Bữa 29/9 vừa
qua, một thầy giáo dạy Anh văn tại trường Phan Huy Chú, Thạch Thất, đã bóp cằm,
chỉ tay vào một học sinh trong lớp 10A9 và mắng: “Mày có hiểu không, con chó
này?”. Sự việc đã được học sinh trong lớp quay video. Năm ngày sau
thầy đã xin lỗi học sinh và học sinh cũng đã xin lỗi thầy vì có lời nói và cử
chỉ thiếu tôn trọng. Sau đó, ông thầy đã xin thôi việc.
Đây là hai
hoạt cảnh mà tôi, một người đã từng dậy học, không nghĩ là có thể xảy ra trong
môi trường giáo dục. “Mày-tao” là hai nhân xưng đại danh từ chỉ sự khinh miệt,
bất lịch sự, thô tục mà những người có ăn có học không dùng tới. Nhưng
“mày-tao” cũng là những đại danh từ chỉ sự thân mật khi được dùng trong gia
đình, hoặc giữa những người thân thiết.
Tôi có một
bạn học từ hồi tiểu học, thời mà lũ học sinh nhỏ nhít chúng tôi không xưng hô với
nhau bằng “mày-tao” thì gọi nhau bằng chi. Thường thì những bạn học thời nhỏ
nhít đó đã phân tán, khi khôn lớn không còn gặp nhau nữa, mỗi người một phương.
Khổ cho tôi là anh bạn thời tiểu học cho tới nay vẫn nhìn thấy mặt nhau hoài.
Chúng tôi cùng ở chung một thành phố, cùng ăn uống nhậu nhẹt với nhau. Bạn mới
thì nhiều, bạn thời còn mũi giãi lòng thòng đó chỉ có hai thằng. Đầu chúng tôi
nay vẫn một thứ tóc nhưng tóc đã đổi màu trắng xóa. Gặp nhau hai chúng tôi vẫn
cứ tỉnh rụi “mày-tao” như xưa. Hai ông già đầu bạc mày tao với nhau là một chướng
tai với những người chung quanh. Bạn bè và vợ con nhắc nhở hoài về sự kệch cỡm
này nhưng chúng tôi quen thói vẫn không bỏ được. Ngộ một điều là khi mày tao với
nhau chúng tôi cười nói phớ lớ hết sức, có khi còn có lợi cho sức khỏe.
Dân còn
mày-tao thiệt hết sức thú vị khi đọc được một nghiên cứu mang tên “Tao Mày” của
Giáo sư Phan Cẩm Thượng in trong cuốn “Nghệ Thuật Ngày Thường”, Tập 2. Theo
Giáo sư Thượng, từ thời xa xưa người Việt chỉ xưng hô với nhau bằng hai đại từ
nhân xưng “mày-tao”. Đây là lối xưng hô của người Việt cổ, ngày nay còn sót lại
trong ngôn ngữ của các dân tộc Thượng. Ông viết: “Nghe những người thiểu
số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao mày duy nhất vẫn được dùng phổ biến, điều
này cũng thấy cách đây ba bốn mươi năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ vào trong”. Tiếng
nói họ dùng phát âm là “mi” và “tau”. Cha mẹ nói với con cái, anh chị em nói với
nhau, đàn ông đàn bà cùng trang lứa…tất cả phổ biến là “mi” và “tau”. Giáo sư
Phan Cẩm Thượng cho “mi và tau” hay “mày và tao” là ngữ âm cổ của người Việt.
Ông nhận định: “Tôi nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó người Việt
cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản “tao và mày”, rồi vì một lý do
nào đó, thời nào đó, cách thức xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình hóa cho
tới hiện nay”.
Chuyện xưng
hô “mày-tao” cũng đã được ghi trong văn bản tại một hội nghị giải quyết những bất
đồng liên quan đến thuật ngữ Kitô giáo bằng tiếng Việt do Giám Sát Dòng Tên
vùng Trung Nhật triệu tập tại Macao năm 1645. Giáo sư Phan Cẩm Thượng
viết: “Hội nghị
đưa ra mô thức rửa tội bằng tiếng Việt có viết: “Tau rữa mâi nhân danh Cha ùa
Con, ùa spirito santo” (tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirit santo). Văn
bản này có trong cuốn Dinh trấn Thanh Chiêm Quảng Nam (Đinh trọng Tuyến
và Đinh Bá Truyền biên soạn). Ở đây, việc xưng hô giữa cha xứ và con chiên được
nói bằng hai ngôi “Tau” (tao) và “Mâi” (mi, mày). “Ngày nay, nếu một đức cha mà
xưng mày - tao với con chiên trong nhà thờ thì quả là không ổn, nhưng
điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai ngôi đơn giản là rất phổ biến ở Đàng
Trong, nhất là xứ Quảng Nam, nơi cha Francisco de Pina được coi là người đầu
tiên dùng chữ Latin phiên âm tiếng Việt”.
Từ khi nào
mày-tao không còn là lối xưng hô duy nhất của người Việt, nhà nghiên cứu Phan Cẩm
Thượng viết: “Người ta cho rằng, sau những cuộc chiến tranh ác liệt thời Trần
và thời Lê với quân Nguyên Mông và quân Minh, người Việt phải đi sơ tán trong
toàn quốc, người sơ tán và người địa phương phải coi nhau như người nhà, nên gọi
nhau là anh em, chú bác, đồng bào”. Ảnh hưởng của Nho giáo, lấy lễ
nghĩa cương thường là rường mối xã hội, có thể cũng là một nguyên nhân khiến
cách xưng hô của người Việt thay đổi. Từ mày-tao giản dị tới cách dùng những đại
danh từ nhân xưng trong quan hệ gia đình. Từ đó “ông-bà, cha-mẹ, anh chị, cô dì
chú bác” và nhiều đại danh từ nhân xưng khác được dùng một cách thường xuyên
trong xã hội.
Theo nhận xét của
nhà văn Võ Kỳ Điền thì người Việt, nhất là người miền Nam, có lối xưng hô
theo tình nghĩa gia đình vì chúng ta sống theo kiểu chòm xóm. Ra đường, chúng
ta như vẫn chưa ra khỏi nhà, chào hỏi xưng hô anh Ba, chị Hai, chú Tư, cô Năm,
bác Bảy với tất cả mọi người.
Việc “gia đình
hóa” cách xưng hô khiến nhiều người trong chúng ta tự hào là tiếng Việt phong
phú, không giống các nước khác chỉ trơ trọi mày-tao như Pháp je / tu,
Anh I / you. Phong phú thật nhưng đây là một đánh đố khá khó chịu
cho người ngoại quốc học tiếng Việt cũng như cho con em chúng ta ở hải ngoại.
Chuyện tưởng đã
xong, mày-tao đã mất chỗ đứng nhưng tại sao mãi tới năm 1924 học giả Phan Khôi
vẫn còn phải bận lòng với mày-tao? Trên Thực Nghiệp Dân Báo số 972, ngày
14/1/1924 ông viết bài : “Cách Xưng Hô Mày-Tao”. Ông cho cách xưng hô mày-tao
là tiếng của kẻ trên xưng với kẻ dưới hay là người lớn xưng với trẻ con. Còn đối
với những trường hợp khác, chúng ta có một cách xưng hô lễ phép tùy tuổi tác,
thứ bậc, địa vị. Nhưng xã hội thời ông không chuộng tôn ti trật tự như vậy. Ông
than phiền: “Thế mà trong khoảng gần đây có một bọn người dấy lên toan đang
tay mà dứt cái dây ấy, phá đổ cái nền ấy. Họ tính bỏ hết cách xưng hô nhã nhặn,
mặn mòi, đượm đà của ta mà lập riêng một cách khác. Họ xưng với nhau bằng mày -
tao… Nay thì bọn người đó đã mày tao với nhau như cơm bữa rồi, dầu ai nấy làm
trái tai mặc lòng chứ tự học thì cho thế là văn minh, lịch sự. Nào những thế
thôi, cả những tiếng An Nam như tiếng “cha tôi, mẹ tôi, anh tôi” họ cũng khinh
bỉ không thèm nói đến, dường như nói đến thì hổ thẹn, mà phải nói đổi sang tiếng
Pháp là “mon père, ma mère, mon frère” thì họ mới bằng lòng”. Lối xưng
hô mày-tao thời kỳ này là ảnh hưởng lối xưng hô của Pháp “je – tu /vous”
và Anh “I – You”.
Tấm lòng của học
giả Phan Khôi coi bộ không đi tới đâu. Người ta vẫn cứ mày-tao cho giống Tây. Bảy
năm sau ông Đinh Huy Hạo lại phải lên tiếng. Trên báo Trung Lập số 6393 ra ngày
17/3/1931, ông viết: “Hai tiếng xưng hô “mày - tao” là hai tiếng xấu xa
tục tằn nhất trong tiếng ta, mà chán ngán thay nó còn sống ở trong tiếng ta mãi
mãi, cái số người dùng những tiếng ấy càng ngày càng thấy nhiều thêm”. Theo
ông, hai tiếng “mày - tao” phân biệt được hẳn giai cấp, bởi vì “chủ nhà gọi đứa
ở là “mày” xưng là “tao”, đốc công nói với phu phen, thầy kí nói với thợ thuyền,
vô số người dùng hai tiếng “mày - tao”. Xưng mình là “tao” gọi người là “mày” tức
là khinh bỉ người ta, đặt người ta xuống một cái hàng đứng dưới chân mình vậy...
Nếu ta không biết ngăn ngừa đi sớm, chỉ e cái tục tằn nó bành trướng lên to. Vì
người ta thường lúc đầu chỉ nói đùa mấy tiếng tục có ý ngượng nghịu, nhưng lần
lần nay một câu, mai một câu, sau nói tục không còn vấp váp chút nào, có khi
quên hẳn tiếng nói ấy là tục. Hai tiếng “mày - tao” là tiếng tục tằn, xấu xa nhất
trong tiếng Việt Nam ta, người đã cắp quyển sách đi học không bao giờ nên dùng
đến, bất cứ đối với hạng người nào”.
Mày-tao có lẽ là
cách xưng hô duy nhất mà người Pháp tại Việt Nam học được. Họ nghênh ngang miệt
thị dân bản xứ. Điều này để lộ bộ mặt thực dân mà ngay cả nhà cầm quyền thuộc địa
Pháp cũng không muốn cho mọi người thấy. Họ cũng phải ra lệnh chấm dứt lối xưng
hô này. Báo Đông Phương số 581, ra ngày 14/11/1931 có đăng bài báo mang tên: “Một
tờ thông tư của quan Toàn Quyền về việc bỏ lệ xưng hô mày-tao”. Nguyên văn như
sau: “Hôm 10 Novembre (tháng 11) vừa rồi, quan Toàn quyền
Pasquier vừa gửi một tờ thông tư cho các ông chủ các sở đại để nói: “Có người
cho bản chức biết rằng: Những viên chức người Pháp hoặc lớn, hoặc nhỏ, thường
trong khi giao thiệp với các viên chức bản xứ lại hay dùng câu “mày - tao”. Vậy
bản chức yêu cầu ngài nên dặn những viên chức Pháp dưới quyền ngài bảo từ nay
phải bỏ cái lối cư xử ấy đi”.
Lối xưng hô
mày-tao bị truy quét rối rít, cả từ làng báo Việt tới chính quyền thực dân.
Nhưng mày-tao vẫn chưa biến mất hẳn trong cách xưng hô của người Việt. Loại
mày-tao như thầy xưng với trò hoặc ngược lại, trò với thầy như mới xảy ra tại
nhà trường trong nước là loại đáng bỏ vào sọt rác. Nhưng loại mày-tao bày tỏ tấm
lòng thân thương giữa những người bạn tấm mẳn có cần phải bỏ không? Nếu hỏi
tôi, tôi sẽ lắc đầu. Ngày nay, tuổi đã…hạc, tôi và anh bạn tiểu học ngày xưa vẫn
không bỏ được lối xưng hô mày-tao. Khi xưng hô với nhau như vậy, chúng tôi như
sống lại tình bạn chân thật ngày còn nhỏ nhít. Chẳng ai cảm thấy bị khinh miệt
hay nhục mạ. Chỉ có tình bạn thời lòng còn trong trắng, chẳng có chút tính toán
nào, mới làm cho mày-tao trở nên hết sức hồn nhiên.
Với thời gian,
con người lớn lên, mất dần cái ngu ngơ thời trẻ dại, mày-tao không còn là đại
danh từ nhân xưng thích hợp. Nói thế cũng không đúng hẳn. Chúng ta còn tình bạn
trong quân ngũ. Cùng sống với nhau như trong một gia đình, ăn uống chung đụng
hàng ngày, cưu mang nhau lúc hiểm nguy, những người lính chia đều nhau những
oan trái bất ngờ trước hòn tên mũi đạn, còn có tình bạn nào khắng khít cho bằng.
Vậy nên họ cũng mày-tao với nhau thân thương như thời trẻ dại.
Ngửi mày một
tí xem làm sao
Thân thể mày
bay mùi binh đao
Ngày trước mày
hiền như đất cục
Giờ mở miệng
ra là chửi tục
Hà hà ra thế
con nhà binh
Ngôn ngữ thơm
tho như mùi cứt
(Nguyễn
Bắc Sơn)
Thời chiến
mày-tao là ngôn ngữ của dân nhà binh, chẳng họ hàng hang hốc chi mà sống với
nhau như anh em một nhà, cùng chia nhau bom đạn, che chở nhau như tình nhân. Rồi
khi chinh chiến tàn lụi, mang thân kẻ thua trận, cùng nhau hứng sự thù hận
trong các trại tù, đám chiến bại lại chia nhau tủi nhục, lại nảy sinh ra tình
mày-tao. Mày-tao trong sinh hoạt hàng ngày vun những người tù cam chịu tủi nhục
thành một gia đình.
Bạn lính, người
ngoài vòng cương tỏa, người chôn chân trong chốn ngục tù, chuyện vui chuyện buồn
vẫn mày-tao nhắn nhủ:
Nguyên Sa
Mày-tao là sản phẩm dịu dàng của thời học trò, thời lính hoặc thời tù đày. Nguyễn Xuân Hoàng với tôi không học chung một năm nào, từ tiểu học tới Đại học; không bạn lính tráng chi vì cả Hoàng lẫn tôi đều không có mặt trong quân đội; không cùng tù đày sau cuộc chiến, vậy mà chúng tôi vẫn mày-tao với nhau. Kể cũng lạ. Chúng tôi chỉ gặp và chơi với nhau khi cùng cộng tác với báo Văn Học của Dương Kiền và Phan Kim Thịnh tại Sài Gòn. Báo quán ngày đó đặt tại đường Lê văn Duyệt. Nơi đây, những chiều thứ bảy, chúng tôi tụ họp nhau lại tán dóc. Những buổi gặp nhau như vậy không chỉ có Hoàng và tôi mà còn nhiều anh em viết lách khác, vậy mà với những anh em khác, chúng tôi chẳng bao giờ mày-tao. Chỉ có tôi và Hoàng. Sau 1975, chúng tôi không gặp nhau một thời gian dài, cho tới khi tôi qua Cali, tới gặp Hoàng khi đó đang làm cho tờ Người Việt. Thời gian đổi đời làm đảo lộn mọi thứ nhưng chuyện mày-tao của tôi và Hoàng không hề thay đổi. Nhìn thấy nhau nơi xứ lạ quê người sau bao nhiêu bầm dập, chúng tôi vẫn mày-tao tiếp. Có lần tôi hỏi Hoàng tại sao chúng tôi lại mày-tao như vậy, Hoàng cũng lắc đầu không biết. Cho tới khi Hoàng bỏ đi xa thiệt xa!
Song
Thao