Khác xa với mẹ tôi, Dì Bảy nhanh nhẹn và rất tháo vát trong
công việc làm ăn buôn bán Dì là người ngoài xã hội còn Mẹ chỉ quanh quẩn trong
nhà săn sóc chồng con. Thực sự Mẹ và Dì Bảy chẳng phải chị em ruột thịt. Dì là
người giúp việc cho Ngoại. Ngoại thương Dì Bảy vì mồ côi không nơi nương tựa, mặt
mày xinh đẹp, trắng trẻo, giỏi dắn. Dì giúp Ngoại trông coi sạp vải ngoài chợ,
buôn bán rất đắt hàng, nhờ cái miệng có duyên mời mọc khách, khó ai mà từ chối
được.
Lớn lên Ngoại gả chồng và giúp cho Dì chút vốn làm ăn. Chồng Dì là bạn rất thân của ba tôi. Dì học hành không qua bậc tiểu học nhưng có tài tính toán giỏi, đầu óc rất “nhạy”, đánh hơi thấy chỗ nào làm ăn được là nhào vô ngay. Lúc quân đội Mỹ còn hoạt động mạnh mẽ ở VN, Dì thầu rác Mỹ và câu lạc bộ trong căn cứ Long Bình, ngay ngã ba Tam Hiệp cạnh xa lộ Sàigòn Biên Hòa. Rác từ căn cứ mỗi sáng được chở về nhà kho rất lớn, một toán nhân viên lựa chọn ra những thứ còn dùng được để bán lại, những đồ phế thải thì đưa ra bãi rác bên xa lộ Saigon-Biên Hòa. Đôi khi quân đội Mỹ di chuyển hay dọn dẹp nhà kho, họ vứt cả những hàng hóa hay thực phẩm còn nguyên xi trong thùng. Tất cả lương thực và đồ dùng đều chở từ Mỹ qua, kể cả nước uống đóng chai, xà bông tắm, dầu thơm, kem đánh răng, đồ hộp ... cho nên gọi là rác nhưng lẫn trong đó có biết bao thứ quý giá có thể bán được.
Chồng Dì, Dượng Bảy là thày giáo
quân nhân biệt phái, khỏi phải hành quân tác chiến. Nhờ dạy học Dượng được
quanh quẩn ở nhà nên ngoài giờ làm việc trong trường, Dượng giúp Dì trong việc
làm ăn buôn bán. Hai vợ chồng bận bịu suốt ngày lo ngoại giao, sổ sách, thày thợ,
bạn hàng… nên Thúy-Yên hầu như ỏ với gia đình tôi nhiều hơn với cha mẹ em. Mẹ rất
thương yêu em, như Ngoại thương Dì Bảy vậy, ngược lại em cũng thương và quý mến
tôi như người anh cả. Lúc thịnh thời, Dì giúp Mẹ rất nhiều, đôi khi thầu được một
món hàng béo bở Dì lại nhờ Mẹ bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ Biên Hòa. Mẹ chỉ việc
giao cho cô Năm, em Ba tôi, rồi tùy Cô muốn bán cho ai thì bán. Mẹ đứng trung
gian kiếm lời. Thực sự, Dì có thể chẳng cần Mẹ, nhưng muốn giúp Mẹ có chút tiền
còm để bù vào đồng lương quân đội rất hạn hẹp của Ba. Đôi khi đến nhà chơi, thế
nào Dì cũng dúi cho tôi ít tiền may quần áo, mua sách vở hay tiêu vặt. Dì luôn
nhắc nhở tôi coi chừng em cho Dì, mà dù Dì không nhắc tôi cũng cảm thấy có
trách nhiệm với em.
Tôi và Thúy-Yên chơi với nhau từ nhỏ,
tôi muốn có một đứa em gái để chiều chuộng, còn em, muốn có anh trai để vòi
vĩnh. Lớn lên một chút em theo tôi đi học, lúc nào cũng quấn quýt bên tôi để mè
nheo đủ chuyện. Có khi em làm biếng đi học, kêu đau chân, bắt tôi phải cõng đến
trường. Có khi, đi đến cổng trường rồi khóc đòi về, tôi phải ghé hàng bán kẹo
kéo, em thích lắm, bao giờ cũng giành quay số, luôn vỗ tay hăng hái để được
trúng hai cây kẹo, quên đòi về. Có lần Mẹ may cho bộ đồ mới, em nghịch đất mặt
mày lấm lem, chân tay dơ dáy, quần áo bẩn thỉu về bị Mẹ khẻ tay, thế là em khóc
dỗi nức nở, tôi phải dẫn ra đầu xóm kiếm hàng cà rem em mới thôi khóc. Từ đó mỗi
khi tay dơ em lại chìa tay ra cho tôi rửa, cầm bàn tay em nhỏ xíu, trắng trẻo,
tôi hun mãi làm em cười như nắc nẻ. Một hôm Ba về phép dẫn tôi và em đi tắm hồ,
Ba về nhà trước, tôi và em về sau, không biết sao, tôi dẫn em đi lạc rất xa.
Lúc đó tôi độ 9 tuổi còn em chừng 3 tuổi. Em lẽo đẽo theo sau tôi, vừa đi vừa
khóc. Tôi cũng sợ lắm, chẳng biết lối nào đi về nhà, càng đi càng chẳng thấy chỗ
nào là quen thuộc cả, nhưng vẫn trấn an em: “Nín đi cưng, gần về đến nhà rồi!”,
em nghe dỗ lại càng khóc to thêm. May quá, có một bà lớn tuổi, thấy hai đứa bé
vừa đi vừa khóc, mới dẫn vô nhà cho ăn uống rồi hỏi thăm, dẫn hai anh em về
nhà. Mẹ thấy hai anh em trở về bình an, vội ôm chầm lấy em, khóc hết nước mắt.
Mẹ thương em lắm, chỉ sợ tôi bắt nạt em. Nếu không có cuộc đổi đời 30 tháng tư
năm 75, chắc anh em tôi cũng êm đềm sống bên cha mẹ, học hành, vui vẻ như bao
nhiêu trẻ em khác chẳng có gì đáng nói.
Sau ngày mất Saigon, Ba và Dượng Bảy
bị đi tù cải tạo. Dượng là sĩ quan biệt phái lại giao dịch với quân đội Mỹ
nên tội nặng lắm, đi tù mãi chắng có ngày về. Nhằm lúc chánh quyền đánh tư sản,
nửa đêm công an đến bao vây nhà, lục soát, đào xới cả vườn sau để tìm vàng bạc
chôn dấu, rồi đuổi hai Mẹ con Dì đi kinh tế mới. Căn nhà lầu 4 tầng mặt tiền, đầy
nhóc hàng hóa và đồ đạc, bị tịch thu cho cán bộ ngoài Bắc vô ở. Chẳng biết làm
cách nào, Dì chạy chọt nhập hộ khẩu với Mẹ. Dì dẫn Mẹ ra buôn bán chui ngoài chợ,
Dì có thể mua đi bán lại bất cứ thứ gì , từ những mớ rau muống, đến thuốc
Tây, vải vóc, quần áo, sách báo chế độ cũ. Dì Bảy là kẻ sống ngoài chợ từ nhỏ
mà! Thường thì Dì đi lùng mua hàng, mẹ bầy một ít hàng mẫu trong giỏ xách, nếu
công an đuổi bắt chỉ mất bao nhiêu đó hàng thôi.
Nhà tôi có một tủ lớn đủ các loại
sách mà Ba rất quý, tôi nghĩ chắc đọc suốt đời cũng không hết, nhưng tôi mê nhất
vẫn là bộ Tam Quốc Chí và mấy cuốn kiếm hiệp của Kim Dung, tôi đọc đi đọc lại
bao nhiêu lần, thế mà mỗi lần cầm cuốn sách lên lại đọc quên ăn. Mẹ vẫn gọi tôi
âu yếm là con mọt sách. Lúc túng quá, khi đã bán gần hết đồ đạc trong nhà , tủ
sách của Ba cũng phải chung số phận. Mẹ biết tôi mê Tam Quốc Chí nên có người
trả giá rất cao nhưng Mẹ thà nhịn đói nhất định giữ lại.
Mẹ và Dì thay phiên nhau đi thăm
nuôi Ba và Dượng, tôi bao giờ cũng được đi theo. Mỗi lần nhìn thấy Ba gầy ốm mặt
mày hốc hác xanh xao, quần áo tả tơi, tôi và Mẹ không cầm được nước mắt, trước
mặt cán bộ trại giam Ba lại khuyên tôi:” con trai lớn phải cứng rắn chứ, hay
khóc nhè thế làm sao lớn lên được!” Tôi giống Mẹ ở điểm mít ướt đó, chẳng giống
Ba chút nào. Ba hứa với hai Mẹ con, sẽ cố gắng học tập “tốt” để nhà nước khoan
hồng về với gia đình. Tôi chẳng hiểu học tập “tốt” nghĩa là gì nhưng cũng vâng dạ
cho Ba yên lòng. Ba nhắc Mẹ chịu khó thay mặt Ba giắt tôi sang thăm hỏi và săn
sóc cô Năm, cô già yếu bệnh tật không có ai bên cạnh thật đáng thương. Thật sự
Ba đã biết vợ chồng Cô đã qua Mỹ từ những ngày đầu với ông bà Nội tôi, ý Ba muốn
chúng tôi tìm đường vượt biên thôi. Mẹ chỉ hứa sẽ cố gắng, hoàn cảnh nhà mình
cũng nghèo chưa chắc gì giúp được Cô, Ba thở dài không nói.
Dịp gần tết, Dì Bảy dẫn tôi đi thăm
Dượng, tôi chẳng biết ở tận đâu, xa lắm, phải đi hai ba ngày mới tới, lúc thì
đi xe đò, lúc đi xe trâu, có khi thì đi bộ băng qua rừng cùng với đám người
thăm nom khác. Cuối cùng thì cũng đến được trại tù. Đợi hai ngày ngoài cổng trại
mới được sắp xếp cho gặp Dượng, Dượng ốm yếu đến nỗi chỉ còn hai con mắt là
linh hoạt. Dì và tôi giả làm hai Mẹ con, khi nghe tôi chào Dượng bằng cha, hai
mắt Dượng mờ đục hẳn đi. Dượng dặn tôi cố gắng học hành và săn sóc cho
Thúy-Yên. Dượng nói: “Sau này, mọi sự đều nhờ ở con!” tôi lí nhí mấy câu hứa với
Dượng , đó là lời nói sau cùng của Dượng tôi còn nhớ được. Tôi chỉ
là thằng nhóc con vẫn còn phải bám gấu quần Mẹ thế mà từ nay phải thay thế Dượng
săn sóc cho em. Tôi đã hứa và quyết tâm giữ lời hứa đó dù chẳng biết bằng cách
nào. Trên đường trở về tôi cứ nghĩ mãi đến bài học lịch sử “Nguyễn Trải từ giã
Phi Khanh nơi biên giới Hoa Việt”. Tôi chẳng có chí lớn như Nguyễn Trãi, nhưng
điều nhỏ nhặt hứa với Dượng tôi quyết thực hiện được.
Một hôm công an giả làm người mua
hàng, ập vào nhà tịch thu tất cả hàng hóa, thế là Mẹ và Dì lại trắng tay. Cuối
cùng thì họ cũng đuổi gia đình tôi đi kinh tế mới để chiếm căn nhà gạch hai tầng
của Mẹ. Chính quyền “Cách Mạng” muốn chiếm nhà của ai, chỉ việc tìm cách đuổi
đi kinh tế mới, thế là xong. Chúng tôi đi theo mấy người bà con xa bên Ba về
Long Thành, rồi từ đó lội bộ khoảng 14, 15 cây số nữa gần mấy đồn điền cao su của
người Pháp để lại. Dân đi kinh tế mới gọi vùng hoang vu này là Xóm Lá, nơi đây
vẫn còn in dấu vết thời chiến tranh, những hàng cây bị bom đạn đốn gẫy ngang,
cháy chỉ còn trơ thân đen thui. Những hố bom B52 to như những cái ao. Mùa mưa
nước từ trên nguồn chảy về, các con suối trở thành những con sông nhỏ, hố bom
ngập đầy nước. Người ta cắt cỏ tranh về làm những túp lều nho nhỏ để chui ra
chui vào, nước mưa dột tứ tung nhưng ai cũng mừng vì sẽ có rất nhiều ếch nhái,
cua đồng, sò, hến ngoài suối.
Tôi theo Mẹ và Dì làm việc đồng áng,
khuân những tảng đá chất lên bờ làm ranh giới, đốt cỏ tranh để lấy đất làm rãy,
chúng tôi trồng rau muống, rau đay, rau lang quanh mấy hố bom. Trồng cà, mướp,
bí, khoai lang, khoai mì chung quanh túp lều lý tưởng, trồng bắp, đậu phụng
ngoài rãy, đến mùa mưa trồng lúa. Nhìn bàn tay của Mẹ và Dì chai như bàn
tay đàn ông, hai bà đã già hẳn đi, tôi đau đớn trong lòng khôn tả. Tôi đã được
15 tuổi, làm người “Đàn Ông” cột trụ của gia đình.
Từ ngày đến Xóm Lá, tôi đã không còn
cắp sách đến trường mà chỉ chuyên tâm vào việc đồng áng và lo tìm kiếm bất cứ
cái gì có thể nhét vào mấy cái bao tử xẹp lép của gia đình, vả lại nơi xa xôi
này làm gì có trường học. Tôi đã bắt đầu hiểu được thời thế và cuộc sống chung
quanh mình. Hiểu được thân phận của những kẻ lưu đày, nỗi nhọc nhằn của những
người như tôi chỉ là thứ công dân hạng bét trên chính quê hương mình.
Xóm Lá nơi tôi ở, ban đầu chỉ có một
số người đã sinh sống ở đây từ lâu, họ làm công trong mấy đồn điền cao su. Đời
sống tuy lam lũ nhưng nhà cửa cũng tươm tất, mặc dầu chỉ là nhà tranh vách đất,
chung quanh cũng có cây ăn trái, dàn bàu dàn bí xum xuê, có vài thửa ruộng cày
cấy đủ ăn. Từ ngày chiến tranh lan tràn, mấy đồn điền đều bỏ hoang, cây cối um
tùm chẳng ai săn sóc. Dân mới nhập cư tha hồ chặt cây về làm nhà, làm củi. Vào
sâu hơn một chút là dân Sài Thành mới đến “cắm dùi” vì bị đẩy ra khỏi thành phố.
“Dân cũ” cũng rộng lượng chia sẻ cho chút khoai hay bắp để sống qua ngày. Họ
cũng giúp một tay xây dựng nhà cửa và chỉ cách trồng trọt, thứ nào trồng mau có
ăn, thứ nào trồng sinh nhiều hoa trái …Xa hơn nữa sát bìa rừng là những nông
dân từ ngoài Bắc theo chân quân đội “giải phóng” vô lập nghiệp. Họ chịu cực khổ
quen rồi nên rất siêng năng, làm việc từ sáng sớm đến tối mịt mù. Có những đêm
sáng trăng họ làm luôn ban đêm, đúng như câu “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm
đêm” được học tập ở miền Bắc, họ là một thứ “Nô Lệ” cho chủ nghĩa đã quen rồi.
Dì Bảy lúc này rất yếu, hay bị xỉu
khi làm việc ngoài đồng. Mỗi lần xảy ra như vậy, tôi dìu Dì về nhà để em săn
sóc. Em vẫn còn ngây thơ, thấy Dì bị xỉu thì sợ hãi lắm. Tôi bảo em, Dì bị say
nắng, chỉ nằm một chút là tỉnh thôi, em đi lấy nước cho Dì uống, giặt khăn lau
mặt và quạt cho Dì mát. Nơi chốn quê mùa, chẳng có thuốc thang gì, bệnh tật chỉ
đành phó mặc cho Trời Phật. Nghỉ một lúc Dì tỉnh táo và khỏe mạnh lại, Dì cầm
tay tôi thì thầm “Dì chắc không còn bao lâu nữa, không biết chờ được Dượng đến
ngày nào, Nếu Dì có mệnh hệ nào con cố gắng lo cho em, nó còn bé bỏng lắm, bản
tính nó ương ngạnh, cứng cỏi, con thương Dì thì nhớ nhường nhịn em nghe con.”
Tôi chỉ biết khóc và hứa với Dì sẽ săn sóc em suốt đời. Dì mỉm cười héo hắt rồi
ôm lấy tôi và em, nước mắt Dì ướt trên mặt tôi.
Về vùng đất hứa độ hơn một năm, Dì
và tôi lại đi thăm Dượng, Dì làm nhiều thức ăn đồng quê, cơm nắm để mang theo
ăn dọc đường và tiếp tế cho Dượng. Chúng tôi vất vả mấy ngày mới đến nơi, lần
này chẳng phải chờ đợi, Người cán bộ trại tù cho biết Dượng đã qua đời, họ trao
trả những gì còn lại của người tù quá cố, chẳng có gì đáng giá, nhưng Dì mang tất
cả về. Dì xin cho ra mộ để cúng tế nhưng họ nhất quyết từ chối mặc cho Dì khóc
lóc van xin.
Sau lần đi thăm nuôi đó Dì không còn
gượng dậy nổi nữa, nỗi buồn rầu và thất vọng đã đánh Dì gục ngã và cướp đi mạng
sống của Dì. Em vẫn nghĩ rằng Dì chỉ bị “xỉu” thôi, tay vẫn quạt trên mặt Dì,
miệng mếu máo gọi: ”Má ơi tỉnh dậy đi, anh Hai sao Má xỉu lâu thế không tỉnh
dậy?” Em vẫn chưa hiểu được chết là thế nào? Làm sao tôi giải thích cho
em! Tôi chỉ biết ôm em khóc, em cũng khóc theo. Dân trong Xóm Lá phụ giúp Mẹ và
tôi đưa Dì ra nghĩa trang bên bìa rừng. Khi mới đến lập cư, tôi chỉ thấy một
vài nấm mộ, bây giờ sau hơn một năm, mộ đã đầy một khoảng đất lớn. Những người
thành thị về đây đã đua nhau bỏ ra đi qua bên kia thế giới với tốc độ chóng mặt,
phần vì thiếu thuốc men, thiếu ăn, phần vì lao động quá sức mà không đủ sống.
Chung quanh chúng tôi, nhà nào cũng có người thân đã từ giã ra đi không hẹn
ngày trở lại.
Dì bỏ đi, Mẹ càng cô đơn hơn. Trước
kia, có chuyện gì, Mẹ và Dì còn nương tựa, an ủi lẫn nhau, nay chỉ còn tôi và
em, Mẹ không còn gượng nổi nữa. Mẹ nằm liệt giường mấy ngày, tôi sợ lắm, quỳ
bên Mẹ khóc nỉ non xin Mẹ cố gắng sống đừng bỏ hai anh em tôi. Nếu Mẹ cũng bỏ
chúng tôi ra đi, biết sẽ phải trông cậy vào ai.Tôi đun nước và hái lá về xông
cho Mẹ, còn em nấu cháo cho Mẹ. Tôi nâng đầu Mẹ lên cao cho em múc cháo
đút cho Mẹ. Nhờ Trời, dần dần Mẹ khỏe lại, nỗi thương nhớ Dì rồi cũng nguôi
ngoai, Mẹ ôm chúng tôi hứa sẽ cố gắng sống để chờ Ba trở về. Chúng tôi lại lăn
vào việc đồng áng, nuôi được một con bê con, em thích dắt con bê đi ăn cỏ trong
khi Mẹ và tôi làm rãy. Khi bê con thành con bò, Mẹ sai tôi dắt ra Long Thành
giao cho người bà con quen, cho nó nhảy đực. Giao bò xong tôi đi chơi quanh quẩn
ngoài chợ kiếm mua quà cho em và Mẹ rồi chiều dắt về.
Người ngoài Bắc cũng bắt đầu vô lập
nghiệp khá đông, nhà nào có nhân lực phá rừng tới đâu thì chiếm đất tới đó, cứ
khuân đá đặt chung quanh làm ranh giới. Mỗi đêm lại xảy ra nạn chiếm đất giành
dân như thời chiến tranh!, Bởi vì người nào tham lam, chỉ việc xê dịch mấy tảng
đá là ruộng họ sẽ lớn ra thêm trong một đêm.
Một thời gian sau, Xóm Lá họp nhau cất
lên ngôi trường Tiểu Học đầu tiên, Trường chỉ là căn nhà lá hai gian. Dân Xóm
Lá mời hai cô con một người tù cải tạo, đã từng là sinh viên thời trước, làm cô
giáo, một cô tên Ngọc, cô kia tên Lan. Hai cô thay phiên nhau dạy từ lớp một đến
lớp năm. Mỗi lớp chỉ học mấy tiếng, thời giờ còn lại học trò theo cha mẹ ra làm
việc ngoài đồng. Tôi không biết nhà nước có trả lương cho hai cô không, nhưng
dân Xóm Lá vẫn biếu tặng hai cô nông phẩm của họ. Mẹ xin với cô Ngọc cho tôi được
học riêng với Cô. Từ đó tôi theo em cắp sách đến trường học nửa buổi. Hai Cô
thay phiên nhau dạy riêng cho tôi toán, vật lý và hóa học. Tôi học rất mau như
người ăn trả bữa sau một cơn bệnh ngặt nghèo. Tôi thật sự ngưỡng mộ hai
Cô, tận tâm và thương yêu học trò nhất là học trò chăm học như tôi. Cô luôn
khuyến khích và chỉ bảo tôi tận tình. Cô cho tôi mượn sách về đọc thêm, nhờ sự
say mê đọc sách tôi đã học được rất nhiều chỉ trong thời gian ngắn.
Mẹ cũng vận động dân trong xóm cất
được ngôi nhà nguyện nhỏ, chỉ lớn hơn ngôi nhà chúng tôi đang ở một chút xíu,
có bàn thờ và cây Thánh Giá bằng gỗ, không có ghế ngồi. Chiều nào Mẹ cũng
dẫn em và tôi lên đó đọc kinh cầu nguyện cho Dì được an nghỉ trên nước Thiên
Đàng và cho Ba chóng được về xum họp với gia đình. Những lời cầu kinh của Mẹ gõ
đều trên trái tim nặng chĩu của tôi khiến tôi nghẹt thở và sụt sùi.Trên đường về
mắt mẹ vẫn còn đỏ hoe, tôi cũng vậy, còn em lẽo đẽo theo tôi vô tư như con chó
nhỏ.
Mùa Mưa, em theo tôi đi soi ếch ban
đêm ngoài bờ ruộng hay bên bờ mấy hố bom ngập đầy nước, có khi chúng tôi bắt
cua đồng về cho Mẹ nấu canh rau đay. Ôi cua đồng nấu rau đay là món ăn ngon nhất
trên đời, mà có thêm mấy quả cà muối nữa thì sơn hào hải vị cũng chịu thua!
Chắc tôi sẽ không tìm được trên thế giới món nào ngon hơn thế. Đêm
sáng trăng tôi dắt Em ra ngồi trước hiên nhà, nhìn mông lung ra đám ruộng lúa
xa xa, ánh trăng lướt nhẹ trên mấy đám cỏ tranh trên gò đất, ễnh ương kêu vang
khắp mọi nơi, tôi tủi thân khóc thầm, có cha cũng như không, thương Ba tù đày,
thương Mẹ vất vả lao đao, thương Em côi cút, thương tôi chẳng biết ngày mai rẽ
ra sao, nước mắt chảy ra lúc nào không biết. Em lắc tay tôi hỏi tại sao tôi
khóc, Em còn ngây thơ bé bỏng quá, tôi biết trả lời sao, chỉ biết ôm em vào
lòng mà xụt xùi. Em bé tí teo nhưng đã phải xách nước tưới rau, phụ Mẹ nấu ăn,
giặt quần áo cho cả nhà. Nhiều khi đi làm rãy về mệt nhọc nhưng thấy em tưới
rau tôi lại giành làm thay em.
Em thích nghe tôi kể truyện Thằng
Người Gỗ có cái lỗ mũi dài, mỗi lần nói dối mũi lại dài ra thêm, có ngày nó nói
dối nhiều quá, mũi dài tới chấm đất không quay đầu được nữa, em cười ngặt nghẽo
nói “eo ơi, nếu vậy em không dám nói dối đâu”. Mấy đứa trẻ con hàng xóm cũng bu
lại đòi tôi kể truyện. Tôi kể những truyện con nít trong sách của Hà Mai Anh
như Tâm Hồn Cao Thượng, Chim Hót Trong Lồng của Nhật Tiến, Con Sáo Của Em Tôi
và Dzũng DaKao của Duyên Anh…, những loại sách đó chẳng còn in lại trong
thời “Cách Mạng “ này nữa. Tôi kể truyện nổi tiếng đến nỗi cả người lớn cũng
đòi nghe, tôi kể cho họ nghe Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc, Anh Hùng Xạ
Điêu, Thiên Long Bát Bộ, Cô Gái Đồ Long và nhiều bộ truyện tôi từng say mê của
Kim Dung. Nhà tôi buổi tối trở thành nơi giải trí, họ đến tán gẫu và nghe tôi kể
truyện. Nhờ vậy anh em tôi có thêm của ăn do họ mang đến làm quà. Ở nơi rừng
hoang, ánh sáng văn minh còn quá lu mờ làm sao rọi tới, chẳng có gì khác hơn là
ngồi nói dóc trong bóng tối. Mỗi lần kể truyện, em bao giờ cũng đòi ngồi sát cạnh
tôi, nhiều khi nằm ngủ ngay trên đùi tôi. Nơi Xóm Lá, dường như người ta đang sống
bên lề Xã Hội Chủ Nghĩa, chẳng ai quan tâm đến Bác và Đảng. Công an, du kích
cũng có một hai chú nhưng đám dân lam lũ vất vả này chẳng còn gì để tước đoạt nữa
nên mấy chú ấy cũng làm ngơ, thỉnh thoảng ghé lại xin củ khoai lang hay ăn ké một
bữa cơm, chắc để kiểm soát từng hộ khẩu, xem có gì khác lạ Không?. Mấy chú cũng
rất mê nghe tôi kể truyện Kim Dung, ở ngoài Bắc chắc ngoài sách về chủ nghĩa
Công Sản không còn thứ gì khác.
Một hôm, đang đốt cỏ tranh để làm rẫy,
gió nổi lên thổi tàn bay tứ tung lên nóc nhà thế là chỉ trong vài phút, nhà cửa
đều ra tro, một ít sách vở của Ba còn lại cũng bị Thần Lửa lấy mất. May là chẳng
có ai trong nhà. Mọi người chạy đến hỏi thăm, hôm sau cả xóm giúp dựng lại nhà
mới mỗi người một tay không phân biệt Bắc hay Nam, mới hay cũ. Thế mới biết con
người vẫn là con người, chỉ có chủ nghĩa làm cho phân biệt người với ngợm!
Đời sống ở vùng kinh tế mới là như
thế, làm lụng vất vả cực nhọc nhưng vẫn không đủ ăn. Thêm vào đó là bệnh tật chẳng
có thuốc chữa. Thôi, hãy phó mặc cho số mệnh và ông Trời. Ông trời thì ở xa lắm
chẳng bao giờ với tới, số mệnh của những người sống trong vùng kinh tế mới thì
thật là đen đủi. Biết làm sao? Tôi thương mẹ, thương em và thương tất cả những
cư dân trong vùng kinh tế mới, vì họ cũng như tôi, đang phải chiến đấu với đủ
thứ khó khăn bệnh tật, đói khát. Tôi và Mẹ vẫn chờ trông Ba được trở về từ trại
tù. Những tháng ngày qua đi chậm chạp, mòn mỏi và nước mắt mẹ rơi trên ruộng đất
khô cằn vẫn không đủ cho hạt nẩy mầm đơm hoa kết trái.