Muà Thu đang về.
Đêm hôm qua một cơn mưa nhỏ. Buổi sáng sớm, vừa mở
cửa bước ra là gặp ngay một ngọn gió nhẹ se se lạnh lướt tới. Rồi
những ngày rét mướt sẽ đến, tôi thầm nghĩ. Tuổi đã lớn, tôi “hạp”
với mùa hè hơn. Bầu trời bàng bạc một màu mây trắng đục. Như những
hình chữ V, mấy cánh chim chấp chới xa xa, khi ẩn khi hiện. Vài vũng
nước loang loáng trên lối đi trước nhà. Những chậu cây ngoài hiên,
khác với mọi ngày, xanh hẳn lên. Long lanh trên kẽ lá, trên cánh hoa,
những giọt sương nhỏ li ti.
Thi hào Đỗ Phủ đời Đường làm một loạt tám bài thơ Thu
Hứng vào mùa thu năm 766 khi ông lưu lạc ở vùng Tứ Xuyên, đất
Thục. Bài nào cũng hay. Xin trích dẫn bài thứ nhất do Phan Huy Vịnh
(dịch giả Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị) dịch ra thơ tiếng Việt:
Lác
đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn
lau hiu hắt khí thu mờ
Lưng
trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt
đất mây đùn cửa ải xa
Khóm
trúc tuôn rơi dòng lệ cũ
Con
thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh
lùng giục kẻ tay dao thước
Thành
quách dồn châm bóng ác tà [2]
Một Mùa Thu tiêu sơ, tan tác, và buồn thảm. Đấy là
Thu Đông Phương vào giữa thế kỷ Thứ Tám.
Tây phương cũng không khác mấy. Hơn 1000 năm sau Đỗ
Phủ, Điệu Thu Ca [3] của thi sĩ người Pháp Paul Verlaine hay bài Tụng
Ca Cơn Gió Tây [4] của thi sĩ người Anh Percy Bysshe Shelley vào thế
kỷ thứ 19 cũng ảo não, thê lương không kém.
Thế Mùa Thu và Thơ Mùa Thu trên quê hương
ta?
Nói đến thơ không thể không nghĩ đến Nguyễn Du. Mùa
Thu trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh vào nửa đầu của thế kỷ
19 là mùa thu của những cô hồn vất vưởng, vô danh, không nơi nương tựa.
Bài Văn Tế khá dài, dưới đây là bốn câu đầu tiên:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay mấy chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng
Trong Truyện Kiều, Mùa Thu cũng đến mấy lần.
Lần thứ nhất, một mùa thu buốt giá, xám ngắt trùm lên số kiếp của
người giai nhân một mình bỏ lại sau lưng cuộc đời êm ấm bên cha mẹ và
hai em. Con đường bạc mệnh bày ra trước mắt:
Nàng
thì dặm khách xa xăm
Bạc
phau cầu giá đen dầm ngàn mây
Vi lô
san sát hơi may
Một
trời thu để riêng ai một người
Một lần khác, cũng vào mùa thu khi rừng phong
nhuốm màu quan san, lá phong nhuộm vàng, Kiều tiễn đưa Thúc Sinh.
Sẽ xa nhau trong một năm tròn sau buổi chia tay? Không, nàng sẽ không bao
giờ được nối lại duyên cũ dù có gặp lại người xưa trong một hoàn
cảnh vô cùng nghiệt ngã. Chén đưa không phải để nói lời tạm biệt,
mà là vĩnh biệt:
Chén
đưa nhớ bữa hôm nay
Chén
mừng xin đợi ngày này năm sau
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Trông
người đã khuất mấy ngàn lau xanh
Ôn Như Hầu, rất nhanh chóng, khởi đầu tác phẩm
Cung Oán Ngâm Khúc bằng ngọn gió vàng hiu hắt:
Trải
vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh
vũ y lạnh ngắt như đồng
Gió vàng là gió thu. Lá vàng ta đã gặp trong Truyện
Kiều, nay gió thu vàng trong thơ Nguyễn Gia Thiều. Mà nắng thu cũng
vàng, như trong thơ của Huy Cận:
Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung
Có ai đàn lẻ để tơ chùng
Vâng, nắng mùa xuân hồng, nắng mùa hạ đỏ, nắng mùa
thu vàng, nắng mùa đông tím. Cơn gió vàng hiu hắt đầu tiên ấy
sẽ gắn liền với cuộc đời lạnh lẽo còn lại của người cung
nữ.
Cung Oán Ngâm Khúc khiến liên tưởng đến Chinh
Phụ Ngâm, một tác phẩm cổ điển giá trị khác được viết
gần như đồng thời, khoảng giữa thế kỷ 18.
Trong cơn gió thu ào ào, chinh phụ tiễn chinh
phu ra chiến trường. Hãy khoan nói đến những nỗi khổ của nàng về sau
-- trông ngóng, đợi chờ, hết năm này đến năm khác; buổi chia ly diễn
ra trong tiếng trống trận, đoàn quân rong ruổi, hàng cờ bay phất phơ,
tiếng địch đồng vọng. Thật là hào hùng:
Múa
gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ
ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo
...
Giã
nhà đeo bức chiến bào
Thét
roi cầu Vị ào ào gió thu
Nhưng giữa những náo nhiệt đó là tiếng than nhỏ
nhẹ, ai oán:
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng
Lại Mùa Thu biệt ly.
Khoảng gần 200 năm sau Chinh Phụ Ngâm, Đôi Bạn
của Nhất Linh ra đời. Khung cảnh cũng là mùa thu. Lại mùa thu. Hai
nhân vật chính không phải là chinh phu và chinh phụ. Họ là hai người
trẻ tuổi sinh ra để yêu nhau, để sống bên nhau trọn đời. Đôi Bạn
là một tiểu thuyết, cốt truyện rất đơn giản, hay đúng hơn, cốt
truyện không quan trọng, chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Cái nhan đề Đôi
Bạn dễ khiến ta nghĩ đến chuyện sum họp, vui vầy. Nhưng không, Đôi
Bạn là Biệt Ly, là một bài thơ xuôi rất dài, rất cảm động. Bài
Thơ Biệt Ly.
Đôi Bạn bắt đầu bằng hình ảnh thu về tại một
làng quê:
--Trời
muống trở rét ...
Nói xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại
rằng câu nói ấy chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự
rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên khiến vẻ
mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống lại
hết cả những ngày mới trở rét trong đời ... Tuy đã cuối tháng chín
nhưng đối với Trúc cứ lúc nào trời đổi gió heo may mới thật là lúc
bắt đầu mùa thu.
Và kết thúc bằng nỗi nhớ xa xôi trên đất khách:
Tiếng nhạc ngựa ở đâu vẳng tới, giòn và vui trong
sự yên tĩnh của buổi chiều. Trước mặt hai người, về phía bên kia
cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một
nỗi nhớ xa xôi đương mờ dần ...
Phần chính của Đôi Bạn, như đã nói, là
Biệt Ly. Mỗi lời nói nửa chừng, mỗi dáng điệu ngập ngừng, cả cái
nhìn bối rối, cả cái hình ảnh “một con bướm trắng ở vườn sau bay
vụt lên cao rồi lẫn vào màu trời”, hay “cảnh bến đò bao giờ
cũng buồn”, hay “chàng không dám nghĩ đến một đời ở xa Loan,
nay đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng như Tạo chết một nơi xa
lạ nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng bên mồ, dưới ánh
nắng, tà áo trắng của nàng phấp phới trước gió”, hay cả một
mẩu chuyện nho nhỏ không đâu, “Một cơn gió thổi lùa qua cửa sổ
chấn song chỗ Loan ngồi; trong gió Loan thoáng thấy mùi đất và mùi
gỗ mục ở vườn sau đưa vào. Một cảm giác trơ trọi trước cuộc đời
làm cho lòng nàng se lại, nàng nhìn Dũng nói: Gió lạnh như gió mùa
đông”, hay ngay cả khi chàng được gần gũi nàng, “Tiếng nói của
Loan nghe trong căn phòng ấm áp thốt nhiên gợi Dũng nghĩ đến cảnh một
người phiêu lưu ngủ trọ trong quán hàng nước ở một bến đò xa vắng,
đêm khuya lạnh sực thức dậy nghe tiếng mưa rơi trên sông và nhớ tới
người yêu ở quê cũ” v.v ... tất cả đều là những đồng vọng của ly
biệt. Và chút lãng mạn nữa chăng.
Ngày xưa, người chinh phu hiên ngang lên đường tòng
chinh những mong mau lập công đầu để trở về với người vợ chờ. Nay,
vào thời cuốn Đôi Bạn ra đời, tổ quốc sống oằn mình dưới ách
nô lệ, chàng đành phải thầm lặng, lẫn lút ra đi làm một cái gì cho
đất nước, để lại người yêu một mình ở quê nhà xa xôi, chẳng hề
mong ngày trở lại.
Một thi sĩ nổi tiếng khác, Nguyễn Khuyến, trước
Nhất Linh hơn nừa thế kỷ, lại có vẻ an nhiên tự tại trong Thu Điếu
[5]. Rất nhiều hình ảnh xuất hiện cùng một lúc trong một bài thơ
ngắn: Chiếc ao, chiếc thuyền, dòng nước, gợn sóng, làn gió, lá
vàng, đám mây, ngõ trúc, cần câu, chiếc gối. Rất nhiều nhưng bình
lặng, yên ổn không hề quấy rối ông lão đang ngồi yên trầm tư cho đến
khi “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Tiếng cá đớp động hẳn là
mơ hồ nhưng dường như khiến ông già thảng thốt.
Vậy câu cá chỉ là cái cớ. Một mùa thu mênh mông
choáng ngập tâm hồn ông lão mới là điều đáng nói [6]. Cũng nổi bật
lên là hình ảnh chiếc lá vàng bay vèo trước gió. Nó sẽ bị đưa đi
đâu trong khi mọi thứ khác vẫn tồn tại trước mắt ông. Một chia lìa.
Khung cảnh toàn bài đều êm êm, nhẹ nhàng, trừ chiếc lá vàng đưa
“vèo” đột ngột:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Gần ta hơn, trước Nhất Linh không đầy 20 năm, Tản Đà
băn khoăn vì “Ngọn gió thu phong”: Gió mang chiếc lá bay ngang từ hàng
xóm. Phải chăng chiếc lá vàng đó, trong tâm tưởng của nhà thơ, là
hình ảnh người tình phụ bạc, xa lìa. Nhưng ai xui khiến thiếp phụ
chàng vậy? Lá vàng xui khiến, gió thu xui khiến, Mùa Thu xui khiến:
Ngọn
gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay
hàng xóm lá bay ngang
Vàng
bay mấy lá năm già nửa
Hờ
hững ai xui thiếp phụ chàng
Trải qua bao nhiêu năm tháng, mùa thu của lá vàng và
biệt ly vẫn là nguồn cảm xúc không bao giờ cạn của người làm thơ,
dù Nàng Thơ nhiều lúc mang những dáng dấp khác nhau. Nhà thơ Tân Hình
Thức Phạm An Nhiên trong bài thơ Bài Tháng 10 [7] khá
dài, đã nhớ một Mùa Thu đầy xúc động, có gió heo may, có nước
mắt, và nhiều kỷ niệm của khung trời rất cũ. Tháng 10 rồi cũng
qua đi như bài tình ca viết dở. Dưới đây, vài đoạn:
Tháng
10, nồng nàn hơi thở,
bờ môi
em và hương mùa
thu,
những con đường đầy gió
heo may.
Heo may vừa trở
lạnh,
thèm lắm một bàn tay.
Trên
lối về ngơ ngác, những
hàng
cây thân quen bây giờ
bỗng
lạ, đứng chụm đầu nhìn
nhau vô
cùng tội nghiệp ... Tháng
10 ...
Trên những bước đi ứa đầy
nước
mắt, tình yêu không đủ
nuôi
nấng nỗi buồn em, khi ...
Đêm vẫn
xanh trên dòng
sông,
nửa vầng trăng soi mình
trên
sóng nước. Có em về
giữa
tháng 10 và mùa thu ...
Một trường hợp lạ lùng vừa mới xẩy ra. Một nhà phê
bình văn học nổi tiếng bỗng dưng, trước sự ngạc nhiên của mọi người,
biến thành một nhà thơ độc đáo viết cả nghìn bài thơ mà ông gọi là
Thơ Ba Dòng. Đó là Nguyễn Hưng Quốc. Xin trích vài bài Thơ Ba
Dòng có liên quan đến Mùa Thu:
Mùa
thu, nghe thơ nhạc nhắc
Lá
buông cành
Rơi
...
Một cánh chim bay đi
Để lại tiếng hót
Làm vàng hoàng hôn
***
Sắc màu của lá vàng, của nắng, của gió, của hoàng
hôn, cùng với sự chuyển động, rơi rụng, chia lìa, biệt ly, và cùng
với nỗi buồn khó tả, đấy là những vang vọng không bao giờ dứt trong
hầu hết Thơ Mùa Thu từ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều,
qua Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Bích Khê ... đến Vũ Hoàng Chương, Nhất
Linh, Huy Cận, Đinh Hùng ... và nay Phạm An Nhiên, Nguyễn Hưng
Quốc.
Riêng Bích Khê, thuộc trào lưu Thơ Mới tiền
chiến, trong hai câu cuối của bài thơ Tỳ Bà toàn âm bằng trích
dẫn dưới đây, còn muốn nói gì nữa khi mô tả thu mênh mông? Nỗi
buồn đè nặng khiến lá ngô đồng rơi, mở ngõ cho thu về? [Và lá rơi,
buồn cũng rơi theo? Không, không còn chiếc lá nào nữa. Lá ngô đồng đã
hóa thân thành màu sắc, màu vàng, rơi rơi. Chỉ còn màu vàng rơi cùng
một lúc với nỗi buồn trong thu mênh mông. Hay là thu mênh mông khiến cho
màu vàng rơi xuống từ trời cao? Hay là màu vàng rơi cùng nỗi buồn
đã tạo nên thu?[8]
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông
Vàng, rơi, buồn, và thu hiếm khi tách rời nhau.
Ngự Thuyết