Cứ chạng vạng, khi bóng tối đổ sẫm màu một góc rừng U Minh,
những tia nắng rụng góc trời cháy rực. Khi đàn muỗi bắt đầu cất mình lên như
đám mây nặng trĩu những giọt sương máu từ đầm lầy. Khi đàn quạ khạc ra tiếng
khàn đặc rên rẩm trên những chạc cây bị sét đánh cụt ngọn. Đó là lúc người đi rừng
chậm chân bắt đầu nghe từng tràng tiếng hú ghê rợn.
Không rõ cất lên từ đâu. Loạt tiếng hú làm nổi gai lưng này. Chúng rên từng hồi
đứt đoạn. Luồn như rắn dưới những tàn lá rậm rịt. Dán mình trườn trên mặt bùn
nhão sệt nham hiểm của đầm lầy rồi trôi dạt trong bầu không khí u uẩn bốc lên từ
những xác cây mục, đe nẹt ngay cả những kẻ làm nghề sơn tràng táo gan nhất.
Dân quanh vùng chỉ dám kiếm ăn von ven ngoài bìa rừng, ruột
cứ cuộn lên nỗi thòm thèm tiếc của. Đời ông đời cha họ truyền lại, ở trong sâu
kia, có vô khối chim thú lạ mà chỉ cần bắt được một con cũng đủ để sung sướng cả
đời. Chưa kể đến bao nhiêu trầm, kỳ nam đang lặng lẽ toả mùi thơm trong những
thân cây huyền hoặc. Nhưng có thèm khát đến mấy, dân sơn tràng cũng chỉ dừng lại
ở những lời than tiếc nắc nỏm. Đã không ít kẻ bạo gan chẳng chịu nổi sự cám dỗ,
liều mạng dấn sâu vào đầm lầy, đặt chân lên lớp bùn mịn và lập tức cái lớp bùn
gian manh kia sụt xuống nuốt từ chân đến bụng rồi đầu kẻ xấu số. Tiếng kêu cứu
của người sắp chết chỉ còn ằng ặc sủi bọt trong cái đầm lầy không đáy trước khi
mất dạng.
Và cứ kéo nhằng nhẵng theo những buổi chiều ngằn ngặt tiếng hú là đoàn người lê
thê lết đi không một tiếng động trong sương mờ. Đoàn người không rõ hình hài,
được xâu thành chuỗi qua lòng bàn tay bằng một sợi thép gai rỉ bê bết máu khô lẫn
máu tươi. Nhìn kỹ, chuỗi người bị xâu đều thiếu gan bàn tay, gan bàn chân. Thiếu
tai. Máu đổ ri rỉ chảy dọc lối họ qua. Những bàn tay chìa ra phía trước, rên xiết
đòi lại thứ mà họ đã bị cắt, bị chặt, bị xẻo. Cuộc diễu hành rùng rợn kéo cho đến
khi mặt trời khuất hẳn sau rừng cây. Thì những tiếng rú ghê rợn cũng dứt. Không
gian gần như bình yên, cho đến lúc gà gáy canh tư.
Khi tiếng gà đầu tiên vừa cất lên, cuộc diễu hành lại tiếp tục theo hướng ngược
lại. Đoàn người trở về. Họ dong theo đoàn một gã to con, mặt trắng bệch với nụ
cười gằn ẩn sau khuôn miệng đỏ bầm lượn cong cong như miệng đàn bà. Hai chân hắn
bị xiềng. Tiếng xiềng khua xủng xoẻng như kẻng báo giờ chết. Hai tay hắn đỡ một
chiếc mâm khổng lồ đầy ụ thức ăn đã chế biến và được bầy biện rất tinh tế, khiến
chúng đẹp rực rỡ như một chiếc lẵng lớn đầy hoa lá. Nhìn kỹ, đó là món nộm tai
người và món hầm gan bàn tay, gan bàn chân người, dù chúng đã được cắt tỉa, nhuộm
màu với một nghệ thuật sành sỏi. Gã to con chìa cái mâm ra trước mặt đoàn người
: "Này là chân, là tay, là tai các người. Nhặt lấy !". Đoàn người xúm
lại, chen chúc, vừa rên rẩm vừa rạp xuống, lẩy bẩy lục lọi. Cố tìm ra đâu là
tai, đâu là gan bàn chân bàn tay họ đã bị thái nát ra, tẩm ướp mắm muối mỡ đường,
nhuộm màu sặc sỡ dưới hình hài những mỹ vị. Sau một hồi tìm kiếm, đoàn người rú
lên tuyệt vọng, xô lại túm lấy gã quật xuống đất. Gã chẳng hề hấn gì, nhăn nhở
cười với đôi môi bầm đỏ máu thêm nhành rộng trên khuôn mặt trắng bệch.
Một ngày của khu Thủy Yến được bắt đầu và kết thúc như vậy. Tiếng súng đạn của
những trận kịch chiến qua đã ba mươi năm, nhưng những cuộc diễu hành thì chưa
ngơi lấy một ngày.
***
Con hổ mang bành dữ dằn gồng mình quấn xoắn lấy cánh tay trần mảnh mai rám nâu
của vợ Ba Xà. Cái đuôi chơm chởm vảy sừng của nó chọc lên tận cổ chị muốn đâm
thủng da thịt. Con rắn rút sống lưng dồn vảy dựng đứng định bẻ gẫy cánh tay.
Cái giống vật mốc xì và nồng nặc mùi hôi đầm lầy này lớn cỡ cổ chân, dài gần sải
tay. Cổ bạnh ra phun phì phì. Đôi mắt độc địa chằm chằm nhìn, cái ánh mắt sáng
rờn rợn hòng thôi miên người đàn bà nhỏ thó mồ hôi chảy thành dòng ướt đẫm mặt.
Vợ Ba Xà không ngán. Dù sao thì ông chồng chị cũng đã nổi tiếng là người bắt rắn
giỏi nhất vùng. Nhà lại sẵn môn thuốc gia truyền chữa rắn cắn thần diệu sống để
dạ chết mang đi. Vợ Ba Xà bặm môi. Ngón tay cái và ngón trỏ thoăn thoắt lừa miếng
thít chặt lấy mang, sát cái miệng đang há ra đỏ lòm của con rắn, khiến nó không
có cách gì cắn được và phải nhả nọc độc vào một chiếc lọ nhỏ. Rồi tay trái chị
nhúng vào một thứ nước ngải có mùi thơm ngai ngái, vuốt hờ trên đầu rắn. Lập tức
con hổ mang bành trở nên ngoan ngoãn, nới lỏng vòng quấn. Vợ Ba Xà thảnh thơi
cho nó tuồn vào một chiếc lồng sắt ken dày và cài chặt then lại. Chị cất chiếc
bình chứa nọc vào một thùng xốp lớn đựng đầy nước đá. Khi chị trút bỏ quần áo
xuống sông tắm, lằn lưng con rắn vẫn hằn đỏ cánh tay.
Nước phù sa ưng ửng màu vỏ trứng gà ve vuốt bộ ngực nở vồng vì căng sữa và cặp
mông cũng màu vỏ trứng gà rắn chắc của chị. Mặt sông mênh mang lấp loá nắng.
Gió lay lá cây đọng mỡ phù sa long lanh ngọc bích. Nắng soi rõ cái xóm chỉ có bốn
căn nhà lẻ loi bên bìa rừng đang đổ bóng nhỏ xíu xuống vệ sông. Tiếng gà gáy
trưa loang dài cũng vàng rười rượi. Vợ Ba Xà khoả nước, mỉm cười. Ba Xà người
chắc như cây lim, bắt được nhiều rắn nhất xóm. Thằng Rồng đã đầy tuổi thôi nôi,
hay ăn chóng lớn. Ghe của cái ông bụng phệ cứ đến đúng hẹn lấy nọc rắn. Nhà chị
có bộn tiền mua dưa mắm.
Bóng cây trứng cá đổ dài trên mặt sông, nghiêng xuống bờ vai lấp lánh nước của
vợ Ba Xà một vệt đen mờ. Vợ Ba Xà hối hả vơ vội chiếc áo, chạy tấp vào nhà.
Trên bộ ván ngựa, thằng Rồng đang giơ cả bốn chân tay lên trời khóc. Thằng bé
có đôi mắt nâu hình lá trâm bầu của mẹ, đường viền môi rõ nét như cánh cung của
cha. Không chỉ vợ chồng Ba Xà, mà cả xóm đều cưng thằng bé hết cỡ. Người mẹ vội
ấn vú vào miệng con. Vừa kịp ngẩng đầu lên đã thấy có bóng người đổ tối sầm trước
cửa. Chị há miệng kêu không ra tiếng.
Ba Xà không về một mình. Nằm thượt trên lưng anh, trông như đã chết là một người
tóc tai râu ria lòng thòng, mặt sưng phù bầm tím, chân dài quết đất. Ba Xà thở
hồng hộc, nặng nhọc bước qua bậc cửa, ghé vai đặt cái gã trên lưng xuống bộ ván
ngựa duy nhất trong nhà, rối rít gọi vợ:
- Để thằng Rồng đó! Mở khạp lấy cho tui chai thuốc chữa rắn cắn. Cầu may. Thằng
này bị rắn lục cắn. Không chắc sống...!
Vợ Ba Xà lập cập giằng đầu vú ra khỏi miệng con, đặt nó nằm chỏng chơ trên bộ
ván, cạnh cái gã trông như quỷ xồm đang bất tỉnh kia, hối hả đi lấy thuốc.
Trong lòng chị có những cảm giác trái ngược. Vừa muốn giúp người gặp nạn. Vừa
lo sợ. Cái thứ thuốc bí truyền này, chỉ có những nhà mà tổ tiên làm nghề bắt rắn
nhiều đời, từng bị rắn cắn chết đi sống lại nhiều lần, trong gia tộc đã có người
nộp mạng cho thần Rắn mới có được. Lúc sắp chết, người giữ bí truyền mới vẫy đứa
con tin cậy nhất đến, thều thào trăng trối vào tai, mà không bao giờ quên dặn một
câu rằng thuốc này chỉ truyền chữa cho người nhà. Nếu chữa ra ngoài, thần Rắn sẽ
bắt đổi mạng.... Vợ Ba Xà cầm lọ thuốc, ngần ngừ không muốn đưa.
Biết ý vợ, Ba Xà mắng át:
_ Chần chờ gì nữa! Mặc người ta chết à? Đưa đây! Lạy thần Rắn tha tội. Ba Xà
này không thể thấy người sắp chết mà không cứu.
Nhà hàng xóm nghe rộn rạo cũng đổ sang. Người lấy đũa cậy răng đổ thuốc. Nhìn
Ba Xà cầm lưỡi lam rạch chỗ vết cắn ghé miệng hút nọc, ông Bẩy Trăn thất kinh:
- Liều mạng vậy, Ba Xà ! Coi chừng mầy chết thay nó, nếu mồm hoặc lưỡi mầy bị
chảy máu đó nghe....!
Vật lộn toát mồ hôi một hồi. Khi mọi người đã bải hoải cả chân tay, tính đi kiếm
bộ ván chôn người xấu số, thì gương mặt tím bầm của kẻ bị nạn bỗng thoáng chút
sinh khí. Gã thở dài, từ từ mở mắt ngơ ngác nhìn quanh, rồi kêu lên yếu ớt,
nghe không giống tiếng người. Thế mà tiếng kêu đó được phát ra từ một lồng ngực
đang rất phổng phao của một gã trai áng chừng chưa qua ba mươi tuổi. Cái miệng
rất đẹp, hàm răng chắc khoẻ sáng loà ló dạng giữa đám râu ria rậm rịt rối bù
như dây rừng. Từ đôi mắt đen, sâu, hoang dại nhưng hiền như mắt bò con của gã ứa
ra những giọt nước.
Nắng tắt hẳn. Xa xa vọng ngàn ngạt những tiếng hú từ rừng sâu.
***
Ba năm sau.
Cái gã đó, giờ đây mang tên Pạng, đã coi Ba Xà như cha và ở hẳn trong nhà anh.
Sở dĩ gã mang tên Pạng, vì cách đây ba năm, khi vợ Ba Xà đổ cháo vào mồm hắn,
ra hiệu hỏi nhà đâu, hắn giơ ngón trỏ và ngón tay cái lên làm thành hình quả trứng,
ý là "không". Khi hỏi tên, gã đập tay bồm bộp vào ngực, kêu "Pạng
pạng..." . Khi vừa đứng lên đi lại được, gã quỳ sụp xuống trước mặt Ba Xà,
lạy như tế sao, gọi anh là "pạ pạ"- nghĩa là bố, gọi vợ Ba Xà là
" chị", và thằng Rồng là "em", rồi xin ở lại nhà.
Gã theo Ba Xà đi bắt rắn, nay đã thành thạo. Nhưng Ba Xà nể hơn nhiều khi nhìn
gã vồ chuột. Chỉ đôi bàn tay không, hễ trông thấy chuột là hắn đổi khác, vươn
mình dẻo như một con vượn, lẹ làng khác thường. Những con chuột rừng thân dài,
thịt không béo mà rắn chắc, lọt vào nằm gọn trong tay gã như có phép dính. Những
khi cầm con chuột giẫy giụa trong tay, đôi mắt bò non của gã bỗng sần lên những
tia khoái trá.
Từ ngày có gã, nhà Ba Xà lúc nào cũng sung túc chuột, nhím, vui lên vì thỉnh
thoảng hắn đã có thể nói dăm câu và cười. Vợ Ba Xà thì dạy hắn đọc và viết. Khi
chiếc tivi chạy bằng máy nổ phát ra chương trình ca nhạc, hắn khẽ nhún nhẩy và
ê a hát theo như trẻ con.
Hắn cung kính với Ba Xà như cha đẻ. Thường cho thằng Rồng quà là những con chuột
nướng to bằng bắp tay. Khi rừng ngập, khan hiếm thức ăn, hắn nhịn phần ăn của
mình cho thằng Rồng. Nhưng cả xóm đều thấy lạ là không bao giờ hắn chịu bế thằng
bé. Hễ thằng bé đến gần là hắn bối rối lảng đi, mà con mắt vẫn vụng trộm ngoái
lại. Nghĩ rằng hắn thèm bế thằng bé mà không dám, có lần vợ Ba Xà đặt thằng Rồng
vào tay hắn, hắn lắc đầu quầy quậy và lảng ngay ra xa. Đôi khi, vợ Ba Xà bắt gặp
hắn ngồi xổm ở góc vườn, nhìn thằng Rồng đang chạy chơi như nhìn một con chuột
lạ.
***
Hăm hai tháng chạp. Xóm bốn nhà rình rang giã gạo làm bánh đón Tết.
Hai tay xách nặng. Lỉnh kỉnh những bánh trái, gạo thịt, quần áo mới, Ba Xà cột
ghe, hăm hở bước lên bờ. Đáp xuống chợ tỉnh từ chiều qua để sắm Tết giờ mới về
đến nhà, chưa chi Ba Xà đã nhớ con. Anh nghĩ đến gương mặt tươi rói của vợ, nụ
cười toét miệng của thằng Rồng khi trông thấy những thứ trên tay anh. Anh cũng
mường tượng thấy khuôn mặt sáng lên của thằng Pạng- gã trai lầm lì nhưng chăm
chỉ mà ba năm nay anh đã coi như đứa con nuôi dù tuổi nó kém anh chưa tới một
giáp. Anh thương nó không cha mẹ, không biết gia đình ở đâu, khi hỏi đến chỉ biết
lấy tay chỉ vào rừng. Quà anh mua cho nó kỳ này là một chiếc quần bò màu tím
than.
Vừa dợm chân đặt lên ngõ, Ba Xà rởn người vì nghe thấy tiếng gào rú. Ba Xà quay
ngoắt về phía có tiếng rú, thấy một đám đông đang xúm xít dưới gốc cây xoài lớn
đầu xóm, ngửa cổ nhìn lên cây, vẻ mặt rất hoảng sợ. Ba Xà buông mấy thứ đồ mới
sắm ngả ngớn trên mặt đất, chạy tới. Thì thấy vợ anh, mặt tái dại, miệng há ra
nhưng không nói được, như người bị trúng gió cấm khẩu, đang quỳ, chắp hai tay
vái cái gì đó ghê gớm lắm trên ngọn cây.
Ba Xà nhìn lên.
Cheo leo cao tít tắp trên cành chĩa lên trời, mềm oặt xuống như sắp gẫy vì sức
nặng, là một thằng người cao lớn chân dài, cái miệng với hàm răng trắng ngậm
dao bầu lấp loá nhô ra trong nắng, nhìn từ dưới lên cao đã thấy chói mắt. Thằng
người nhìn xuống đám đông vẻ vừa sợ sệt, vừa đe dọa, một tay hắn bám ngọn cây,
một tay hắn giấu một vật gì đang động đậy, trông như một con gà trắng. Đôi mắt
bò non trợn trừng lừ lừ hắt ra màu xanh như màu rắn lục.
"Thằng Pạng" ! Ba Xà hét lên. Nghe tiếng hét, thằng người giật mình.
Nhìn rõ đôi chân dài thượt của gã run lẩy bẩy. Gã lấm lét nhìn Ba Xà, co một
chân lên. Lúc đó, Ba Xà mới nhìn rõ, thằng Pạng không ở trên cây một mình. Cái
bọc động đậy đó, chính là thằng Rồng con anh. Thằng bé khóc không ra tiếng, giẫy
giụa trong những ngón tay đen đúa quắp chặt như vuốt diều của thằng Pạng.
Hết hồn hết vía, Ba Xà lấp bấp vỗ vào gốc cây, rối rít gọi:
- Pạng, sao nghịch dại vậy! Đưa em xuống ngay! Chết cả hai bây giờ!
Pạng có vẻ phân vân. Trong tay hắn, thằng Rồng mở con mắt lờ đờ ngó xuống, bật
lên một tiếng khóc, rồi tắt lịm. Pạng lom lom ngó xuống, canh chừng, hét lên với
đám người :
- Thả tao đi. Nếu không, tao giết thằng Rồng !
Lúc đó, Ba Xà mới nhìn rõ, trên cổ gã đeo lòng thòng một cái tai người mà máu
đã khô quánh đen bầm. Một mùi tanh nồng nặc bốc lên trong buổi trưa oi nồng khiến
người ta nghĩ đến không khí của những bữa tiệc máu. Cả đám người lặng ngắt nín
thở, nhìn thằng bé đung đưa mềm oặt trong móng vuốt thằng Pạng. Ông Bẩy Trăn
run rẩy ghé vào Ba Xà:
- Tai bà Hai Rỗ đó. Thằng Pạng cắt khi bà đang ngủ. Nghe bà Hai rú, cả xóm rần
rần đổ đến. Thằng Pạng mới cắp thằng Rồng leo lên cây. Nó nhe răng gớm ghiếc,
như sắp ăn thịt thằng Rồng. Cả giờ nay rồi. Vợ mày té xỉu mấy lần mới hồi lại.
Coi chừng đừng leo lên cây nghe, Ba Xà. Nó bóp chết thằng Rồng tức khắc đó.
Dùng lời ngọt mà dỗ. Nó chỉ nể riêng mầy...
Chưa nghe dứt lời can của ông Bẩy Trăn, Ba Xà đã trèo lên cây. Vừa lên ba nấc
đã nghe tiếng rít ghê rợn trên đầu. Con dao nhọn dùng để lột da rắn của nhà anh
từ tay thằng Pạng sượt qua mang tai, cắm phập xuống đất, ngập tận cán. Từ tai
Ba Xà, một dòng máu đỏ ri rỉ chảy dài. Ba Xà buông tay, rơi thịch xuống đất.
Vợ Ba Xà lao đến ôm chặt lấy chồng. Mắt chị lạc đi, con ngươi đảo lên :
- Thằng Pạng. Mày đang tâm giết cả pạ pạ mày sao ?
Nghe hai tiếng "pạ pạ", thằng Pạng như sực tỉnh, ngó xuống. Hình như
hắn nhận ra Ba Xà. Mắt đã bớt xanh lẹt. Nhưng bàn tay quắp thằng Rồng vẫn huơ
lên hăm dọa trên đầu.
Ba Xà nén đau, cất tiếng dỗ dành :
- Con ơi ! Con quên rồi sao ? Ai đã cõng mày về từ trong rừng, cứu mày, nuôi
mày như con? Thằng Rồng là em con đó, Pạng! Mày nỡ làm pạ pạ đau lòng sao ? Mau
mau xuống đây. Pạ không đánh, không mắng, cũng không cho ai đánh con đâu ! Mày
không xuống mau, thằng Rồng em mày chết mất.
Nghe những lời đó, cành cây đang đỡ thằng Pạng bỗng rung chuyển. Gã chuyền xuống
một cành cây thấp hơn, ngó lom lom vào mặt thằng Rồng đang thoi thóp thở. Răng
nhe sáng loá. Cái miệng dẹp phát ra những âm thanh nghe không giống tiếng người
:
- Pạ ơi! Tôi đâu có định ăn thằng Rồng. Dù thịt trẻ nít thơm ngon lắm. Ba năm
nay, ơn pạ cứu mạng, tôi đã cố nhịn....
Gã bỗng ôm mặt khóc, hú lên qua dòng nước mắt li ti rỏ xuống như những giọt nọc
rắn:
- Pạ ơi! Sao bỗng dưng pạ lại bỏ đi. Tôi không thể làm người được nữa ! Pạ cứ
đi khỏi nhà là tôi thèm những bữa tiệc tai người. Từ nhỏ, tôi đã ăn như vậy.
Ông chủ bảo tôi cách đi bắt người như bắt chuột rồi vác về. Ông dạy tôi cách
làm nộm tai người...
Ba Xà rùng mình, lạnh tận sống lưng. Anh nhớ lại những câu chuyện về đoàn người
lũ lượt đi trong tiếng hú khóc trong khu Thủy Yến, trong ánh vàng vọt của những
tia nắng rụng, đi đòi lại tai và gan bàn chân bàn tay của mình đã bị xẻo trong
những ngày chiến tranh. Mấy chục năm qua rồi cơ mà ? Chiều chiều đi bắt rắn về
muộn, Ba Xà vẫn nghe tiếng hú, nhưng cứ tự nhủ rằng không biết mình mơ hay tỉnh.
Vậy, cái gã đang đung đưa mình trên cây kia, quắp chặt đứa con của anh trong
tay, là người hay ma?
Ba Xà cố hết sức trấn tĩnh, lấy giọng ngọt ngào :
- Pạng này! Tỉnh lại đi con. Con không cha không mẹ. Con là con của ta. Ba năm
nay con sống ở xóm này. Mọi người thương con mà. Xuống đây, ba đón. Nào! Nghe
ba, đưa em con xuống trước rồi ba đỡ con xuống sau. Ta bảo đảm cho con mà!
Nước mắt Ba Xà rơi lã chã. Thằng Pạng dịu nét mặt. Mắt gã trở lại gần như mắt
bò con. Gã nghi ngại nhìn mọi người đang đứng quanh Ba Xà, bàn tay quắp chặt thằng
Rồng đã nới lỏng. Ba Xà biết ý, nói :
- Bà con về nhà giùm đi. Không việc gì đâu. Để thằng Pạng mang em nó xuống đây!
Nào Pạng con. Ngoan lắm!
Ánh mặt trời đã úa vàng chiếu qua kẽ lá xoài, hắt lên mặt thằng Rồng những tia
vàng vọt. Pạng trừng trừng nhìn thằng Rồng. Rồi nó thẫn thờ lần xuống từng cành
cây, thấp xuống tới mức Ba Xà cập rập đưa tay ra định bồng lấy con. Nhưng thằng
Pạng lại dừng phắt. Nó riết chặt con mồi trong vòng tay, mắt nhìn trừng trừng,
nước miếng chảy ròng ròng qua khoé mép. Họng nó nhẩy nhẩy, lên xuống bật ra những
tiếng hực hực thèm khát. Ba Xà níu chặt gốc cây. " Pạ...Pạ...!"...Tiếng
nức nở của thằng Pạng. Như trong cơn mơ, cái thân thể bé bỏng của thằng Rồng chợt
được Pạng buông xuống nằm gọn trong tay Ba Xà. Ba Xà nghẹt thở, hối hả ấp mặt
vào ngực con.
Trên cây, thằng Pạng vẫn ngồi lặng. Nó nhìn chị Ba Xà ôm chặt thằng Rồng, bỏ chạy
vào nhà, chốt chặt cửa. Nó nhìn thấy lũ người lúc nãy nghe Ba Xà tản vào nhà, bây
giờ đang lấp ló chạy trở ra. Còn Ba Xà thì vẫn đứng dưới gốc cây, vẻ bồn chồn,
như đợi hắn nhảy xuống. Pạng nhìn đôi tay chằng chịt sẹo của pạ pạ. Đôi tay này
là hình ảnh đầu tiên hắn nhìn thấy sau khi tỉnh lại từ lần hút chết do rắn lục
cắn. Một lần nữa, những giọt nước mắt li ti lại ứa ra trên đôi mắt hắn. Hắn bất
giác mím miệng dợm chân bước xuống. Chỉ một nhành ngang nữa là tới tay pạ pạ.
Đúng lúc đó, tia nắng vàng vọt cuối cùng rớt xuống. Và, nghe rất rõ, một chuỗi
tiếng hú ảo não vọng tới từ ruột rừng sâu.
Thằng người đang đứng trên cây bỗng sựng ngược. Hắn vùn vụt leo trở lại ngọn
xoài, dỏng tai nghe. Tiếng hú vẫn vọng lại, nghe rõ mồn một. Gương mặt thằng
người bỗng nhiên xa vắng. Màu xanh rắn lục trở lại trong cặp mắt bò non.
Hắn nhìn lên trời, nhìn về phía đầm lầy hun hút sâu trong rừng. Rồi nhìn xuống
gốc cây, nơi pạ pạ của hắn đang đứng.
Bỗng hắn ngửa cổ lên trời, cất lên một tiếng rú.
Tiếng rú này nghe giống tiếng người não nuột nối dài muôn ngàn tiếng hú vọng
lên từ phía đầm lầy, trước khi hắn nhảy dựng lên lần cuối, rơi xuống gốc xoài,
dội óc chết tươi với một dòng máu nhỏ ri rỉ chảy bên mép.
Từ đôi mắt bò non mở trừng trừng của hắn, Ba Xà thấy dường như in hình một
gương mặt trắng bệch với đôi môi nhành ra trong một nụ cười khó tả./.
Võ
Thị Hảo