụ chế độ mới có xuất thân nghèo khó từ thời trước. Thấy Hải có vẻ do
dự như có điều khó nói, Vinh lên tiếng “Có gì cần bàn em cứ nói. Anh em mình
đâu có xa lạ gì.” Hải nhìn Vinh chăm chú rồi lại cười gượng gạo, thò tay
vào túi áo lấy ra môt bọc nylon có gói cuốn sổ tay nhỏ đưa cho Vinh “Ông Thầy
coi giùm em cuốn sổ ghi chép này rồi em sẽ nói”. Vinh cầm cuốn sổ mở ra
xem. Đây là sổ nhật ký với nét chữ ngã nghiêng khó đọc, ghi ngày giờ không liên
tục bắt đầu từ ngày Vinh trở về nhà máy làm việc cho đến buổi viếng thăm bất ngờ
đêm mưa hôm ấy. Nội dung là ghi lại những cuộc tiếp xúc của Vinh, hầu hết là
ngoài nhà máy, với ai, giờ nào, ở đâu, nói chuyện gì, và cả kết quả những lần lục
lọi hồ sơ riêng của Vinh cất trong bàn giấy ở văn phòng. Đại loại như (… ngày…giờ…gặp
trưởng toán Bé, thợ máy Quân, tài xế An ở quán cà phê chợ Tròn nói chuyện tân
trang xe buýt chở công nhân. … Ngày…giờ … gặp cán sự Trọng, thư ký Phan, thợ dầu
mỡ Bốn ở quán cà phê chợ Tròn, nói gì không nghe được vì ngồi xa quá …Ngày … giờ
…đi dạo cư xá có ghé nhà tài xế Lến … Ngày…giờ…kiểm tra giấy tờ trong tủ ở văn
phòng tu bổ, không phát hiện gì mới…). Đọc xong cuốn sổ, Vinh bần thần cả
người, toát mồ hôi sống lưng dù trời đang mưa lạnh. Không tin tưởng và nghi ngờ
nhân viên cũ là chuyện Vinh có thể đoán được, nhưng điều ngạc nhiên là họ theo
dõi quá chặt chẽ bằng một người đang đắc thời, vẫn luôn miệng nói là không bao
giờ quên ơn sự giúp đỡ của Vinh như Hải. Với thân phận lưu dung Vinh tự biết là
chỉ nên nín thở qua sông, không dại dột làm chuyện phản kháng qua những cuộc tiếp
xúc với người khác nên cứ ghi chép trung thực sẽ không thấy gì lạ. Còn chuyện
đêm tối, sau giờ làm việc, cho người lục lọi chỗ làm tìm âm mưu phá hoại thì quả
tình là đáng sợ. Chuyện này Vinh đã biết từ lâu vì mỗi ngày trước khi ra về đều
sắp xếp ngay ngắn các giấy tờ, tài liệu kỹ thuật trong ngăn tủ nhưng cách vài
ngày vẫn thấy xáo trộn trật tự, chứng tỏ có một bàn tay động đến. Biết đâu họ sẽ
bỏ vào tủ giấy tờ những tài liệu phản động rồi bắt Vinh đi tù khi nhà máy đã “vắt
chanh” xong. Ngày đó chắc không xa, chưa biết chừng nào mà thôi.
Vinh nhìn Hải cười và đưa trả cuốn
sổ “Nói thực lòng, anh hiểu chuyện này em làm theo chỉ thị của cấp
trên, nhưng anh không biết em cho anh xem để làm gì ” Hải thừ người mắt
nhìn xuống, cố bày tỏ bằng một giọng ngần ngại “Em xin lỗi Ông Thầy. Xin
thông cảm, em đâu muốn làm chuyện này, người ta bắt buộc em. Chức bí thư đoàn
thanh niên nữa, em cũng đâu có ham.” Hải nói tới đó thì ngưng, quay qua
nhìn Vinh bằng ánh mắt đau khổ. Vinh an ủi “Anh biết em khổ tâm khi làm chuyện
này. Có điều gì muốn nói thêm em cứ mạnh dạn vì em cũng biết anh là người hiểu
chuyện mà” Hải tiếp tục uống trà, im lặng chốc lát, do dự như để tìm
lời rồi nói liền một hơi không nghỉ “Làm việc cho chế độ mới mấy năm em biết
nhiều chuyện lắm. Người ta sẽ không để cho Ông Thầy yên thân đâu. Sao anh không
đi cho xa. Em đưa anh coi những ghi chép em đã làm chỉ muốn anh biết là tụi nó
sẽ tìm cách hại anh. Tha lỗi cho em. Đêm nay em tới thăm là bởi vì em thực tình
muốn giúp anh vượt biên. Tin tưởng em đi, em không gạt Ông Thầy đâu. Gia đình
em sống ngoài hòn Sơn Rái như anh đã biết. Má em nghèo nhưng cậu của em có ghe
lưới đưa người đi. Em đã gởi gấm và ổng chịu giúp rồi không lấy tiền gì hết.
Ông Thầy đồng ý thì giao cho em lo liệu, không sợ ai biết đâu” Từ lúc
bước chân vào nhà cho đến khi nói hết ý người “đệ tử” xưa đã dẫn “Ông Thầy” đi
từ bất ngờ này qua ngạc nhiên khác. Chàng thanh niên ít học hiền lành chăm chỉ
mới sau mấy năm bỗng lột xác trở thành kịch sĩ tài ba rồi chăng. Vinh thấy mình
nên hoãn binh, câu giờ là tốt nhất nên bắt tay Hải “Anh hiểu hoàn cảnh và
tin em thực lòng muốn giúp anh. Chuyện lớn và bất ngờ quá em cho anh thời gian
suy nghĩ rồi trả lời”. Thầy trò lại bắt tay từ giã. Hai bàn tay Hải thật ấm
áp và cũng có thể là tay Vinh đang lạnh cóng.
Khi Hải ra về trời đã ngưng mưa. Chờ
Hải khép cổng hàng rào Vinh mới khoát tay chào rồi đóng cửa, ngồi xuống ghế
châm điếu thuốc và tiếp tục uống trà để nghĩ lại những chuyện vừa xảy ra. Thật
bất ngờ và đáng suy gẫm. Mấy năm nay ở nhà máy này Hải là nhân vật nổi bật, được
đảng ủy tin cậy nên tiếng nói có trọng lượng được thanh niên chấp hành nghiêm chỉnh.
Là công nhân bình thường, chỉ học xong lớp ba tiểu học, không biết ăn nói, cũng
không có biệt tài nào cả thì đảng phải có chiếc đũa thần mới hô biến Hải trở
thành một cán bộ mưu lược trong thời gian ngắn như thế. Thân phụ của Hải đang
ngồi ghế bí thư đảng ủy tỉnh nhà chắc chắn có thế lực và ảnh hưởng lớn đến sinh
hoạt chính trị của nhà máy nên cầm chắc là Hải sẽ không bao giờ dám làm điều gì
có hại đến an ninh chung. Mẹ của Hải vẫn còn sống ở đảo, gia đình có làm chuyện
đưa người vượt biên và Hải thật tâm muốn giúp Vinh vượt thoát cũng không cần
suy nghĩ có nên tin hay không. Hải đã được giao nhiệm vụ theo dõi hoạt động của
Vinh thì chuyện dàn dựng cái bẫy giúp vượt biên cũng là việc đảng có thể chỉ đạo
cho Hải làm. Nếu chưa gài bẫy và đây là hảo ý thì liệu Hải có thể làm được
không khi bị người khác âm thầm theo dõi và báo cáo vì dù gì thì đảng ủy nhà
máy sẽ không hoàn toàn tin tưởng một cán bộ mới được đề bạt như Hải, một thanh
niên sinh trưởng ở miền Nam không có kiến thức và hiểu biết chính trị chỉ có
cha là cán bộ cách mạng mới hồi kết công tác ở chính quyền địa phương chứ không
phải nhà máy.
Vinh từ thành phố Saigon xuống làm
việc đây từ trước năm 1975. Một nhà xi măng máy tối tân, năng suất cao, với những
máy móc chính có hệ thống viễn khiển mà cấp chỉ huy với trình độ đại học, kể cả
kỹ thuật và hành chánh quản trị chỉ có 10 người, không kể Chánh và Phó Giám đốc.
Sau cuộc đổi đời hai vị giám đốc và kỹ sư trụ cột của nhà máy bị đưa đi tù cải
tạo. Số người thay thế ở cấp điều khiển và vận hành nhà máy từ miền Bắc đưa vào
lên tới 40 người, đa số là dân tập kết năm 1954. Trong số công nhân gọi là kỹ
thuật chỉ có một kỹ sư cơ khí học chính qui tốt nghiệp đại học Mạc Tư Khoa, còn
lại toàn là kỹ sư tại chức hay chuyên tu xuất thân từ thợ các ngành, một số
cũng được gởi đi học ở các nước cộng sản. Đươc “khoan hồng” cho trở lại làm việc
ở nhà máy này Vinh đã chứng kiến những trận đấu đá tranh ăn với những thủ đoạn
độc ác và bỉ ổi giữa hai nhóm của dân hồi kết. Nhóm về trước được chia tất cả
những chức vụ béo bở, nhóm về sau không có mánh kiếm ăn nên tức tối tìm
cách hạ bệ, hãm hại nhóm kia. Bọn “trâu chậm uống nước đục” này không những những
chỉ phá “đồng chí” của mình mà còn hại cả những kỹ sư lưu dung. Biết thân là kẻ
thua cuộc Vinh đã bỏ qua những mặc cảm để làm việc cho qua tháng ngày nhưng
không bao giờ được yên thân. Tai họa đã giáng xuống Vinh nhiều lần tưởng như
không thể thoát cảnh hiểm nghèo phải trở lại đời tù đày. Trong một lần nhà máy
ngưng hoạt động để tu bổ toàn diện (gọi là đại tu) máy nghiền đá được nâng lên
môt đầu để kiểm soát, đánh bóng và làm trơn bệ trục quay. Công tác này do đơn vị
tu bổ cơ khí nơi Vinh làm việc phụ trách, làm dang dở phải chờ qua đêm nên máy
nghiền chưa được hạ xuống. Sáng hôm sau khi Vinh xuống hiện trường đã thấy hiện
diện nhiều cán bộ, chỉ có vài người thuộc các bộ phận kỹ thuật còn lại là ban bảo
vệ an ninh nhà máy. Khi Vinh đến bọn cán rựa nàybắt đầu la lối giận dữ đòi trừng
phạt kẻ phá hoại đã đổ cát và dăm máy tiện vào bệ trục quay. Tổ chức mới của
nhà máy rất rườm rà và cồng kềnh, nhiều ban bệ có chức năng giống nhau như sở
tu bổ, phòng cơ điện … với nhân viên thiếu kiến thức chuyên môn nên thường và
chạm nghề nghiệp như trò cười. Vì ban ngành nhiều quá nên kỹ sư “cà nhỏng” đông
hơn. Mỗi khi có công tác lớn, như tu bổ máy nghiền, cối xay đá …là bu đen con,
ngạc nhiên trầm trồ như xem hát xiệc. Sau giờ làm việc chỉ có cán bộ cách mạng
mới có quyền vào nhà máy thì có kỹ sư lưu dung nào phá hoại trong đêm. Còn lực
lượng bảo vệ đã làm gì và ở đâu khi “sự cố” xảy ra. Trong khi những “ông chủ” mới
của nhà máy đang nổi trận lôi đình thì giám đốc và bí thư đoàn thanh niên xuống
xem máy nghiền. Vinh đoán biết Hải đã nhanh chân chạy đi báo cáo để giám đốc giải
quyết kịp thời trước khi mối “hận thù giai cấp” bùng nổ. Giám đốc mới đã yêu cầu
những tay sừng sỏ im tiếng và mời hết về phòng họp. Chừng vài tiếng sau Vinh được
mời họp riêng với giám đốc và được trấn an Vinh không phải là người phá hoại
nên không cần lo gì cả cứ tiếp tục công tác, lấy hết những cát và dăm tiện ra,
làm sạch, nếu đã chà láng rồi thì bơm dầu mỡ đầy đủ và ráp lại nắp đậy trục
quay máy nghiền. Nếu giám đốc nhà máy vắng mặt vì họp trung ương ở thành phố
hay vì lý do nào khác thì có lẽ bí thư đảng ủy là Ba Trạng sẽ ra lệnh cho bảo vệ
bắt nhốt Vinh để điều tra phá hoại tài sản nhà nước. “Dậu đổ bìm leo” thời nào
cũng có, đặc biệt là khi miền Nam bị nhuộm đỏ tệ trạng này càng lớn vì chính
quyền mới khuyến khích quần chúng nhân dân nên căm thù tố cáo bọn tay sai bóc lột
giai cấp lao động. Trước khi đổi chủ, cư xá công nhân nhà máy có 4 khu gồm khu
biệt thự lầu dành cho phó giám đốc và kỹ sư có chức vụ, khu nhà hai tầng liên kế
cấp cho kỹ sư, cán sự, đốc công và nhân viên trung cấp, khu nhà một tầng cho
trưởng toán và thợ thuyền, và khu nhà nhỏ hơn dành cho phu thường và phu
chuyên. Vinh được cấp một căn trong khu biệt thự. Khi đi tù cải tạo trở về Vinh
vẫn được ở ngôi nhà cũ và có một trưởng toán thợ gởi thư lên ban giám đốc mới đề
nghị “san bằng giai cấp” bằng cách đưa kỹ sư Vinh và gia đình dọn xuống ở khu phu
thường. Chuyện giám đốc mới quyết định cho Vinh ở lại ngôi biệt thự cũ mặc cho
nhiều cán bộ phản đối và lơ luôn chuyện đề nghị của ai đó là do Hải kể cho Vinh
nghe trong một buổi chiều ngồi uống cà phê ở chợ Tròn.
Vinh nhớ lại hình như “biến cố” nào
cũng loáng thoáng có bóng của Hải. Hai lần xe công an đến tận nhà máy bắt Vinh
đều được Hải cho hay trước không nói nên làm gì, bây giờ mới hiểu là Hải muốn
chàng tìm cách trốn đi. Sự giúp đỡ tích cực và hiệu quả nhất là ở phiên tòa của
“nhân dân” xử kỹ sư Vinh, tình báo do Mỹ cài lại tổ chức tại trường tiểu học
Kiên Lương không lâu trước đây, do Hải và Ba Lến liên thủ phản công. (Xin đọc
bài “Tổ trưởng lái xe” trong tập truyên này). Thêm một chuyện nhỏ nên kể là
trong số cán bộ hồi kết đợt sau có anh Mạo, kỹ sư xây dựng, vợ là nhân viên cấp
dưỡng cũng làm việc cho nhà máy, có con trai 4 tuổi muốn chiếc xe đạp ba bánh
mà nghèo quá không mua nổi. Mạo đi lang thang ra bãi rác lượm được một chiếc cũ
rỉ sét, sứt tai gãy gọng đem đến nhà Vinh nhờ mang vào cơ xưởng sửa lại cho con
trai chơi tạm. Chuyện quá nhỏ và dễ dàng nhưng Vinh không muốn bị chỉ trích, chụp
mủ bởi những tên nhiều chuyện nên cứ để đó chờ dịp thuận tiện. May cho Mạo, Hải
ghé nhà chơi thấy chiếc xe bãi rác và hiểu hoàn cảnh của Ông Thầy nên tự đem
vào cơ xưởng, chẳng những đích thân hàn sửa lại và tiện tay chà sét rồi xin sơn
của kho dụng cụ sơn lại cho đẹp, chờ khô mang về giao cho kỹ sư Mạo bảo là anh
Vinh đã làm xong. Bí thư đoàn thanh niên làm chuyện cỏn con này thì ai dám bôi
bác.
Điều quan trọng nên nhắc ở đây là qua sổ tay ghi chép hoạt động
của Vinh, nếu muốn giá họa thì chỉ cần ghi bất cứ điều gì có thể buộc tội âm
mưu phản động hay phá hoại là xong vì đâu có ai dám phản bác. Sau giờ làm việc
Vinh có “giao lưu” với một số người nhưng báo cáo rất “sạch” và trong những
hành động trấn áp của chính quyền địa phương đối với Vinh, Hải và vài người
khác vẫn can đảm biện hộ và bênh vực cho “xếp” cũ. Điều này chứng tỏ dù bị điều
khiển và ép buộc cách mấy một người với bản chất lương thiện khó thể trở thành
tên bất lương sau một thời gian ngắn. Nhóm kỹ sư lưu dung chỉ sót lại có vài
người thì có thể thành lực lượng chống phá “cách mạng” không. Điều này đảng ủy
nhà máy biết rõ. Bản thân Vinh cũng biết ngày nào còn xài được thì còn yên
thân, nhưng không hiểu tại sao cứ ít lâu lại có xe công an vào nhà máy bắt Vinh
đi nhốt ở huyện đội, tỉnh đội. Muốn người ta làm việc tốt thì cần gì phải khủng
bố tinh thấn như thế. Trở lại làm việc ở nhà máy xi măng Vinh đã lọt vào tình
huống bi đát. May mà hầu hết thợ thuyền, nhân viên cũ chỉ có vài người chống đối
(như một trưởng toán vừa kể trên) còn lại đều hợp tác thoải mái để hoàn thành
công tác, dù Vinh không còn chức vụ và quyền hạn gì để điều khiển anh em. Còn
nhiều trưởng toán khi nói chuyện riêng tư, khuyên Vinh không nên “truyền nghề”
tu bổ cho kỹ sư mới để tự bảo vệ bản thân và ai cũng ngạc nhiên, qua những lời
bóng gió, là tại sao Vinh không bỏ đi như nhiều kỹ sư khác. Vinh sống sót được
cho đến ngày đóng ghe xong để vượt thoát là nhờ kín tiếng cho an toàn. Lòng người
khó đoán nên tốt nhất là không nói gì hết. Đâu có ai biết là sau chuyến đi ngày
29 tháng 4 năm 1975 ở bến tàu Hà Tiên với Bác sĩ VDT không xong, sau đó Vinh
còn “làm” thêm ba chuyến nữa nhưng cũng thất bại. Chuyến cuối cùng năm 1980 nhờ
anh Hai Phúc, giám đốc mới cho phép về Saigon chữa bệnh Vinh đã có thì giờ tự
đóng thuyền và may mắn đã đưa vợ con ra đi an toàn.
Hai thân mến. “Ông Thầy” viết bài
này để cám ơn em, thằng Hai hiền lành dễ thương những ngày anh còn là kỹ sư trưởng
cơ xưởng và cũng ghi nhận tấm lòng của bí thư đoàn thanh niên Hải, một người đắc
thời nhưng vẫn giữ được bản chất hiền lương. Dù cho em đã thực tâm muốn giúp vượt
biên nhưng anh không thể hấp tấp nhận lời ngay vì anh cũng phải tự bảo vệ bản
thân. Vả lại, lúc đó chiếc thuyền nhỏ của anh đóng gần xong ở một nơi bí mật và
đang chờ cơ hội thuận tiện để ra khơi.