Cuộc chiến 20 năm kết thúc trong tức tưởi. Có lẽ do tính chất
bi tráng cùng những hệ lụy của nó nên miền Nam đã sản sinh rất nhiều nhà thơ gốc
lính. Và trong số những người lính thực sự cầm súng trực diện với chiến trường
có một số nhà thơ vang danh, cống hiến cho đời những tác phẩm văn chương giá trị,
gây cảm xúc trong lòng người, đặc biệt với những ai vốn từng là lính chiến.
Từ anh Binh nhì Địa phương quân với bút danh Nguyễn Bắc Sơn của Tiểu Khu Bình Thuận, anh Đại úy chỉ huy Thám Báo Quân Đoàn 3 với bút danh Trạch Gầm, đến anh Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng với bút danh Nguyễn Phúc Sông Hương của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Đơn vị nổi danh khi trấn giữ tuyến lửa Long Khánh trong gần hai tuần lễ, quyết tử chiến ngăn chặn cả hơn một quân đoàn Cộng sản với xe tăng đại pháo tiến chiếm Sài gòn trước giờ thứ 25.
***
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn
Nếu Nguyễn Bắc Sơn nổi tiếng với những câu thơ hào sảng:
Vung tiền mua vội một ngày vui.
và đậm tính nhân bản, lãng mạn:
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
thì với thơ của Trạch Gầm đầy khí khái, nghĩa
tình:
…
Ai đã từng là lính chiến lại không rưng rưng cảm động với những
câu thơ bi tráng như là “Một Lời Xin Lỗi” của Trạch Gầm:
Tao xin lỗi vài thằng em bỏ cuộc
Tặng một phần thân thể cho quê hương
Nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương (trái) và nhà văn Trần Kiêm
Đoàn
Đến nhà thơ lính có bút danh mang cả hoàng triều và núi sông
xứ Huế: Nguyễn Phúc Sông Hương, với những câu thơ vừa hào khí vừa lãng mạn đa
tình - tình với đồng đội, tình với chiến địa, và cả với người tình mới quen
trong vùng đất đau thương mà người lính mang hồn thơ ấy phải rút theo đơn vị,
đành bỏ lại trong bom đạn và dưới xích sắt của quân thù - Đọc những câu thơ
trong “Nửa Hồn Xuân Lộc”đã gây trong tôi bao niềm lâng lâng cảm xúc:
Đọc những vần thơ lãng mạn của Nguyễn Phúc Sông Hương, có lẽ
không mấy ai nghĩ ông là một vị tiểu đoàn trưởng hào hùng của Sư đoàn 18 nổi
danh, từng chỉ huy một tiểu đoàn đơn độc nhảy xuống tái chiếm Đồi Gió giữa lòng
địch ngập một trời lửa đạn, nhằm giải vây An Lộc trong trận chiến mùa Hè 1972,
được Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo vinh thăng tại mặt trận. Và đọc những vần thơ đầy
hào khí của ông, chắc cũng chẳng có mấy ai nghĩ Nguyễn Phúc Sông Hương chính là
nhà thơ Thái Luân lúc còn là chàng thiếu úy Tâm Lý Chiến trẻ măng ở Huế đã từng
ấn hành tập thơ Vùng Tủi Nhục gồm những bài thơ nặng mùi phản
chiến (theo nhận định của chính quyền thời ấy) nên bị phạt (oan?) 40 ngày trọng
cấm và ba tháng tù, rồi đưa ra đơn vị tác chiến, buộc phải rời xa cố đô nơi có
quá nhiều biến động, để trôi giạt tận Vùng 3, đánh những trận chiến hào hùng và
đẫm máu tại An Lộc rồi cuối cùng tại Long Khánh trước khi tan đàn rã
nghé!
(Sư Đoàn 18 còn có nhà thơ Ý Yên kỳ cựu, tốt nghiệp Khóa 13
Võ Bị Đà Lạt, cũng là một tiểu đoàn trưởng vừa đánh giặc vừa làm thơ của đơn vị
thiện chiến này. Ông từng là đại đội trưởng rất đặc biệt của tôi khi còn là
sinh viên sĩ quan ở quân trường Thủ Đức. Thường đọc những bài thơ mới sáng tác
cho bọn tôi nghe, sau các buổi di hành hoặc hành quân thực tập)
***
Những vần thơ của những nhà thơ vốn là các chiến binh thực
thụ ấy đã gây trong tôi nhiều cảm xúc, đưa tôi về lại các chiến trường xưa và
da diết nhớ đến bao huynh đệ, đồng đội cùng sống chết một thời.
Từ giã học đường, tôi vào lính khi còn rất trẻ. Cũng không hẳn
vì thích đời binh nghiệp, nhưng thấy đất nước đang trong khói lửa và bạn bè
thân quen đều lần lượt nhập ngũ, gần như con đường nào rồi cuối cùng cũng dẫn tới
một quân trường, nên đúng như lời một bài ca cũ, “năm 21 tuổi tôi đi vào quân đội
mà lòng chưa hề yêu ai”.
Ra trường, được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động. Trải
qua nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng dám nhận mình là một cấp chỉ huy đảm lược, những
chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương của anh em binh sĩ. Không biết tôi đã
hướng dẫn họ được những gì, nhưng chắc chắn tôi đã học được ở họ sự trung
thành, lòng can đảm và nhiều kinh nghiệm chiến trường. Trong hơn mười năm chiến
trận, tôi từng được thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng
tưởng thưởng. Nhiều lúc trầm tư, tôi phân vân không hiểu đó có phải thực sự là
công trạng của mình, khi hình dung đến khá nhiều khuôn mặt đồng đội dưới quyền
đã hy sinh, trong lúc mình vẫn đang còn sống? Tôi không bao giờ quên được những
ánh mắt của họ đã nhìn tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng. Không biết họ muốn
trăng trối, gởi gấm hay oán trách điều gì. Tôi thường dành phần để được vuốt mắt
họ khi tình hình có thể, như muốn thay một lời tạ lỗi, ít nhất là đã không bảo
vệ được họ. Lời người xưa bao giờ cũng đúng “Nhất tướng công thành vạn cốt
khô”. Tôi không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm tướng bao giờ, nhưng dù chỉ
là một sĩ quan cấp nhỏ, tôi cũng đã mắc nợ khá nhiều xương máu của đồng đội anh
em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ còn trả được.
Tôi nhớ tới người lính dưới quyền đầu tiên đã chết trên tay
tôi.
Tháng 8 năm 1965, kết thúc cuộc hành quân truy lùng một đơn
vị địch vừa xâm nhập vào vùng núi Hảo Sơn bên cạnh khu vực Vũng Rô – Đá Bia,
trung đội tôi đang là lực lượng trừ bị tiếp ứng, được tăng cường một tổ đại
liên, nhận lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm
một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị kịp rút ra mang theo một số
thương binh, trước khi trời tối và dưới những cơn mưa như trút nước. Con đường
độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn cách nào khác. Nhờ Pháo Binh bắn dọn
mục tiêu, trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch
quân tháo chạy. Các đại đội lần lượt rút ra, riêng trung đội tôi phải nằm lại để
yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin
Pháo Binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Lệnh
cho anh trung đội phó dắt một tiểu đội và tổ đại liên đi theo triền thấp bên
trái, địch khó phát hiện. Tôi đi với cánh quân theo con đường sắt, một lộ trình
nguy hiểm hơn, nhưng rất cần thiết để bảo vệ tổ đại liên. Cho phân tán từng
toán nhỏ 3 người, nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ một phút
sau, nhiều loạt đạn từ trên triền núi phía sau bắn xuống, có cả tiếng thượng
liên và B-40. Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân
tôi, tóe lên nhiều đốm lửa. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ tiểu đội
trưởng và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào
chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Lệnh cho một
người lính khác dìu anh trung sĩ, còn tôi thì băng vội vết thương bằng các băng
cá nhân cho anh lính bị trọng thương ở bụng, vừa gọi xin tiếp ứng và Pháo Binh
tiếp tục bắn dọc trên triền núi phía sau lưng, rồi cõng anh lính bị thương rất
nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả
nước mắt (cho người đồng đội thương binh không có chút hy vọng sống còn).
Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu
đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích lại
bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây
tứ phía, mấy tên du kích không chạy kịp, trốn dưới hầm bị chúng tôi bắt. Xe tải
thương không thể đến được vì không có an ninh lộ trình. Khuya hôm ấy, anh lính
bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã
trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng
tiền lương và thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa
con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó
là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân
dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên người nhạc sĩ sáng
tác bài Dư Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này,
tôi lại nhớ đến anh.
***
Tôi nhớ tới người chỉ huy đầu tiên đã chết bên cạnh tôi.
Hơn một năm hành quân liên tục ở Phú Yên, một tỉnh mất an
ninh vì trước đó là căn cứ của Liên Khu 5 Cộng sản, đầu tháng 6.1966, đơn vị tôi
được lệnh bàn giao cho một trung đoàn từ Bình Tuy ra tăng cường, xuống tàu Hải
quân di chuyển vào Bình Thuận, mở cuộc hành quân đặc biệt nhằm giải tỏa Mật khu
Lê Hồng Phong, một địa danh mà nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn từng “ngủ võng trên đồi
cát, nghe súng rừng xa nổ cắc cù”, và viết những bài thơ để đời.
Trong một cuộc chạm súng, ngay sau khi vừa chiếm được một
căn cứ của địch, đại đội chúng tôi bị pháo kích. Một quả 82 ly rớt xuống ngay
ban chỉ huy, làm Trung úy Trương Ngọc Điệp, đại đội trưởng bị tử thương và tôi
bị thương nhẹ ở cánh tay trái. Khi ấy tôi đang là đại đội phó và chúng tôi chỉ
đứng cách nhau vài mét. Sau khi thay anh điều động đại đội tản ra bố trí và gọi
Pháo Binh phản pháo, tôi đã dùng bàn tay phải vuốt mắt cho anh, trong lúc người
y tá đang băng bó cánh tay trái. Điều đau đớn hơn là anh Điệp ra đi khi vừa trở
lại đơn vị chỉ mới hai tuần sau kỳ nghỉ phép làm đám cưới. Anh người quê An Cựu,
Huế, thân phụ là một sĩ quan cao cấp ở Huế lúc ấy, vợ anh là môt cô giáo cũng gốc
Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa (Nha Trang). Hai người quen nhau trong thời gian đơn
vị về thụ huấn bổ túc tại Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn Dục Mỹ, trước đó.
***
Tôi nhớ đến ba thằng bạn cùng khóa, ra cùng đơn vị. Cả ba thằng
đã chết trong ba trường hợp khác nhau, mà hậu quả từ một cuộc chiến đầy phẫn uất,
đau lòng.
- Trần Công Lâm, người bạn cùng trung đội Sinh
Viên Sĩ Quan Thủ Đức, nằm bên cạnh tôi và thân thiết như anh em. Nhà và vợ mới
cưới ở ngay Thủ Đức, nhưng theo tôi ra cùng đơn vị trên tận cao nguyên “gió lạnh
mưa mùa”. Ra trường, từ một thằng mà bọn tôi thường gọi đùa nó là con gái, gần
một năm sau, ông tiểu đoàn trưởng còn chê nó “chú mày ra trường cả một năm rồi
mà vẫn cứ như thư sinh, làm sao mà chỉ huy được lính!” Vậy mà chỉ hai năm sau
nó trở thành một anh đại đội trưởng Trinh Sát bách chiến bách thắng, vang danh
khắp quân đoàn. Bao lần tình nguyện nhảy xuống đầu địch, dắt toán viễn thám đột
kích bắt sống địch quân. Hành quân đánh giặc mà cứ như một cuộc rong chơi, Nó
kiếm trên 30 cái huy chương nhành dương liễu và ngôi sao vàng, sao bạc, thêm 5,
6 cái chiến thương bội tinh. Ai cũng bảo là đạn tránh nó. Tháng 6 năm 1972, nó
lên nắm tiểu đoàn giữa trận chiến Kontum ngập tràn khói lửa. Nhưng chưa đầy sáu
tháng, nó đã phải nằm xuống một cách tức tưởi trên một ngọn đồi còn đầy dấu
tích đạn bom, khi dắt toán thám báo đi thám sát, một người lính giẫm phải mìn,
làm nó chết oan. Thương tiếc nó và nghĩ tới vợ cùng hai đứa con thơ dại của nó
sống khổ cực ở một khu giáo xứ xa xôi, tôi đã ngồi một mình dưới bunker âm thầm
giấu nước mắt và cầu nguyện cho nó trong cả một buổi chiều gió mưa ảm đạm.
- Phù Văn Vũ, thằng bạn cùng khóa và cũng về
chung đơn vị. Nó bô trai và uống rượu “ngầu” nhất trong đám bọn tôi. Lúc nào gặp
cũng thấy nó mở miệng cười, dù ngày mai có ra sao. Bị thương tại Di Linh, Lâm Đồng,
khi chỉ huy đại đội đánh giải vây cho một đơn vị Địa Phương Quân. Xuất viện được
theo học một Khóa Chiến tranh Chính trị trung cấp ở Đà Lạt, rồi nhận lệnh
thuyên chuyển về Vùng 3 làm tiểu đoàn phó, đến cuối năm 1973 lên nắm tiểu đoàn.
Ngày tháng miệt mài với súng đạn cùng đồng đội sống chết trên các chiến trường
mịt mờ xa tít, chúng tôi mất liên lạc, tin tức của nhau.
Sau tháng 4/75 oan nghiệt, khi có thông báo của “Ủy Ban Quân
Quản Cộng Sản Sài gòn” kêu gọi “trình diện học tập cải tạo”, tôi đến địa điểm
Trường Đại Học Kiến Trúc. Xếp hàng chờ ghi danh làm thủ tục, thấy phía đằng trước
có một người chống hai cái nạng gỗ. Khi anh ta quay mặt lại, tôi nhận ra Phù
Văn Vũ. Trong cảnh sa cơ cá chậu chim lồng này mà gặp được một người bạn thân
thì mừng vui lắm. Hai thằng dặn nhau phải luôn đi chung. Đặc biệt Vũ rất cần
tôi phụ giúp băng bó, chữa trị vết thương. Bọn tôi bị đưa tới trại tù An Dưỡng
(Biên Hòa), may mắn ở cùng một nhà, một tổ. Vết thương khá lớn ở chân phải của
Vũ vẫn còn mưng mủ, tôi trở thành “y tá” riêng cho Vũ, rửa vết thương và băng
bó mỗi ngày. Theo lời Vũ kể, vào cuối tháng 3/75, lúc ấy đang làm tiểu đoàn trưởng
thuộc một sư đoàn ở Vùng 3, Vũ bị thương nặng ở đầu gối chân phải do đạn pháo của
địch. Ngày 1 tháng 5, đang điều trị ở Tổng Y Viện Cộng Hòa thì bị Việt Cộng đuổi
ra. Về nhà được vợ con săn sóc thuốc men chu đáo nên mới khá hơn một chút.
Trong tù, không đủ thuốc men, nên mãi đến tháng 6/1976, khi
lên tàu Sông Hương chuyển ra Bắc, vết thương vẫn còn rỉ máu.
Khi xuống tàu để lên bến Hải Phòng, họ tách chúng tôi ra mặc
dù tôi đã hết lời năn nỉ xin được đi chung để giúp đỡ Vũ trong tình trạng vết
thương chưa lành và đi đứng khó khăn.
Tôi bị đưa về Trại 3 (Hang Dơi) nằm cực bắc Yên Bái thuộc tỉnh
Hoàng Liên Sơn lúc ấy. Sau một thời gian, trong một lần đi xuống kho tổng trại ở
Nghĩa Lộ để vác gạo về cho trại, thấy một người chống nạng, chăn bầy bò bên đường,
tôi nhận ra Vũ với đôi chân thấp cao, khập khiễng. Bất ngờ gặp lại nhau, cả hai
thằng đều mừng mà ứa nước mắt. Vũ cho biết đang ở Trại 8, và vì phải chống nạng
nên được cho chăn bò của trại. Khi tên vệ binh thúc tôi phải đi, Vũ kịp dúi vài
tay tôi một gói nhỏ gói bằng lá rừng. Tôi bỏ nhanh vào túi áo. Khi dừng lại nghỉ
trưa trên ngọn đèo cao, mở ra tôi thấy một cái bánh nướng làm bằng bột sắn
(khoai mì), tôi vừa ăn vừa lau nước mắt.
Trại 3 của tôi cách Trại 8 của Vũ khoảng hơn hai mươi cây số,
đặc biệt phải đi qua một cái đèo rất cao. Ba tháng sau, trong chuyến đi vác gạo
kế tiếp, khi gần đến khu Trại 8, thấy bầy bò từ xa, tôi háo hức để được gặp lại
Vũ, nhưng khi người chăn bò đưa tay chào các bạn tù, tôi ngạc nhiên nhận ra anh
bạn này không phải Vũ, mà lại là một người khác, khá già, râu tóc bạc phơ. Anh
cho biết là Vũ đã chết trước đó hơn một tháng, do bệnh kiết lỵ mà không có thuốc
chữa. Tôi bỗng thấy đau nhói trong lòng, và bâng khuâng nghĩ tới vợ con Vũ, bởi
lúc ngồi trên tàu Sông Hương ra Bắc, Vũ đã buồn bã nói với tôi, các con còn quá
nhỏ, ngày Vũ đi vào tù, nhà không còn tiền và cũng chẳng có tài sản gì đáng
giá, rồi không biết vợ con sẽ phải sống ra sao. Khi ấy tôi chỉ còn biết lấy
hoàn cảnh tương tự của chính mình để an ủi Vũ.
Một hôm vào khoảng đầu năm 2007, tôi rất bất ngờ khi được một
anh bạn tù trong nhóm “Tìm Hài Cốt Của Bạn Tù Bị Chết Tại Miền Bắc” của cựu Thiếu
tá Nguyễn Đạc Thành, cho biết đã tìm ra được mộ của Phù Văn Vũ và cũng đã liên
lạc với vợ con Vũ để về Việt Nam bốc mộ. Anh bạn còn cho tôi xem tập hồ sơ, có
cả hình ảnh của Vũ lúc còn trong quân ngũ, và hình của ngôi mộ hoang phế trong
núi rừng Việt Bắc với tấm bia xám xịt còn lờ mờ mấy chữ: “Phù Văn Vũ chết
ngày 23.8.1977” (chỉ sau một năm chuyển ra Bắc)
- Trần Ngọc Thăng, thằng bạn thân cùng Khóa khác và
cũng là bạn học cùng truờng thời trung học ở Nha Trang lúc trước. Ra trường,
Thăng tình nguyện về Biệt Động Quân. Khoảng ba năm sau tôi bất ngờ gặp nó
mang ba lô về trình diện đơn vị tôi tại Sông Mao. Nhân lúc đang nghỉ dưỡng
quân, tôi gọi tất cả mấy thằng bạn cùng khóa về câu lạc bộ đón mừng nó. Điều đặc
biệt là khi ấy tất cả bọn tôi đều đã mang lon trung úy, chỉ có nó vẫn còn Thiếu
úy. Nó bảo mới lên nắm đại đội thì đụng độ với ông tiểu đoàn phó khi ông này sỉ
vả và tát tai một anh chuẩn úy trung đội trưởng của nó vì một điều không đáng,
nó can thiệp phản đối thì ông xô và đá vào cả ống chân của nó, nó sôi máu nên sẵn
cầm súng trên tay nó bắn một phát vào bàn chân ông. Bị phạt 30 ngày trọng cấm,
ra tòa và nằm ở quân lao hơn 8 tháng trước khi chuyển ra đơn vị tôi. Có lẽ vì vậy
nó lầm lì ít nói, chẳng biết sợ ai, nhưng rất chí tình với bạn bè. Tình nguyện
về làm đại đội phó Trinh Sát. Qua nhiều chức vụ khác, đến đầu năm 1973, khi
đang làm tiểu đoàn phó, Thăng được bổ nhậm lên làm tiểu đoàn trưởng trong một
trường hợp khá đặc biệt cần thiết để chấn chỉnh đơn vị này. Thời gian còn làm đại
đội trưởng, hành quân ở khu vực từ Di Linh đến Đức Trọng, Thăng quen biết một nữ
sinh sắc tộc Thái Trắng, khá xinh, nhưng mãi đến đầu năm 1974 hai người mới làm
đám cưới và một đứa con trai ra đời trong những ngày cuối tháng Tư buồn. Trong
lúc Thăng bị tù ngoài Bắc, ở nhà vợ Thăng treo cổ tự vẫn, khi có một gã công an
bám theo đeo đuổi, đứa con trai được giao lại cho bà nội nuôi nấng. Theo người
nhà kể lại, khi chết, vợ Thăng mặc chiếc áo dài trắng thuở còn đi học, lúc mới
gặp Thăng, và có để lại một lá thư, nhưng bị công an tịch thu nên không ai biết
vợ Thăng đã viết những gì trong đó. Ra tù vài năm, Thăng đưa mẹ, hai cô em gái
và đứa con trai vượt biển. Đến Mỹ, định cư ở San Jose, Thăng nhờ mẹ chăm sóc đứa
con thơ để vừa đi làm vừa đi học. Mỗi lần nói chuyện trong điện thoại, tôi đều
ca ngợi Thăng có chí, nó cười bảo: “tao vùi đầu vào sách vở là chỉ để được
quên, không muốn có chút thì giờ nào để phải hồi tưởng hay suy nghĩ điều gì”.
Cuối cùng nó cũng lấy được bằng Cao Học Tâm Lý (Master of Psychology) tìm được
việc làm lương cao, ổn định, còn cưới được một chị vợ trẻ, hiền lành, bạn cùng
học thời sinh viên với nó. Bạn bè ai cũng khen và mừng cho nó.
Bỗng một hôm được tin Thăng chết. Chết một cách đau đớn.
Thăng dối vợ, bảo đi thuê hộ khách sạn cho một người bạn từ tiểu bang khác tới.
Nhưng thực ra Thăng đi thuê phòng trong một khách sạn nhỏ ở gần nhà, rồi ở đó
dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, sau khi viết mấy lá thư để lại trên bàn xin
lỗi vợ và đám bạn bè. Tôi cũng nhận được lá thư Thăng viết cho tôi, do Cảnh sát
trao lại. Nét chữ ngay ngắn, đẹp đẽ, chứng tỏ Thăng rất bình tĩnh trước khi tự
kết liễu đời mình:
“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày.
Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với núi rừng thuở trước.
Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, những thằng bạn thân thiết, đã từng
sống chết với nhau. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không đựợc chết một
cách oai hùng ở chiến trường như thằng Lâm, thằng Bê, anh Tài, anh Đức…”
Đọc xong, thấy đau đớn trong lòng tựa hồ như đang có nhiều vết
chém, vậy mà không hiểu vì sao tôi không khóc được, có lẽ không còn nước mắt?
Nhân ngày Quân Lực, đọc những bài thơ bi tráng của những nhà
thơ lính chiến thực thụ: Nguyễn Bắc Sơn, Trạch Gầm rồi đến Nguyễn Phúc Sông
Hương, tôi bỗng da diết nhớ tới đồng đội bạn bè, nghĩ thật nhiều đến cái chết của
ba người bạn cùng khóa, cùng một đơn vị, cùng sống chết bên nhau, một thời thân
thiết. Ba cái chết trong ba thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Một thằng đánh giặc
nổi danh rồi chết tại chiến trường, một thằng luôn yêu đời, vui vẻ hiền lành bị
chết trong tù với đôi chân tàn phế, và một thằng từng ngang dọc một thời, sống
bất cần, ba chìm bảy nổi, vượt thoát thành công, đỗ đạt trên xứ người, cuối
cùng bắn vào đầu mình tự vẫn. Ba cái chết khác nhau, nhưng chỉ có một nguyên
nhân duy nhất: đó là hậu quả của một cuộc chiến bất hạnh, và chúng tôi lại là
những chiến binh bất hạnh nhất.
Và tôi chạnh lòng liên tưởng tới một hình ảnh đặc biệt đau đớn
khác:
Ngày 14.7.1974, sau hơn một năm Hiệp định Paris được ký kết
gần như chỉ giữa Hà Nội và Hoa Kỳ trên chính xương máu của người lính miền Nam,
mọi viện trợ quân sự bị cắt bỏ, Việt Nam Cộng Hòa bỗng chốc trở thành đơn độc
giữa mọi thứ phản trắc, quân thù, Bắc Việt xua đại quân với lực lượng cả sư
đoàn có chiến xa hùng hậu tấn công căn cứ tiền đồn Ben Het, do Tiểu Đoàn 88 Biệt
động quân Biên phòng của Thiếu Tá Võ Ngọc Di, đã cô đơn cố thủ giữa vòng vây địch
trong suốt hơn hai năm, kể từ khi Tân Cảnh - Dakto thất thủ, vào tháng 4/1972.
Sau khi chiếm được căn cứ, bắt giết vị tiểu đoàn trưởng và tàn sát những binh
sĩ Biệt động quân kiêu hùng này, Cộng quân tràn xuống phía Đông Nam tấn công
vào thị xã Kontum, mà Tiền Đồn 5 là cứ điểm đầu tiên như một cửa ngõ cần phải
san bằng. Sau khi tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu Khu trú phòng gần như bị
tan rã, một tiểu đoàn chủ lực của đơn vị tôi được lệnh tiếp viện và thay thế khẩn
cấp. Khi hệ thống phòng thủ trong căn cứ vừa bị phá hoại bởi đạn pháo
kích chưa được sửa chữa xong, thì Cộng quân lại mở cuộc tấn công mới, mở đầu bằng
nhiều loạt pháo kích liên tục hàng ngàn quả, với các đủ loại đại pháo, có cả đại
bác 130 ly. Đơn vị trú phòng gần như bị vùi trong biển lửa. Hầu hết những sĩ
quan đều tử trận, trong đó có Đại úy Dương Đình Chính: Tiểu Đoàn Trưởng, Đại Úy
Nguyễn Đức Vinh: Sĩ Quan liên lạc Pháo Binh, Thiếu Úy Nguyễn Xuân Quang: Đại Đội
Trưởng bảo vệ Căn cứ và một số sĩ quan khác. Vì để tiêu diệt lực lượng địch vừa
chiếm và cố thủ căn cứ, nên Quân Đoàn ra lệnh đánh bom tiêu diệt. Tiền Đồn 5 trở
thành bình địa và tất cả tử sĩ đều bị thiêu hủy hay chôn vùi dưới bao lớp đất
đá. Sau đó không lâu, Kontum cũng âm thầm bị bỏ lại trước cuộc di tản thảm bại
và kinh hoàng của Quân Đoàn 2 trên tỉnh lộ 7 B. Tiền Đồn 5 chôn xác bao
nhiêu đồng đội cũng đành lãng quên theo vận nước.
Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang chết đi để lại người vợ hiền và 4
đứa con thơ, đứa nhỏ nhất chưa tròn 1 tuổi. Bị đuổi ra khỏi trại gia binh Sông
Mao, bà dắt díu đàn con chạy về vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ
sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới được dưới dòng
sông. Vậy mà cuộc sống khốn cùng ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những kỳ thị áp bức
cùng bao lời khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đã làm cho bà Quang
không còn con đường sống. Bà đã uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt
cha mẹ mình và bốn đứa con thơ. Bà xin lỗi vì đã để lại cho cha mẹ già một gánh
nặng, và xin lỗi các con đã phải đành lòng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt
các con phải chết theo mình. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đã uống thuốc
rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nhì, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới lên năm, bây
giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại già trong cuộc mưu sinh đầy
khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con
bò của Hợp tác xã, lấy mấy ký lúa phụ ông, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng
bò. Cánh tay phải bị gãy. Do trạm xá không có thuốc thang và băng bó không đúng
cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử, phải bị cắt bỏ đến gần bả vai. Nhưng với
ý chí kiên cường thừa hưởng từ người cha quá cố, Vinh quyết chi vừa đi làm vừa
đi học. Tốt nghiệp đại học kinh tế ưu hạng, gởi bao đơn xin việc, nhưng không
nơi nào chịu nhận, Vinh mở các lớp dạy kèm rồi vận động nhiều mạnh thường quân,
mở một trung tâm nuôi dạy các đứa trẻ mồ côi, tàn tật, một số là con cháu của
các thương phế binh VNCH. Trung tâm Hướng Dương này rất nổi danh cùng với tên
tuổi vị thầy nhân hậu Nguyễn Thế Vinh, người nghệ sĩ chơi đàn chỉ bằng một
bàn tay trái còn lại, và vẫn luôn công khai hãnh diện về người cha, một người lính
VNCH hào hùng đã hy sinh cho tổ quốc.
Vào tháng 4/2019, trong một chuyến đến Úc Châu, gây quỹ cho
cơ sở mái ấm Hướng Dương, Nguyễn Thế Vinh đã tìm hiểu tin tức về cha mình. Nhờ
có người biết tôi cùng ở đơn vị với thân sinh quá cố của Vinh lúc trước, nên đã
giới thiệu, và Vinh gọi cho tôi. Nhờ một số tin tức từ cháu Vinh, tôi dò hỏi những
bạn bè cùng tiểu đoàn với anh Quang lúc trước và một số bạn bè từng phục vụ ở
TK Kontum, cuối cùng chúng tôi tìm được chính xác vị trí của Tiền Đồn 5, nơi
anh Quang, cha của cháu Vinh nằm lại. Và sau đó với những tin tức mới được cung
cấp, Vinh tìm mọi cách liên lạc được với các gia đình, con cháu của hầu hết những
sĩ quan, đồng đội khác của cha mình còn nằm lại ở đây cùng với cha của Vinh. Một
số cháu ở Việt Nam, một số sống ở nước ngoài. Trong đó có trưởng nam của cố Thiếu
Tá Dương Đình Chính ở Phan Rang và trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh ở
Sydney, Úc châu…
Nhờ sự hỗ trợ của những huynh đệ cùng đơn vị cũ và một số mạnh
thường quân, cũng như sự giúp đỡ tận tình của một số bà con Kontum còn nặng
lòng với lính, các cháu đã quy tụ về Kontum, tìm đến Tiền Đồn 5, giờ đã phủ đầy
lau sậy nằm sâu trong núi rừng, thắp những nén hương muộn màng và tổ chức một
buổi cầu siêu tưởng niệm cho thân phụ và những chú bác đồng đội quá cố, mà chắc
linh hồn vẫn còn phảng phất ở quanh đây.
Cuộc chiến đã kết thúc - dù trong tột cùng bất công và tức
tưởi - nhưng mãi đến 45 năm sau, khi đã hơn nửa đời người, những người con mới
tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh và xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh
những người con quỳ xuống với những nén hương thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng,
điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu của đồng đội mình, lòng tôi lắng
xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm
và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong
All Quiet On The Western Front (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên
Tĩnh) của Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đệ Nhất
Thế Chiến:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa
hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần
đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường
như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng
rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không
còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau
cuộc tổng công kích này. Ngược lại, các chiến dịch hành quân vẫn đang tiếp
diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
Duy chỉ có một điều khác biệt. Paul Bäumer may mắn hơn chúng
tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không
tàn ác và man rợ như kẻ thù đã thắng chúng tôi, những kẻ cùng một dòng giống
nhưng không hề có trái tim người.
Phạm Tín An Ninh



