“Loạng quạng, đánh rơi cái ví (portefeuille), trong đó có
thẻ kiểm tra (ID/ carte didentité), carte bleue (credit card), 250 Euros và một
số tiền Nhật mới đổi. Ra bót cảnh sát đầu đường. Nhân viên cảnh sát có vẻ mừng
rỡ vì có việc làm.
Thường thường, cảnh sát Nhật ngồi buồn tênh, đi ra đi vào, không có ai thưa gởi gì, không có ẩu đả, ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp, lừa đảo. Thỉnh thoảng vớ được một bà già té xỉu, chở tới bệnh viện. Hay đưa một ông cụ qua đường (đưa thực, không phải dìu ông già trước máy quay phim, quay phim xong đá đít ông già) hay chỉ lối cho một du khách tới một địa chỉ không có tên đường.
Một ông cảnh sát mở computer, coi danh sách những đồ vật
lượm được trong thành phố. Một bà gọi điện thoại tới phi trường. Người thứ ba đứng
coi, sẵn sàng phụ tá hai đồng nghiệp.
Họ hơi thất vọng vì không tìm thấy gì, khuyên nên trở lại
buổi chiều. Chiều, trở lại, họ đã tìm được cái ví. Có người lượm được dưới ghế
một xe bus, đưa cho tài xế. Giấy tờ, tiền bạc còn y nguyên. Xứ sở gì kỳ cục.”
Tôi vốn tính hiếu kỳ lại đang vô cùng rảnh rỗi nên nghe qua
câu chuyện (“kỳ cục”) như thế thì không khỏi “động lòng bốn
phương,” muốn thực hiện ngay một chuyến “Đông Du” cho
biết đó biết đây. Ngặt nỗi, lần đi lần khó mà đi Nhật thì e khó ở được lâu vì
giá sinh hoạt dường như không rẻ. Phòng trọ bình dân, nghe đâu, cũng cỡ $50/$70
U.S.A dollars một đêm, chứ không thể ít hơn.
Với túi tiền cạn cợt của tôi, có lẽ, chỉ ở được dăm hôm rồi
lại phải lũi thũi quay về. Mà về nhà với vợ thì ai mà không sợ. Bởi thế, thay
vì đến Nhật, tôi quyết định qua Lào. Ở xứ sở này thì thuê một cái bungalow
(free wifi, phòng tắm riêng, no A/C nhưng quạt máy chạy vù vù) chỉ phải trả $5
hay $7 đô là hết mức. Với một nghìn Mỹ Kim thì có thể ở chơi đến đôi ba tháng.
Tôi đã “chơi” kiểu đó đôi ba lần rồi nhưng
vẫn chưa thấy ngán. Lần này tôi quyết định ghé Nam Lào, xem hết rừng núi thác
ghềnh của Si Phan Don (4000 Islands) cho mãn nhãn.
Hóa ra Bốn Ngàn Đảo là cái tên hơi nặng tính thậm xưng.
Thiên hạ cứ gọi thế nghe cho nó đã miệng, chứ thực sự cả quần đảo này chỉ vài
nơi có đông đảo dân cư tụ tập (Don Det, Don Khone, Don Khong…) kỳ dư đều là những
gioi, giồng hay cồn cát nhỏ. Chả có ma nào trên đó cả vì chúng bé tí teo, và
vào mùa lũ thì hầu hết đều chìm trong sóng nước.
Bởi ham vui nên tôi tắp vào Don Det trước vì nghe tiếng đây
là nơi ưa chuộng của những cô cậu Tây Ba Lô thích sống đời nhộn nhịp. Tiếng thế
thôi chứ một đám du khách ngoại quốc, bất kể thành phần, không thể khiến cho
hòn đảo này mất đi vẻ hiền lành và an bình cố hữu.
Thì cũng hàng quán, rượu bia, âm nhạc nhưng tuyệt nhiên
không ồn ào hay náo động. Dòng sông Mê Kong hiền hoà và tính nết hiền lành,
chân chất của cư dân địa phương quả là có sức “lan toả” và “cảm
hóa” đến độ diệu kỳ. Chả vị khách lạ nào có đủ trơ tráo để quấy động
quan cảnh thiên nhiên thuần khiết, và nếp sống an bình ở nơi đây cả.
Có lẽ cũng không nơi đâu mà cảnh hoàng hôn trên sông êm đềm,
và diễm ảo như ở chốn này. Chiều qua rồi là cả hòn đảo nhỏ chìm đắm trong bóng
đêm tĩnh lặng, chỉ còn có tiếng nước sông âm thầm, nhỏ nhẹ, khe khẽ cuốn trôi.
Sáng, trong lúc cà phê thuốc lá, con gái của bà chủ trọ “gợi
ý” tôi nên đi xem cá dolphin. Đi thì đi, tôi gật đầu dù biết rõ rằng
loài cá heo sông này sắp tuyệt chủng đến nơi (vì những công tình thủy điện, và
nguồn nước ô nhiễm từ phía thượng nguồn) nên cơ may gặp được vài chú irrawaddy ở
Si Phan Don mong manh còn hơn khói nữa.
Tôi đồng ý chỉ vì điểm khởi hành nằm ở bến sông (có tên trên
bản đồ là French Port, một di tích từ thời thuộc địa) thuộc làng Ban Hang Khon.
Từ đây, có thể nhìn thấy nương khoai rẫy bắp và nghe được tiếng gà gáy (xao
xác) bên thôn ổ của nước láng giềng – Cambodia. Quê nhà, xem ra, cũng chả còn
bao xa. Tuy thế, nếu về lần dò về bằng thuyền đò (có lẽ) cũng phải mất đến vài
ba tháng – dù sông nước xuôi dòng.
Sau một lúc ngẩn ngơ, tôi nói với người tài xế xe tuk tuk là
mình chỉ muốn đi vòng vòng đảo chơi thôi. Khỏi cần ghé qua thác ghềnh gì ráo vì
tôi đã có dịp đến cả rồi. Chúng tôi băng qua một khu rừng tre thưa. Chú tài –
thỉnh thoảng – lại chạy chậm hẳn lại, cúi nhặt những nhánh tre rơi khá lớn và vất
vào bìa rừng.
Không cần lời giải thích, tôi cũng hiểu rằng những ngạnh tre
nhọn có thể làm lủng lốp xe của bất cứ ai vô ý. Chú em còn trẻ măng, nụ cười
thường trực trên khuôn mặt ngây ngô rám nắng. Thằng bé chưa chắc đã có cơ hội cắp
sách đến trường một ngày nào nhưng thái độ vị tha và tinh thần trách nhiệm khiến
tôi cảm động. Không dưng mà chợt nghĩ đến những “đạo quân đinh tặc” trên
khắp mọi nẻo đường ở đất nước mình, cùng với một tiếng thở dài – cố nén!
Sau Don Det, tôi
qua Don Khone. Hai hòn đảo con con được nối liền bằng một chiếc cầu bê tông nhỏ
hẹp không tên nên thiên hạ gọi (đại) là French Bridge. Hoang dại và tĩnh lặng
hơn cô em song sinh nằm kề, Done Khone chỉ có nhà cửa với dăm ba hàng quán (lưa
thưa) nằm dưới những hàng dừa dọc theo dòng sông êm ả và kiều diễm.
Tôi đặt phòng trước
qua internet nên khi đến nơi mới biết là nhà trọ nằm ở bên này đường, không tiếp
giáp với mé sông, và cũng chả có một người khách nào khác cả. Chủ nhân cũng ở
cách đó hơi xa. Càng vắng thì càng tốt.
Cho đến khi thức
giấc giữa đêm khuya, tôi mới chợt nhận ra là mình đang trơ trọi một mình – giữa
một dẫy bungalow trống lốc – trên một hòn đảo lạ (rồi) tự nhiên cảm thấy hơi bị
bất an. Đợi mặt trời vừa ló dạng là tôi lặng lẽ quẩy ba lô đi chỗ khác liền,
sau khi để lại một số tiền tip khá hậu hĩnh – như một lời tạ lỗi cho thái độ (“sao
ra đi mà không bảo gì nhau”) không mấy lịch thiệp của mình.
Guest house tiếp
theo cũng vắng nhưng ít nhất cũng có thêm một hai người khách, an toàn hơn thấy
rõ. Tôi chỉ vừa xong ly cà phê và điếu thuốc đầu ngày thì chủ nhân của nhà trọ
cũ xuất hiện với nụ cười hiền, và nét mặt tươi vui hớn hở chứ chả có vẻ chi là
phật lòng hay phật ý cả. Bà lấy trong túi ra 50,000 kips (được bọc trong gói ny
long cẩn thận, chắc là tờ giấy bạc tôi để lại hồi sáng sớm cho người dọn phòng)
và nói rằng vì tôi bỏ quên tiền nên vội mang trả lại.
Tôi cười khổ và cảm
thấy xấu hổ vì cái cảm giác bất an của mình đêm trước. Trộm cắp, cướp bóc,
và “bất an” đều do tôi tưởng tượng mà ra chứ không hề có trong
tâm thức của người dân ở chốn này.
Thảo nào mà cả tuần
qua tôi chả thấy bóng dáng cảnh sát, công an, trật tự hay dân phòng nào ráo trọi.
Cờ quạt, biểu ngữ, bích chương, loa phường, và hình ảnh lãnh tụ cũng khỏi có
luôn. Ở đây, lỡ mà bị mất ví thì không thật không biết phải trình báo với ai,
và chắc cũng khỏi cần vì thế nào người nhặt được mang đến tận nơi trả lại.
Thật là chả bù
cho cái phần quê hương (“đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”) của mình – nơi
mà nhà báo Từ Thức vừa có những lời khuyên dành cho du khách, như sau:
– Nếu ăn tiệm,
thấy ngon, đừng khen. Người ta sẽ tăng giá gấp hai.
– Đi đường, chỉ
nên đeo nhẫn hay đồ trang sức giả. Có thể bị mất ngón tay, nhưng không mất nhẫn…
thật.
– Khi có người
hỏi: có biết bác Hồ không, đừng kể lể những điều bạn biết về ông Hồ qua
Wikipedia. Khổ lắm, biết rồi, nói mãi. Người ta chỉ nhắc khéo bạn đã quên chi
tiền.
Sao cùng là nạn
nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản mà người Lào và người Việt lại khác nhau đến thế, hả
Giời?
Tưởng Năng Tiến