17 October 2023

Ý NGHĨ - Cung Tích Biền

“Để nhớ một thời buồn nôn, phi lý”

1

Những tu sĩ đọc kinh như thầm. Giọng quen thuộc đến rỗng mục. Kẻ tiễn đưa trong khăn tang. Bọn âm nhạc say sưa đánh trống dập xõa thổi kèn. Nhạc trưởng đi đầu áo vét trắng có gù vai, đầu đội cát két, tay cầm cây gậy chỉ huy nhạc công. Thỉnh thoảng anh ta tung cây gậy lộn vòng lên không trung, rồi biểu diễn cách bắt cây gậy điệu nghệ khi rơi xuống. Bọn con nít chạy theo đám tang đông đúc là vì sự vụ vui mắt.

Quan tài qua phố chậm rãi. Một đám tang sạch sẽ, dọc đường không rải giấy vàng mã, đô la dỏm.
Trời nắng hanh, đó đây vài chùm mưa bụi. Con đường thẳng tắp. Nhìn lui, người ta còn thấy ánh nến lung linh trong sâu lòng giáo đường. Cây thánh giá nơi đỉnh cao hóa đen trong trời xám. Dãy tường bao quanh dây leo xanh và hoa màu vàng nghệ. Con đường nhựa dẫn đám tang đi hai bên nhà nhà, tường màu, những ô cửa.

Từ một vài khung cửa cao mở hờ đôi mắt nhìn đám tang đang lặng lẽ đi qua. Ở một ngã tư người cảnh sát thổi còi ra hiệu nhường đường. Không gian co nhàu, cúi đầu chào biệt. Chiếc xe tang có sức thu hút người qua đường với tấm ảnh màu trên nóc áo quan khá trang trọng một sĩ quan vận lễ phục, hai cầu vai dây biểu chương óng vàng, nơi ngực áo nhiều huy chương.

Bỗng, đám tang như cái nút chai bịt một đầu con đường hẹp, xe cộ bị kẹt lại ùn ùn phía sau, một không gian ám khói, nghẹt thở. Người nhắm mắt trong áo quan chắc còn thính tai, chừng nghe rõ cái bực bội phố phường mọc ra từ những bãi nhậu bình dân. Nỗi buồn cháy trong nắng. Một biệt ly xám màu được mô tả qua triết lý vỉa hè, cái cách của phố thị trập trùng mâu thuẫn thời chinh chiến.

– Tao không nói ngoa đâu, chết vầy là ngon cơm lắm rồi.

– Biết rồi, nhậu đi, đừng giảng giải.

Một người đàn ông quần đùi mình trần, nỗi đau thời thế thúc đẩy, anh nổi đóa:

– Đ.m chết vầy oai phong, sống lâu năm mà như con chó không biết nhục nhã thì sống làm quái gì. Tao có một cái đầu như con ốc sên, một tấm thân lực lưỡng mà như không xương sống, ờ ờ, đáng sống lắm đó.

– Con người ốc sên bằng lòng với cái ốc sên cũng phẻ re rồi.

– Uống đi hai cha nội. Cạn nốt. Cho đây thêm sáu chai nữa cô Bảy, mỗi thằng tui một cặp. Mụ vợ tao thấy tao say là nhì nhằng om tỏi. Mụ là loại máy hy hữu trên thế gian không cần nạp pin hay điện. Ngày nào cúp điện máy càng cằn nhằn hết công suất.

– Mấy tháng trước bác sĩ bảo gan tao sưng ù. Ôi, mình đâu có sống cho một lá gan mà kiêng cử. Tim gan phèo phổi hoàn hảo bỗng một trái pháo ùm, là xong. Tích tắc thôi. Nào, cạn.

– Nghĩ cũng buồn quá há, ông ấy chết còn trẻ.

– Anh không chết đâu em, anh chỉ về nơi mẹ mong con.

Cô Bảy nướng thêm con khô mực, tay quạt lửa phập phù, miệng nhâm nhi hát nhỏ. Hai má cô ửng hồng, lấm tấm mồ hôi. Tàn lửa vụn bay xây vần trên bếp lò như môt đám phù du đỏ.

**

Trên đồi, cây lưa thưa người ta đặt Tòng xuống chỗ đất đào sẵn. Một anh tầm phào nói đùa, “Cái giường thiên thu này không có đệm.” Tòng nghe những lời cầu nguyện, tiếng khóc, những tiếc thương mà suốt đời đôi khi chàng mơ ước được nghe. Mỗi người thân thuộc, những cánh hoa, những nắm đất ném xuống nắp áo quan. Tòng đã yên nghỉ.

Trong màn sương nước mắt tôi không thấy Ân chỉ nghe nàng rên rỉ, “Anh Tòng không chết, anh Tòng anh Tòng của em.” Tòng trở về từ chuyến tải thương, chiều hôm trước. Vết thương quá lớn, người hết máu, không còn, không thể cứu cấp.

Bên huyệt mộ Tòng tôi thèm một cốc rượu. Rượu, như xưa cùng bạn. Rồi vu vơ hỏi:

– Tòng, lên trển hay xuống dưới?

– Tao xuống.

– Làm quái gì chỗ xuống ấy?

– Sẽ đi lang thang trong những ngày đầu như cha ông chúng mình đã từng, để biết quang cảnh chung. Dưới ấy trên này chừng như nhau.

– Tao hỏi mày sẽ làm gì? Đi lang thang không phải là “làm”?

– Còn tùy, cũng như mọi người, muốn an lành tao sẽ thọ lãnh một vài hình phạt, gọi là được phục vụ.

– Chúng ta tội lỗi gì?

– Đó là thủ tục nơi tao sẽ làm một công dân. Chứng minh cho một lựa chọn mà người-trên-ngai luôn gọi là trung thực và có thực. Họ luôn tạo ra rối rắm xã hội để thể hiện tài cai trị của mình. Rằng đã là con dân thì luôn phải phạm một tội lỗi gì đấy. Bất cứ ai, hình như ai cũng đã phạm một tội gì. Một tội mơ hồ, một tội mông lung. Tội tắm xả cái thân thể trần tục trên một dòng suối. Tội không cam tâm chịu đựng mà từ cần cổ tự động phọt trổ ra lời than thở về áp bức vô lý gánh chịu. Một tội đã hít thở không khí từ kiếp này, chẳng hạn.

– Kiếp này là kiếp nào?

– Kiếp trần gian.

2

Người xà ích đánh xe qua con lộ nhỏ. Chiếc quan tài rung rinh lọc cọc. Có quá nhiều quả pháo bay trong không trung, quá nhiều cái chết của một quê hương nhiều rừng núi. Quan tài rất đông đi qua trong sáng/chiều nay. Đông mà lẻ loi. Mỗi áo quan mỗi cách, mỗi lọai xe. Bầu trời cũng nhiều mây. Cây cối cũng nhiều bóng đen đổ dài. Nắng vàng quá đỗi. Ân đi sau những hàng nến. Âm thầm như nến. Cháy dần, chảy dần.

Cánh đồng bỗng dưng khô khan. Cỏ chết vàng rươm tận chân trời. Có tiếng chân ngựa, tiếng hí vang. Nỗi xao xuyến nhẹ rỗng cùng gió. Người ta mang đến quê hương nhiều màu-cái-chết. Những mộ úa, những mặt người đỏ vàng lẫn lộn. Mộ bia hàng hàng đều như răng thiếu nữ.

Gần bờ tường thấp, bao quanh mấy cây sầu đông, có một ông già ăn vận đơn sơ, tay cầm dù, đi qua lại dọc những hàng chữ trên các mộ bia. Thỉnh thoảng trở cán dù chỉ vào mặt kẻ chết trên bia đá. Lão như tìm một ai thân quen thất lạc, đã hóa xương trong đất. Có thể đất này.

Bờ tường thành phía kia còn một cái cửa lớn. Đó là lối ra con đường lầy lội ngoại ô, những mái nhà lá tạm bợ, ban đêm cũng như ngày con-gái-bờ-lúa vào nội ô, đứng đầu đường tìm khách. Hỏi, nhà cửa em đâu? Bọn son phấn rẻ tiền thở dài, hai lòng đen trong mắt méo mó, đen như hai con ruồi chết.
Em nói, em than van gia đình các em tiêu tan, vùng thôn quê máu lửa quá, sống không nổi, vào phố thị thất nghiệp, bọn em câu cơm qua nghề đứng đường. Nơi lề đường, trong góc khuất, bọn gọi rằng em than thở, “Chiến chinh, thị thành thôn dã nơi mô cũng lây lất. Trong kia chết bằng máu, ngoài này sống bằng nhục.

**

Tòng thảnh thơi nằm. Những anh chàng vận đồ âm công là nhiệt tình nhất trong việc hoàn thành cho Tòng một cái nấm. Nhìn một đứa bé ba tuổi ăn vận áo trắng để tang cha, tôi nói với Ân: “Tòng gặp đứa con mình lần cuối là một tháng trước, chiến trường không cho phép Tòng nghỉ ngơi”. Ân nói: “Anh ấy nói lời trối trăn từ trước rồi”. Tôi hỏi Tòng nói gì? “Anh đã nói – Ân trả lời – anh vẫn an tâm cho một-mai-sẽ-chết, em cố gắng nuôi con, và dạy nó đối xử với đời nên nhân ái hơn những cha ông của chúng.”

Gió đập lật bật. Cơn mưa lớn tràn đến bất ngờ và khốc liệt. Trời đã gội mái tóc Ân bằng thịnh nộ. Có lúc tóc nàng bị gió bung chẻ thành một bầy rắn đen nhảy múa. Bọn rắn đen bay. Và dòng mưa trắng nhòa bị gió mạnh uốn cong như vô hình bủa lưới.

Những tiếng còi của cảnh sát chặn xe từ các ngã tư – chặn người sống để kẻ chết đi qua – đã thành những âm thanh khô mục của quá khứ. Nhưng mộ Tòng là một Có-mặt, còn tươi.

3

Tôi hiểu là mình đang ngủ. Đêm trụi trơ. Không còn Tòng, không có Ân. Biển vỗ âm u. Tôi nhớ sóng và rừng. Đi xa, nhớ biển Đông và nhớ Trường Sơn là căn bệnh sầu cảm của người miền Trung, nơi đại dương và muôn nghìn núi ép con người vào giải đất hẹp, đầy âu lo và mộng mị.

Mùa hạ chiều, những cơn mưa núi cuồng nộ, đầy trời sấm sét, đánh chết đứng người cày ruộng giữa đồng. Ngày đông, giông bão hóa phép nhà bay trâu bò bay, dạy cho chiếc xe to đùng biết lăn tròn từ lòng đường xuống vực sâu. Tôi là cái đinh gì trong cái chòi lá thay nhà thời tản cư tránh giặc Pháp, tôi bay cùng mẹ. Chúng tôi bò, bám vào những cột tre quay lông lốc. Đêm thì đương nhiên mịt mù tối, chỉ bọn quỷ ma là thấy rõ đường đi nước bước của rủi may.

**

Tôi hiểu là mình còn mơ ngủ. Đã hôn Ân trên bờ sông đêm khi mới quen nhau. Cũng mùa hè năm đó tôi bỏ tuổi thiếu niên, trở thành một gã đàn ông biết gieo rắc tinh trùng.

Theo giấc ngủ, tôi lên chuyến tàu vào Nha Trang, toa hạng ba, nấp lén lút vì thiếu tiền mua vé suốt. Khi kẹt vì kiểm soát vé gắt gao, tôi cùng bọn như tôi leo lên nóc tàu. Nằm ép sát người mỏng như mảnh giấy khi con tàu chạy qua hầm tối. Những rong rêu những cái chết ảo, những giọt nước nhỏ nhoi như dao cắm phập vào người vì sợ hãi. Khi âm thanh còi tàu thoáng rộng là tàu ra khỏi hầm, tôi ra khỏi cái chết. Tôi lại rất mong manh, có thể chờ một rủi ro khác.

Nha Trang là cái túi chứa du khách sang trọng, tôi chỉ là viên sỏi bụi bặm. Tôi đi lang thang. Cuộc chiến bó gói Nha Trang càng lúc càng nhỏ hẹp chật chội. Những ngoại ô dần dà cháy sém bởi quả pháo, tiếng mìn.

Bơ vơ riết rồi cũng quen. Thấy người chết không cảm động. Thấy chia ly không buồn. Dửng dưng với sân ga. Ai vĩnh biệt kệ cha. Đêm như ngày, mưa nắng như nhau. Kỷ niệm như da thịt dính liền với thân thể không thể cắt bỏ không thể đổi màu.

Tôi làm cu ly vác gạo bến tàu như vác Ân trên vai. Vác gạo chán, thuê xích lô đạp. Cảnh sát luôn chặn bắt những thằng đang tuổi lính.

Tuổi trẻ, một đám rong biển với những đưa đẩy vô tình của sóng, với tiếng gầm thét cuồng nộ thời sự. Những ngày tháng ngủ quên thức giấc mặt trời mọc trên đầu dưới chân không tìm thấy phương hướng, không hiện hữu. Những xô bồ của hiện tại như những đinh ốc vít vào đôi tai đôi mắt. Những biến động làm thiên lệch cái nhìn vốn chưa đủ chín.

Đám rong biển vẫn sống với những lênh đênh dành cho. Như bọn người lạc bước, thế hệ tôi và Tòng thấm đậm ưu tư. Lòng người là bãi chiến trường, nơi súng đạn nổ hết dã tâm của mình.

Một đôi lúc cũng nghĩ ra, chúng ta đâu là những con chó ngồi yên phận gầm giường. Nhưng vùng thét qua môi trường nào, một định vị nào cho cuộc dấn thân? Cái hiện tình triết học buồn nôn phi lý, thuở ấy, hẳn là một áp lực vây khổn.

Bẻ một cành cây thả trôi để mong tìm ra hướng di chuyển của con nước như không muốn trôi, chưa định hướng cho chính Nước, chúng tôi bập bềnh. Buổi mai sớm ngồi chờ sương tan, lòng sợ hãi một mông lung, một không nghĩa lý, là bình minh có thể không bao giờ trở lại. Chúng tôi không còn tin vào những chân lý vĩnh cửu. Và bị đóng đinh trong một cuộc tranh chấp máu lửa nhưng ù lì không lối thoát.

Trong con sóng thời đại lêu bêu bập bùng, tôi đi hoang, tháng ngày không điểm tựa. Tòng khác hơn, anh đã chọn con đường nhỏ, con đường rất gọn làm ngã rẽ đời mình: cưới vợ.

Tòng cưới người yêu của tôi. Bàn tay định mệnh có chút láu cá. Nhưng đây là một hạnh phúc cho Ân. Tôi cầu mong nàng được một đời bình yên. Khác tôi, Tòng là người đã chọn sự mẫu mực, có công ăn việc làm là trên hết. Nhưng chinh chiến không chừa Tòng. Hàng ngũ bắt anh phải sắp hàng bồng súng.
Tòng đã chết một cái chết đẹp. Nhưng cách chết của một xác tai nạn. Thân thể nát, đôi mắt trợn trừng, một chân dung máu. Người đàn bà khốn khổ dùng bàn tay mát dịu vuốt lên đôi mắt. Mắt vẫn không nhắm. Đứa con đứng bên, thằng bé ba tuổi, bình yên xem như cha mình bị một cái gi đó, không phải chết chẳng phải sống. Trong đám người chết, Tòng nổi bật nhất. Có lẽ vì cái gương mặt mang nhiều luyến nhớ chen lẫn bao nhiêu hận thù.

Những khuôn mặt trai trẻ của một thời, của tôi và những Tòng, nếu vẽ chân dung họ rất giống nhau. Chỉ có hai loại khuôn và màu mặt. Khuôn, rõ là Việt Nam. Màu, Đỏ hoặc Vàng. Vàng thì hỗn tạp nhiều loại vàng, của vàng ròng, lá úa, màu da bò ngựa, da người ung thư gan, nói chung rất đa dạng. Đỏ, chỉ rặt đỏ một màu. Màu của máu đang chảy.

4

Tôi vừa ngủ vừa mở cây dù che mình cho Ân. Những hạt mưa ly ty bay lướt thướt. Tôi nghe mình nặng nặng, giá khóc được tôi sẽ khóc to lên, giá hôn được tôi sẽ hôn một người, sẽ siết vào lòng. Ân bên tôi tìm sự che chở. Hoạt cảnh ấy luôn cháy trong nắng mùa, rất ủ dột trong hiu hắt những chiều, và luôn chảy thành nước lúc hai chúng tôi là một.

Bây giờ mùa hè ấy chết queo trong quá khứ, quán chiều bỏ quên, những đôi trai trẻ xưa đã là những thân phận thừa mứa cặn bã đời. Những cây gậy man trá đưa cao, những dao mài nhọn, những bài ca làm nhãn hiệu. Lòng người được trồng tỉa hạt giống căm thù, nuôi bằng phản bội, được cung cấp cho nhau những kết quả không là kết quả từ sự thật.

**

Lòng không bạc, nhưng đầu tôi đã bạc rồi. Tôi ngồi yên, trong đời ồn và rộng, như một người tù đói chờ lần cho cơm qua cái lỗ nhỏ. Trong này lạnh và tối. Đá bốn vách tường giam luôn ẩm ướt những mồ hôi và mùi đau kẻ trước. Đá luôn thở dài, vì phải chôn mồ những chí lớn trong lòng đá nhiều năm của những con người danh tiết.

Bao nhiêu năm tôi đi giữa đời rỗng và ồn. Tôi được mãn tù, bước ra từ một cánh cửa sắt sét rĩ. Tôi không thể chạy được vì từ bao nhiêu năm đôi chân đã rất yếu, gần như bại liệt trong giam cầm. Tôi chỉ còn Tiếng Nói. Mà chừng, “Chẳng còn ai nghe ai nói.”

**

Người đàn bà, phải là Ân không, vẫn ngồi đó. Bầy rắn đen trên tóc nàng đã nhuốm bạc. Một bầy rắn thời gian mệt mỏi, xuống màu. Trong căn phòng nhỏ, nơi vách tường vẫn treo tấm hình người sĩ quan đặt trên nóc áo quan xưa kia, hai đứa bé ngồi chơi với một vài món đồ chơi. Một đứa gọi: “Bà nội ơi anh Bi giựt đồ chơi của con.”

Buổi nhỏ mẹ tôi thường nói: “Con là thằng bé ưa khóc sau mỗi giấc ngủ trưa.” Những xao xác tiếng gà trưa, thức giấc nghe trong lòng bùi ngùi, thương nhớ không đâu, không hiểu buồn cái gì, biết gọi tên ai, tôi co ro một mình. Yếu đuối một mình. Đứa bé làm gì khác hơn khóc?

Đã bao năm trôi qua, kể từ hôm Nàng ra biển, mỗi đêm tôi mỗi giấc ngủ. Giấc mơ ấy cứ hiện ra hoài. Quên đi rồi lại gặp. Vẫn một giấc mơ cũ. Ba mươi tám năm mất Nàng. Buồn làm sao, khi tôi không thể chỉnh sửa được giấc mơ như mình từng phúc thảo một bản viết ban đầu.

Cung Tích Biền