Đọc: Phần (1)
Lão Tống bắt bầy chim Cốc làm việc quần quật cả đêm, lão chỉ
cho chúng nghỉ khi thật cần thiết. Lão cần thật nhiều cá đem ra chợ trao đổi lấy
gạo và đồ dùng về cho gia đình. Từ ngày có bầy chim làm việc thay cho cho lão,
gia đình khấm khá hơn xưa, có của ăn của để.
Sương đêm nặng rơi trên áo tơi làm lão thoáng rùng mình, lão liên tục dậm chân, nhảy nhót trên chiếc bè tre để giữ ấm thân mình. Thỉnh thoảng lão lấy bầu rượu gạo đeo bên hông ra tu một hơi, ngửa cổ khè một tiếng sảng khoái; chỉ tội bầy chim Cốc, muốn được ăn, thi nhau lặn ngụp không nghỉ, đem cá to đổi lấy cá nhỏ chủ ban cho.
Khi bầy chim mệt, lão ngừng dậm chân, đưa
cây sào tre ra để từng con bám vào và đưa chúng lên bè nghỉ ngơi. Lão cắm sào,
lấy ống tẩu ra nhồi thuốc hút trong khi bầy chim được dịp đứng rỉa lông và thưởng
thức mấy con cá nhỏ, vừa ăn vừa cãi nhau náo động một khúc sông. Chúng được dạy
cho thuần thục đến độ mất đi bản năng thiên nhiên của loài chim, khi nghe khẩu
lệnh là chúng lao xuống dòng nước. Khi chủ đưa cây sào là chúng trở về. Thói
quen đã thành nếp, chúng cảm thấy hạnh phúc, no đủ, và cam chịu, không cần phải
đấu tranh để sinh tồn vì mọi việc đã có lão Tống lo toan.
Ông Lão vuốt ve con chim Cốc đầu đàn mà
ông đặt tên là Nhất vì nó là con chim tốt nhất, khỏe nhất, bắt cá hay nhất, và
vâng lời nhất, nó là thủ lĩnh của bầy chim. Vừa vuốt ve, lão Tống vừa nói chuyện
với nó như người cha nói chuyện với đứa con nhỏ của mình. Từ cổ họng chú chim Cốc
phát ra những tiếng rù rù, mắt nó nhắm lại khi được chủ mơn trớn thương
yêu.
***
Nước Đại Ngu nay đổi tên là Đại Cồ Việt. Khi đó vận nước còn
đang rối rắm, chính phủ dân bầu vừa được đám quân phiệt xứ Thái Dương trao quyền
độc lập, vẫn đang trong thời kỳ chuyển giao quyền hành. Cơ hội ngàn năm một thuở,
gã và đàn em trà trộn vào đoàn người đi dự lễ tuyên bố độc lập, chúng nhảy lên
khán đài, dùng vũ khí cướp lấy chính quyền và kích động dân chúng giật lấy biểu
ngữ “Vietnam to the Vietnamese”. Dân chúng hỏi cái băng rôn có hàng chữ “Việt
Nam to thế Việt Nam mề sề” có nghĩa là gì, đám đàn em gã ngơ ngác lắc đầu không
biết.
Ngày xưa, cha gã bị giáng chức quan vì lỡ
tay đánh chết người khi đang say xỉn, nay gã trở thành anh hùng dân tộc, một bước
nhảy lên làm lãnh tụ nước, oia phong một cõi, một chức vụ còn quyền uy hơn
hoàng đế Đại Cồ Việt vừa thoái vị. Gã thầm cám ơn Mao sư huynh đã mật báo cho
hay tin cực kỳ quan trọng này. Gã vồ lấy thanh Trấn Quốc Kiếm của cựu hoàng đế,
chỉ thẳng lên trời, vuốt vài sợi râu loe ngoe, mắt lim dim ra chiều đắc ý, rồi
cười rống lên không dứt giữa tiếng tung hô vạn tuế của đám đàn em.
Sau bao năm gian khổ, sống chui rúc trong
hang hốc, ngày ngủ, đêm lẻn về các làng mạc tuyên truyền chiêu bài đánh Tây, diệt
Phát Xít, giành độc lập. Đại huynh từ phương Bắc hối thúc lão phải dùng chiêu
“bạo lực kách mệnh” cướp chính quyền càng sớm càng tốt, vì phong trào các nước
đế quốc trao trả độc lập cho các nước thuộc địa đang lan rộng. Gã cũng thấy nếu
dùng bạo lực để dựng đại nghiệp chính trị thì bất kể động cơ thế nào cũng là bất
nhân, nhưng cơ hội chỉ đến một lần.
Theo sách lược trong bí kíp, gã gài đàn
em thân tín trong tất cả tầng lớp dân chúng, kích động dân nghèo cướp của người
giàu, phong trào cũng tạo được một vài tiếng vang, nhiều người nghèo chẳng còn
gì để mất, họ theo gã càng ngày càng đông. Gã cho đàn em theo rình rập và thủ
tiêu hết những người thuộc chính phái khác không cùng chủ trương như mình, gã
cho rằng một nước không thể nào có hai vua.
Gã gởi mật thư lên Mao Vương xin gởi người
từ Cơ Mật Viện qua mở lớp huấn luyện và nhồi sọ đàn em theo đúng sách lược của
hai nước đàn anh; đàn em gã ngày càng giỏi việc cướp bóc và chém giết. Một số
khác bất mãn, có ý định bỏ về thành đều bị đàn em gã thủ tiêu. Gã thành lập đảng
và tổ chức cắt máu ăn thề y như trong truyện tàu Anh Hùng Lương Sơn Bạc, bắt buộc
đảng viên phải tuyệt đối trung thành với gã và đảng, nếu không sẽ bị buộc tội
chém tru di tam tộc. Ai trung thành và theo gã, sẽ được bổng lộc và vinh thân
phì gia đến muôn đời.
Mùa Thu, năm 1945, thế giới bước vào vận
hội mới, Đại Thế Chiến thứ II vừa kết thúc, các cường quốc trên thế giới đang bị
khánh kiệt về kinh tế, tài nguyên, và thực phẩm. Đại Cồ Việt và hai nước hàng
xóm là xứ Nghìn-Voi và xứ Chùa-Tháp, còn gọi là Đông Dương Tam Quốc, cũng được
hứa trao trả độc lập từ đại mẫu quốc Phú Lãng Sa.
Gã bèn thân chinh vượt ngàn hải lý qua xứ
Cờ Hoa, nổi tiếng là đệ nhất siêu cường thời bấy giờ, xin được công nhận làm
vua nước Nam và xin viện trợ tiền bạc của cải, nhưng Tổng Thống Cờ Hoa lúc bấy
giờ nghi ngờ gã là đệ tử của Quốc Tế Đại Đồng phái nên không cho. Gã tức tốc
quay về diện kiến Mao sư huynh.
Bấy giờ, sư huynh của gã tuy đang chật vật
dấy binh tranh dành thế lực với một chính phái khác, thấy đây là cơ hội để bắt
thằng sư đệ nhiều mưu lắm mẹo này phải thần phục và đặt vòng Kim Cô lên đầu nó;
sư huynh gã liền cung cấp thêm vũ khí và phái người ngựa thồ súng đạn và cấp tốc
ngày đêm lên đường trực chỉ phương Nam.
Ngày đó, dân xứ Đại Cồ Việt đa số ít học
nên được gã và đàn em vẽ ra một bức tranh thiên đường cõi thế: người yếu thì
làm ít mà vẫn hưởng ngang với người mạnh khỏe, tự do muốn làm gì thì làm, muốn
đi đâu thì đi, hứa hẹn một thế giới đại đồng. Vì thế gã cho đàn em đẩy mạnh
phong trào cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ, cải tạo tư sản, hợp tác hóa tất
cả phương tiện sản xuất của dân làm của … mình. Gã và đàn em ngày càng giàu
trong khi nhân dân nằm mơ cũng không có được một bữa cơm có thịt.
Cả nước đều mê mẩn như đang lên đồng.
Nhân dân gọi gã là Bá Bá của dân tộc, dù gã mới hơn 50 tuổi; nhưng vẫn có những
kẻ xấu mồm, những thế lực phản động rỉ tai nhau gọi gã là “ đa th đại hán ”.
Ngay từ lúc còn trong hang, đàn em thường hay dâng lên vô số những cô gái xinh
đẹp trong vùng làm công tác hộ lý cho gã, để tâm sự, săn sóc và “nâng khăn sửa
khố” cho gã trong những đêm trường lạnh lẽo cô đơn.
Đàn em và gã say sưa men chiến thắng. Ông
thày giáo dạy sử, vừa được gã phong cho quân hàm đại tướng, dù chẳng qua một
trường võ bị nào, tên háo danh này muốn tổ chức duyệt quân chiến thắng vào ngày
30 tháng 8, 1945 tại Cao Bằng vì vừa cướp được chính quyền và để phô trương sức
mạnh quân giải phóng. Lính dưới trướng chừng 100 tên gầy ốm như que tăm, da
vàng bủng beo vì sốt rét rừng, vũ khí lèo tèo vài cây súng dài như gậy thọc đu
đủ, đồng phục thì cái dài cái ngắn, cái quá khổ, tác phong quân kỷ lại chưa được
huấn luyện chính quy ngày nào.
Đám mưu sĩ phương Bắc khuyên đừng nên làm ồn
ào vì như thế chỉ tổ quân Pháp nó để ý thì chết. Khổ một nỗi là “ngài đại tướng”
thấy cần phải tỏ ra mình xứng đáng là một danh tướng cho toàn dân biết tiếng và
cũng cho địch sợ chơi, nên cứ phớt lờ lời khuyên mà nói “Bá Bá tao đã duyệt rồi”,
hắn cứ cho đoàn quân ốm đói tập bước cho đều để đại tướng ra duyệt hàng quân
danh dự.
Quân Pháp tuy đang yếu sức, cạn tiền, khi
hay tin, họ gởi hai máy bay đến… tham gia duyệt quân cho vui, kết quả là phe ta
chạy như vịt, bị thương vong hơn nửa; nhân dân tò mò ra coi, cũng bị một phen
chạy vắt giò lên cổ. Sau này trong cuốn nhật ký của đám mưu sĩ phía Bắc có ghi:
“Trưa hôm đó, tiếng bom nổ rung chuyển mặt đất dù chúng tôi ở xa cách chỗ duyệt
quân 20 Km.”
Rồi thế sự lại xoay vần. Đại mẫu quốc được
sự trợ giúp của nước Cờ Hoa giàu có, họ trở lại lần này còn mạnh mẽ hơn, lấy cớ
giúp đỡ Đại Cồ Việt trở thành một nước độc lập trong liên hiệp Pháp và tránh xa
cái vòi bạch tuột của tên đàn anh phương Bắc. Gã và đồng bọn lại phải chạy lên
rừng lần nữa để lánh nạn. Dù tan tác như bầy ong vỡ tổ, gã và đám đàn em gặp lại
nhau ở ngay chính cái hang động ngày xưa khi mới về nước. Thày trò an ủi nhau
và nằm chờ Mao sư huynh gởi lương thực và đạn dược, mưu đồ một kế sách mới.
***
Lão Tống nhớ lại những ngày đầu tiên khổ cực nâng niu, chăm
chút từng miếng ăn và huấn luyện cho chim quen và hiểu tiếng người. Một ngày nọ,
lão đang chèo thuyền trên một khúc sông vắng vẻ, chợt nghe tiếng chim kêu khóc
đau thương trong một bụi rậm ven bờ. Lão tắp thuyền vào và thấy hai chú chim
con đang run rẩy, kêu gào lả đi vì đói. Nhìn quanh không thấy bóng dáng chim mẹ
ở đâu, lão đoán chắc chim mẹ đi kiếm mồi đã bị mắc bẫy; hai chú chim con đói,
khóc gào đến gần kiệt sức chờ chim mẹ đi mãi không trở về.
Sẵn còn ít cháo sót lại trong nồi, lão
bón cho chúng ăn từng chút cho đến khi chúng nằm im không kêu khóc nữa. Thằng
con trai độc nhất của lão nhìn hai con chim với cặp mắt háo hức vui mừng. Nó
luôn miệng năn nỉ lão đem lên thuyền nuôi. Lão bèn bọc chúng lại trong miếng vải
và đem chúng lên thuyền đặt vào trong một cái rổ tre. Thằng con trai thích quá,
ngày đêm quấn quit bên hai con chim.
Từ đó, ngày nào cha con lão đều lo lắng
chăm sóc hai con chim, hết bắt sâu bọ và nấu cháo cho chúng ăn. Lão còn dạy cho
chúng hiểu và làm theo tiếng người. Ngày nào, sau khi giăng câu về, ông lão lại
cho chúng ăn những con cá nhỏ, rồi thì thầm với chúng như bạn bè. Mỗi lần lên bờ
đi ra chợ, lão và đứa con đều đem chúng theo trên vai, mọi người ở chợ đều
thích thú nhìn hai con chim dạn dĩ, ai cũng có thể sờ chúng. Hai con chim quen
thuộc với ông nên không bao giờ bay đi đâu, nếu có đi thì hôm sau cũng trở về
vì không nơi nào chúng có thể tìm được sự vỗ về yêu thương.
Trong lúc đi câu đêm, chúng luôn luôn
theo gia đình ông. Một đêm nọ, lão thấy chúng lao xuống dòng sông, rượt đuổi
theo những con cá và khi trồi lên, trong mỏ của chúng là những con cá thật to.
Chúng có đôi chân rẽ quạt và có màng nên chúng lặn rất nhanh, dùng mỏ bắt cá,
nhờ có cái mỏ khoằm nên không bao giờ con cá nào có thể thoát ra được. Một ý tưởng
lóe lên trong đầu lão.
Lúc này, lão neo thuyền tại một hang động
và bắt đầu huấn luyện cho hai con chim Cốc biết nghe hiệu lệnh, bắt chúng đi
săn cá cho lão, chỉ thưởng chúng ăn mấy con cá nhỏ xíu khi chúng tuân theo luật
lệ của lão đặt ra, còn làm biếng thì lão bỏ đói bằng cách trói chân chúng lại.
Lão đi lùng kiếm thêm các tổ chim Cốc khác và bắt về thêm được nhiều cái trứng
khác mà lão biết đã gần đến ngày nở. Lão đem mấy cái trứng về cho gà mái ở nhà
tiếp tục ấp chung với trứng gà khác.
Mỗi ngày, lão đều thăm chừng và khi biết
chắc chỉ còn 1, 2 ngày nữa sẽ đến ngày nở, lão nhẹ nhàng lấy trứng ra đem đi ủ
vào một chiếc khăn ấm hơ trên lửa. Nếu để cho gà ấp và nở ra, gà mẹ, thấy lạ,
có thể sẽ mổ chúng đến chết. Mấy chú chim Cốc chào đời, lão nâng niu, chăm bẵm
hết sức ân cần. Thằng con trai đi bắt sâu bọ, cào cào châu chấu cho chúng ăn, tạo
cho chúng một cảm giác thân quen với gia đình, cho chúng biết chỉ có ở với lão
và gia đình mới an toàn, lao động là vinh quang, còn lang thang là chết đói.
Lão bện một cái bè bằng tre và đem 6 con
chim Cốc theo tập cho chúng săn cá. Sau hai năm, các chú chim đực theo học việc
sẽ trở thành những tay săn cá chuyên nghiệp. Vợ lão ở trên thuyền nhà, chỉ lo
cơm nước và chăm nuôi vài con chim Cốc mái. Nếu chú nào siêng năng, đạt danh hiệu
anh hùng lao động, lão sẽ thưởng cho nhiều cá hơn và đặc biệt là sẽ cho chúng
đi lấy vợ, nghĩa là hưởng chút ái ân với mấy con chim cái ở nhà. Đây là đặc ân
của lão ban cho mới được.
Khi nào mấy cô chim Cốc sắp khai hoa nở
nhụy, lão cho mấy chú chim nghỉ ở nhà, giúp vợ xây tổ uyên ương, khỏi phải đi
làm. Đến khi chim con nở, sau hai tháng, chúng sẽ được tuần tự huấn luyện để trở
thành tay săn cá chuyên nghiệp. Cuộc đời chúng cứ như thế mà tiếp nối đời cha đến
mãn đời cháu chắt. Cuộc sống, thói quen của chúng không còn theo bản năng thiên
nhiên trời cho mà hoàn toàn lệ thuộc vào lão. Lão cho ăn, cho nghỉ, và cho yêu
thì mới được yêu.
Lão bây giờ làm vua một bầy chim Cốc, lão sống
sung túc nhờ sức lao động của chúng. Đứa con trai độc nhất của lão giờ cũng có
gia đình riêng, cũng có một bầy chim Cốc lão chia cho để làm kế sinh nhai. Theo
gương cha, nó cũng sắm chiếc bè cùng với bầy chim đi săn cá trên một khúc sông ở
hạ nguồn. Chỉ cần một tiếng huýt sáo, bầy chim lao xuống dòng sông ào ạt vì
chúng biết chúng sắp được ăn. Trong buổi họp mỗi 5 năm của gia đình, hai cha
con thống nhất đặt tên cho kiểu làm ăn này là làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu.
***
Năm 1949, Mao sư huynh xưng vương ở xứ Hoa Hạ, lên ngôi
thiên tử, gồm thâu thiên hạ về một mối, đổi tên nước là Đại Trung. Một cuộc đổi
đời long trời lở đất, gần 1 tỷ người rên xiết nhưng tiếng kêu oan không thấu được
trời xanh. Mười vạn bá tánh, lớp bị đày lên vùng lam sơn chướng khí, lớp bị tra
khảo, bị bỏ tù, lớp còn lại bị đấu tố đến chết. Dân tình đói quá chết đầy đường,
có người phải ăn thịt cả con mình. Hắc khí giăng mờ khắp non sông, đau thương
ngất trời.
Gã và đàn em vội vã lên đường qua bên đó
học tập cách thức để trở về nước thực hành. Mao Vương phái khâm sai đại thần
theo về, đem súng ống, lương thực qua cho và tận tay giao cho gã tấm kim bài đặc
lệnh, tiền trảm hậu tấu, nghĩa là tuyệt đối tuân theo mà thi hành, ai không
nghe cứ chém, tấu trình sau.
Gã nhớ như in, sau buổi thiết triều, Mao
sư huynh cho mời gã đến hồ bơi ở biệt điện Trung Nam Hải để mật đàm. Ở đó, gã
chứng kiến một bầy mỹ nữ bao quanh sư huynh, cô thì đấm lưng, cô rót rượu, cô
đưa mồi đến tận miệng hoàng đế. Nghe nói sư huynh của gã có khoảng vài ngàn phi
tần là ít, thay nhau vào cung để hầu hạ long nhan. Tất cả đội ngự lâm quân được
lệnh ra ngoài đứng gác. Giấc mơ Lưu-Nguyễn mà thày gã dạy ngày nào, bây giờ hiển
hiện ngay trước mắt. Gã chợt để hồn lâng lâng trôi theo cơn mộng vàng cho đến
khi Mao sư huynh đưa ly lên cụng nghe côm cốp, gã mới giật mình trở về thực tại.
Hoàng đế thân mật vỗ vai gã rồi kề tai
nói nhỏ, chỉ thấy gã gật đầu lia lịa, thỉnh thoảng quay qua chỗ khác kín đáo
hít thật sâu một hơi. Gã chịu không nổi cái hơi thở hôi hám của sư huynh mình.
Gã nghe đồn hoàng đế cả đời không bao giờ đánh răng, ăn xong, chỉ xúc miệng bằng
nước trà, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà, người hầu phải chạy lại lau dọn ngay lập
tức.
Vậy mới hay, bây giờ là vua, giàu nứt đố
đổ vách, hoàng đế Đại Trung tuy có giàu mà vẫn không sang, vẫn không có cốt
cách của hàng vương giả. Cái sang phải nằm trong cốt cách, lối ứng xử, trí tuệ,
dáng đi, và ngôn ngữ hằng ngày mà điều này phải được tôi luyện và lớn dần từ
bao đời trước mới có. Gã lại tự nhủ, về nước ta phải mướn thày về dạy ta cách sống
của bậc đế vương mấy hồi.
Năm 1954, sau 9 năm gian khổ chiến tranh,
dân tình điêu linh một cách không cần thiết để chống thực dân, Xứ Cờ Hoa ngưng
không ủng hộ Pháp. Mưu sĩ phương Bắc dạy cho ngài đại tướng chiến thuật biển
người, còn gọi là thuật “nhất tướng công thành vạn cốt khô”, thế nào cũng thắng.
Khi được phỏng vấn làm thế nào đại tướng có thể thắng một đội quân thiện chiến ở
Châu Âu với vũ khí tân tiến hơn nhiều. Ông đại tướng trả lời không do dự:
– Người Pháp không thể nào thắng chúng
tôi vì cứ 10 mạng chúng tôi đổi lấy 1 mạng của họ, chúng tôi vẫn cứ đánh cho đến
người cuối cùng, mà người thì chúng tôi không thiếu.
Tàn cuộc chiến, hơn 1 vạn quân Pháp phải đầu
hàng quân của ông đại tướng. Với khuôn mặt chưa hết kinh hoàng, họ nói không biết
ở đâu mà lính địch cứ xông lên “đông như quân Nguyên”, hết lớp này ngã xuống,
lớp khác lại tiến lên, quân Pháp không còn đủ đạn để bắn. Kiểm điểm lại, trong
hơn 5 vạn quân của ông đại tướng, có hơn 2 vạn chết tại mặt trận, 1 vạn rưỡi bị
thương, nhưng nhìn về “đại cục”, phe ta vẫn cứ toàn thắng. Pháp phải rút quân về
nước. Thật đáng đời bọn Xích Quỷ, ở nhà không muốn cứ đòi đem ánh sáng văn minh
đi soi rọi cho dân ta.
Sau lễ tuyên ngôn độc lập lần thứ hai, gã
và đàn em lại sắm lễ vật lên đường triều cống Mao Vương. Lần này, sư huynh gã
ra lênh cho Tể Tướng soạn thảo văn kiện và yêu cầu gã ký tên vào công nhận Đại
Cồ Việt là thuộc phiên của nước Đại Trung, nêu cao tình hữu nghị anh em, sông
liền sông, núi liền núi. Mọi việc lớn nhỏ đều phải “tư vấn” với thiên triều trước
khi muốn hành động.
Đại yến linh đình được Mao Vương đích
thân chiêu đãi, rượu ngon gái đẹp không thiếu thứ gì; lại còn được quan Tể Tướng
thiên triều gả cho cô em họ để tình gia đình thêm thắm thiết. Gã sung sướng đến
phát rồ. Đích thân Mao vương trao tặng gã một tấm liễn bằng gỗ nạm chữ 16 vàng
chói lọi, đem về làm “thập lục tự phương châm” dùng để xác định tư tưởng, chỉ đạo
phát triển quan hệ hai nước; Mao Vương thân mật vỗ vai dặn dò gã phải đời đời
ghi tạc trong dạ: sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương
đồng, vận mệnh tương quan.
Khi về đến Bắc Bộ Phủ, gã và đồng đảng
đem áp dụng chính sách của thiên triều không sai một dấu chấm phẩy, đồng thời
cũng nuôi mộng thâu tóm giang sơn ba miền về một mối. Một nước không thể có hai
vua. Đi đâu gã cũng bịt tai, che mặt, che cả râu không cho dân thấy, để yên
lòng mà hưởng vinh quang, phú quý. Đám đàn em muốn làm vui lòng xếp, bắt dân
chúng phải giăng rất nhiều biểu ngữ ca tụng công đức khắp nơi “Đại Cồ Việt chủ
tịch sống mãi trong lòng chúng ta”.
Rủi thay, mùa Xuân năm con Khỉ, gã bị thiệt
hại nặng do tính nước cờ sai, gây cơn binh đao khói lửa, lính của gã thây phơi
đầy đồng, xác nổi đầy sông; gã lên cơn đau tim và hồn du địa phủ. Đám đàn em
thân tín bèn mượn danh của gã, ra lệnh cho xây một cái thạch lăng khổng lồ để
xác ướp của gã bên trong, bắt dân chúng đến nhang đèn cúng bái. Vô hình chung
điều này khiến gã bị lọt sổ luân hồi.
Khi Diêm Vương mở sổ xuất-nhập kho, gọi
gã xuống trình diện và hỏi:
– Nghe nói mi là vua nước Đại Cồ Việt,
thuở sinh tiền, mi tự hào là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý. Giải thích
cho ta chuyện này. Ta muốn cho mi đi đầu thai, nhưng khi ta bấm nút “Duyệt” thì
cái máy nó cứ đứng im một chỗ, không chịu chạy? Mi có biết tại sao không?
– Thưa ngài, làm sao tại hạ biết rõ
nguyên do. Khi thở hơi cuối cùng, tại hạ nghe loáng thoáng bọn đàn em muốn ướp
xác bỏ trong lăng để tại hạ sẽ được sống mãi trong lòng nhân dân.
– Đúng là tụi bay muốn làm khó dễ công việc
của ta đây mà. Vậy ta truyền cho mi phải hiện hồn về nói tụi đàn em phá hủy
lăng tẩm đền đài, xây một cái nhà thương, và đem chôn cái thân xác bụi đất của
mi. Xong việc trở về đây, ta sẽ cứu xét cho đi đầu thai đặng mà siêu thoát cho
sớm. Còn không, mi cứ ở lại đây học việc với bọn đàn em Ngưu Đầu, Mã Diện của
ta. Ta ban cho mi một đặc ân mà mi hằng ao ước khi còn trên dương thế là được
đi đoàn tụ với sư tổ và sư phụ mi; tất cả bọn họ và các sư huynh đệ của mi đang
ở trong cái “Hỏa Phòng” để chung hưởng đời đời kiếp kiếp.
– Thưa ngài, tại hạ đã về báo mộng, mà
chúng nó vẫn không nghe.
– Không nghe thì mi không có cửa mà đi đầu
thai, vô phương vãng sanh nơi miền cực… nhọc.
Nói xong, Diêm Vương buông tiếng thở dài
não nuột, quay qua bọn đàn em than thở:
– Âu đó cũng là bi kịch thân phận lãnh tụ
được bọn đàn em cho đi tàu bay giấy, đề cao là vĩ nhân, danh nhân văn hóa thế
giới vậy!
Từ đó, tiếng khóc than ngất trời, oán khí
bốc lên che phủ cả bầu trời nước Việt. Mặt trời ít xuất hiện, mây mờ giăng mắc
khắp non sông, vạn vật u buồn triền miên. Người người bỏ nước ra đi, chết chóc
đau thương, gia đình ly tán. Người ở lại sống mòn trên mảnh đất bị nguyền rủa với
cả mấy thế hệ tương lai sẽ còn chìm đắm trong hàng trăm năm tăm tối.
Nguyễn Văn Tới