Phần 1:
Hè năm ấy
tôi dấn thân vào một việc mà kể từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng làm. Dĩ nhiên là
không có tý kinh nghiệm nào và vô cùng mạo hiểm. Nhưng người xưa có câu “đói
thì đầu gối cũng phải bò”. Thôi kệ phải liều, biết đâu “không thành công, cũng
thành nhân”. Sống là trải nghiệm mà.
Tôi xuất thân nghề giáo, vào những năm của thập kỷ 80; 90, Trong thời kỳ bao cấp, lương khởi điểm theo 3 mức cho 3 cấp học như sau: 50 đ 55 đ, và 60 Việt Nam đồng. Giai đoạn khó khăn chung của đất nước, đồng lương không đủ sống. Ra trường một vài năm, đến lúc cũng phải lập gia đình và sinh con. Món nợ cơm áo lúc này càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Cuộc sống bây giờ không chỉ có mây bay gió lượn mà có bộn bề trăm thứ bủa vây. Làm thế nào để trang trải cuộc sống và lo được cho con cái? Đó là câu hỏi đặt ra cho bất kỳ ai, không cứ kể là dân sư phạm mà kể cả nhiều ngành nghề sự nghiệp hành chính khác. Những người đồng nghiệp xung quanh chúng tôi, mỗi người có một lựa chọn khác nhau. Ai nhảy việc thì nhảy. Ai yêu trường mến lớp thì trụ lại trên bục giảng nhưng về nhà phải kiếm việc làm thêm. Hồi đó tuyệt đối không dạy thêm, nếu có dạy thì dạy miễn phí. Thế là có nhiều cô giáo thì về làng làm thêm ruộng vườn, chăn nuôi. Có người thì đi bỏ bia, bỏ kẹo mối. Có người đi bán xôi sáng dậy từ lúc 3 giờ sáng nấu xôi đem đi bán. Đến 7 h xong hay không xong cũng vội về để đi dạy.
Năm ấy nghỉ
hè, (thời đó nghỉ hè 3 tháng) cùng với chị bạn hàng xóm đang thất nghiệp, hai đứa
rủ nhau đi buôn. Hành trình đi là vào chợ Cồn (Đà nẵng) nhập các loại thủy hải
sản khô như cá khô, tôm khô,…và đường bánh (đường nấu từ mía và đúc thành từng
bánh như cái chén ăn cơm) đem ra bán ở chợ huyện của một thị trấn, địa điểm này
cách Huế hơn 250 km về phía bắc. Ý định vừa đi vừa thăm dò thị trường xem chợ
huyện đó những mặt hàng nào cần thiết sẽ nhập sau.
Hai chị em
đi chợ Cồn đóng hàng rồi thuê xe chở ra ga Đà Nẵng, để đi tàu ra chợ thị trấn
đó bán xong rồi mới quay về Huế. Lần đầu dấn thân vào công việc lạ lẫm, va chạm
nhiều hạng người: dữ có, hiền có, thanh có, thô có,v..v.. thôi thì đủ loại người
trên đời. Nên cũng vỡ ra nhiều điều trên một đoạn đường đời mà trong sách vở
nhà trường chưa được đề cập đến.
Trước tiên
kể về trải nghiệm đi tàu. Vào những năm 80-90 của thế kỷ trước, tàu chợ không
khác gì cái tên gọi của nó. Toa nào toa nấy, người và hàng hóa kể cả gà vịt heo
chó,…chen chúc nhau không có thứ lớp, trật tự gì hết. Mạnh ai nấy chen. Người
ngồi, kẻ nằm la liệt ngổn ngang. Người thì nằm trên các bao hàng chông chênh,
người thì trải chiếu thò chân vào dưới gầm ghế, đầu nhoài ra ngoài lối đi. Có
người mắc võng từ cửa sổ này sang cửa sổ khác chiếm cả một khoảng không không
gian hiếm hoi, ngay trên đầu, trước mặt hành khách. Dù chẳng ai muốn nhưng cũng
phải chấp nhận vì trong hoàn cảnh này thì ai ngồi được đâu cứ ngồi, ai nằm được
đâu cứ nằm. Tàu quả là chật như nêm. Có người bước lên tàu chỉ đứng được một
chân vì hết chỗ. Có người phải đu bám ở cửa lên xuống, có người đứng ở chỗ nối
toa, thậm chí có nhiều người leo lên ngồi, nằm trên nóc tàu, bất chấp nguy hiểm.
Ai đi tàu lúc này cũng bầm dập tả tơi như vậy cả. Đã thế, lâu lâu tàu lại trở
chứng bị chết máy bất thình lình hoặc tránh tàu có khi cả vài tiếng đồng hồ là
chuyện thường. Có khi đi khoảng vài ba trăm km mà phải đi ba ngày mới tới nơi.
Hành khách
trên tàu ngủ gà ngủ gật, phờ phạc, tả tơi. Nếu chịu khó quan sát thì cũng khối
chuyện bi hài vui phải biết. Đêm xuống, tàu không có điện. Người nằm ngủ, trở
mình nghiêng qua, nghiêng lại ôm trúng cái mông của bà khách đang ngủ say, ông
ta tưởng mình ôm cái gối sao nó êm quá là êm. Người khách khác làm nghề buôn
heo nằm trở đầu lại cũng đang yên giấc điệp, bị bà buôn gạo nằm kế bên gác
nguyên cái đùi to chà bá lửa lên ngực anh ta. Anh lái heo ngủ say, hay tay chới
với và ú ớ gì trong miệng. Trong cơn mơ anh tưởng trời sập và mình bỗng trở
thành anh hùng, đang ra sức chống đỡ trời lên chẳng khác nào “đội đá vá trời”
trong thần thoại. Có người đang ngủ say quá mà buồn tiểu lại mơ là mình đang đứng
bên bờ suối, gió mát hây hây, chim kêu vượn hú thế là cứ mở van cho nước chảy
róc rách. Đến lúc nghe mùi khai bốc lên, mọi người mới tá hỏa ra và hô hoán lên
là có người đái dầm.
Trên ghế ngồi
dựa lưng vào thành tàu, mọi người cũng đang thiu thiu ngủ. Một quý ông (trạc tuổi
khoảng ba mươi) khuôn mặt cũng lịch lãm, trí thức nhưng tàu xe vậy nên cũng te
tua mệt mỏi lắm! Ông ngã đầu ngủ, tàu lắc lư, ông nghẹo đầu qua một bên, nghẹo
dần, nghẹo dần đến lúc đầu ông nghiêng hẳn lên vai cô gái ngồi kế bên. Thấy vật
gì đè nặng trên người mình, cô chợt thức giấc và như chợt hiểu ra, cô vội xô
anh ta về đúng chỗ anh ta rồi mắng: Anh ngủ gì mà kỳ vậy?
Anh ta tỉnh
giấc và rối rít xin lỗi:
- Xin lỗi
cô nhé! Tôi mệt quá nên ngủ say. Cứ tưởng là cái gối của tôi chệch qua bên này
nên vô ý quá. Tôi thành thật xin lỗi!
- Tôi xin
chuộc lỗi. Lúc nãy tôi lỡ nghiêng qua bên vai cô, giờ cho cô nghiêng lại bên
vai tôi, như vậy tôi cũng đỡ áy náy và chúng ta huề nhé!
Phần 2:
Cô gái
nghiêm mặt và từ tốn bảo:
-Anh cũng
có óc hài hước đấy nhỉ. Nhưng tôi thì không thuộc tuýp người thích đùa, nhất là
xe tàu mệt lữ như thế này.Từ bây giờ anh có ngủ thì hãy dựa hẳn ra phía sau
thành tàu nhé.
Đi bầm dập
te tua vậy rồi cũng tới nơi. Buổi sáng, xuống ga thị trấn X, sau khi khệ nệ
bưng những bao hàng xuống, hai đứa đang đứng thở, nghỉ ngơi lấy sức. Thì bỗng một
nhóm người mặc áo thuế vụ vẻ mặt đằng đằng sát khí tới “hỏi chuyện”. Khi đó cảm
giác rất sợ, mặt lúc này chắc là xanh ngắt như tàu lá chuối. Tim đập hồi hộp
lòng đầy lo lắng vì nếu bị trịch thu thì kể như mất vốn luôn! (Lúc này nếu đo
huyết áp thì không biết là vọt lên bao nhiêu, may mà hồi đó còn trẻ, không có bệnh
lý gì kể cả tim mạch.) Thuế vụ tra vấn một hồi, không nhớ diễn biến chi tiết
mình đã đối phó thế nào và xoay xở ra sao nhưng cuối cùng sau khi quần thảo khủng
bố về mặt tinh thần rồi cũng được thả cho đi. Tụi mình gọi người tới chở vào chợ
thị trấn bằng các phương tiện như xe kéo, hoặc xe đạp thồ tại địa phương.
Vào đến chợ,
sau khi tìm chỗ ngồi thuận lợi, dọn hàng ra để trưng bày sao cho bắt mắt và việc
mua bán diễn ra thuận lợi, lác đác đã có khách tới mua hàng. Hai đứa bắt đầu “sự
nghiệp bán hàng” lần đầu tiên trong đời, trước đó có quan sát chị bán hàng sĩ
và lẻ trong chợ Cồn rồi nên cũng có học hỏi kinh nghiệm. Công việc diễn ra thuận
lợi, nhưng cũng có trường hợp này ứng với một câu nói của dân gian: “chó ỷ tại
nhà, gà ỷ tại chuồng” không phải không xảy ra. Có chị khách cỡ trạc tuổi mình,
vừa cắp chiếc rổ tới, chưa mua nhưng đã hăm he phủ đầu một câu rằng: “hai cái
con Huế này, cân kéo cho đúng không thôi tau thu cân đi nghe chưa!”. Mình không
nói chúng mình từ đâu tới nhưng chắc có vẻ thấy lạ và nghe giọng nói cũng như
cách ăn mặc nên chị ấy đoán thế!
Chị bạn
mình nói:
-Ê cho đính
chính chút: Đây sống ở Huế nhưng gốc Bắc và Huế lai thôi! chứ Huế rặt ai thèm lặn
lội đi bán đồ khô như tụi này. Họ có bán là bán vàng kìa! ke..ke..! Thôi giờ
mua gì nào, cân giáp cho, bán để làm quen thôi! Giao dịch trôi chảy, thuận lợi!
Việc bán
hàng diễn ra trong ba ngày thì giải quyết hết hàng. Về phòng trọ hai đứa giở sổ
sách ra tính toán lại thì thấy có lời chút đỉnh, sau khi trừ mọi chi phí. Lần đầu
lấn sân sang lĩnh vực không qua đào tạo, không thuộc chuyên môn của mình nhưng
như vậy cũng có thể gọi là thành công bước đầu. Tụi mình vừa đi vừa học hỏi và
dò đường đi nước bước. "Vạn sự khởi đầu nan" và tự an ủi nhau vậy là:
“gioải rồi”. Hai đứa lòng cũng thấy vui, và tiếp tục sự nghiệp nhỏ lẻ của mình
thêm vài chuyến nữa tại chợ này. Một hôm xong việc hai đứa bàn nhau nhảy tàu ra
Vinh xem sao? Thế là mấy chuyến sau đi thẳng ra chợ Vinh dài đường hơn (Huế-Vinh
367 km) nhưng bán được hàng nhiều hơn và nhanh hơn. Xem lại các chuyến thì có
nhiều chuyến lời, tuy vậy cũng có chuyến ngang vốn có khi còn lỗ chút ít nếu gặp
không may. Tổng kết lại toàn bộ sự nghiệp buôn bán ba tháng hè, trừ các chi phí
cũng có đồng ra đồng vào trang trải thêm cho cuộc sống và đặc biệt đời dạy cho
khôn ra đôi chút he..he… Đó cũng là học phí cần phải trả cho cuộc đời.
Kết thúc ba
tháng hè, BH trở lại trường làm công việc chính của mình, cô hàng xóm không có
BH đi cùng nữa cũng buồn nên nghỉ buôn chuyến mà về làm tiểu thương chợ Phú
Bình thuộc phường Phú Bình với căn hàng cố định kiếm sống qua ngày đủ nuôi con
ăn học. Còn BH ngoài công việc chính thì chợ đò cơm nước, chăm con và tranh thủ
ngoài giờ làm thêm một số việc khác. Như về chợ Phú Bình (thuộc đường Đào Duy
Anh Huế) bán trái cây, khi thì lấy bia của anh chị Diên (D) ở bên nam sông
Hương ra bỏ mối cho 5 quán nhậu ngoài thị trấn Phò Trạch, Phong Điền. (cuối bài
kể một chút về anh D). Việc buôn bán xem như thời vụ thôi, thời gian diễn ra
không lâu, chỉ có công việc đan len là kéo dài lâu hơn cả, cho đến khi áo len hết
thời hoàng kim, không còn được ưa chuộng nữa thì mới nghỉ làm). Khi có khách đặt
hàng thì đan đan áo len, nghề đan tay tự học lúc nhỏ, cũng gọi là có chút năng
khiếu. Năng khiếu này thừa hưởng từ mẹ của BH, nhưng lại tự học chứ mẹ không dạy
vì ba mẹ đi làm ăn xa, BH ở nhà chủ yếu với ông bà nội.
Có lần đan
giùm cho thầy hiệu trưởng ở một trường phía bắc thành phố, mình biếu thầy,
không lấy tiền công. (nhưng bà xã thầy vẫn tìm cách và đợi tết thì mang mứt
bánh tặng mình ý là cảm ơn).Thầy hiệu trưởng (trường mình dạy năm 1986-1990) rất
tốt, thầy đã tạo điều kiện cho mình như khi con ốm, chế độ thai sản, nghỉ sinh
con, nâng lương theo ngạch quy định, ...
Từ năm 1991
mình chuyển vào trường khác thuộc trung tâm Thành Nội, thầy cũng tạo điều kiện
để mình bàn giao công việc và thuyên chuyển dễ dàng. Thầy rất tin tưởng khi
giao cho mình thao giảng giờ văn. Lúc đã cầm quyết định chuyển trường trong tay
rồi, tuần sau sẽ trình diện trường mới mà thầy cũng bảo: Cô BH hãy dạy thêm tiết
thao giảng tập làm văn rồi đi nhé! Mình rất kính trọng thầy, quý sự tin cậy của
thầy nên mình không ngần ngại với yêu cầu này của thầy, sau một đêm chuẩn bị
bài giảng, sáng mai, ra dạy cho các anh chị đồng nghiệp dự giờ. Tất nhiên khi
nhận xét cũng có người khen, kẻ chê. Ý kiến khen nhiều hơn, chốt lại vẫn là kết
luận của hiệu trưởng, rất hài lòng vì văn cũng là chuyên môn của thầy hiệu nên
thầy nắm rất chắc, với những ý kiến lập luận vững và thuyết phục!
Ra đường
nhìn ai mặc áo len đan kiểu gì đẹp, họa tiết gì bắt mắt, áo trẻ em có hình con
vật gì ngộ nghĩnh, về nhà BH tự đánh ca rô vào giấy tính toán và đan được y
chang không khác mẫu mới nhìn thoáng qua, và còn sáng tạo thêm những họa tiết
khác. Khi vào dạy qua hai trường trung tâm trong thành phố, môn nữ công gia
chánh không phải bộ môn của mình nhưng khi đưa học trò đi thi thành phố thì cả
2 vị hiệu trưởng đều muốn mình bồi dưỡng ngoài giờ và đem các em đi thi khéo
tay, đan lát thêu thùa ở cấp thành phố. Có nhiều đợt các em đạt giải nhì cấp
thành phố với các môn như thêu, đan, có lần làm món ếch xào sả cũng giải nhì,…
(Qui định hồi đó, GV nào có HS đạt cấp TP thì GV sẽ được xét thi đua cấp TP
nhưng khi xét thi đua thì họ quên mất tên mình). Sau này, nghề đan máy đạt năng
suất hơn nên BH đi học nghề đan máy với học phí một chỉ vàng, mua thêm cái máy
đan len 3, 2 chỉ, đóng bàn đan và một số dụng cụ nữa, tổng cộng hết khoảng 5 chỉ
vàng cho “sự nghiệp đan len máy”. Hồi đó để có một chỉ vàng là không hề dễ, có
khi phải chơi hụi cả năm trời mới hốt làm vỏn vẹn 1 chỉ vàng thôi. Đan máy áo
len cho thị trường đủ các kích cỡ: người lớn có, trẻ em có. Về nhà, mình có
truyền nghề đan máy cho ông xã, nên khi mình bận chăm con, chợ búa nấu nướng
thì ông xã kéo máy đan giùm. Ông đan năng suất còn hơn cả BH nữa. Trong nhà
ngoài giờ dạy, đến khi đêm về, tiếng kéo máy đan còn nghe rèn rẹt đến 10-11 h mới
đi ngủ. Dạy ở trường về và cập nhật các loại sổ sách, giáo án chiếm thời gian
không ít, tranh thủ làm thêm nên các con phải tự học là chính. Nếu có giảng bài
cho con thì vừa làm, vừa giảng giải. Có khi đề tập làm văn thì mẹ vừa nấu ăn, vừa
gợi ý. thỉnh thoảng gặp bài toán khó mới nhờ ba gợi ý dẫn dắt. Thương các con tự
học là chủ yếu. May mắn là các con biết ba mẹ vất vả nên biết bảo ban nhau học
tập và không đòi hỏi gì ngoài khả năng của ba mẹ. Vậy chứ bắt đầu lên cấp hai
(từ giai đoạn 1997 trở đi) thì mỗi đứa đều đi học thêm từ 4- 6 môn. (Con trai đầu
học thêm 6 môn. Riêng môn vẽ học thêm 3 thầy khác nhau để thi vào trường con chọn
là kiến trúc. Con trai út có anh trai đi trước dò đường rồi nên chỉ học thêm 4
môn cần thiết, còn môn vẽ chỉ học một thầy, thầy nào mà anh Hai đã học và chốt
lại cho em. Cuối cũng cả hai anh em (cách nhau ba năm) đều cùng thi vào một trường,
ra trường làm cùng một nghề.
Như vậy nếu
vận dụng câu nói của dân gian gian “Trời sinh voi, sinh cỏ” có phần đúng và
cũng có phần chưa đúng, chỉ là câu nói gieo niềm lạc quan mà sống chứ thực sự mọi
cá nhân đều phải nổ lực để vượt qua. Trải qua thăng trầm dâu bể cuộc đời với
không ít gian nan như vậy, thế rồi gia đình của BH cũng vượt qua giai đoạn khó
khăn chung của đất nước, hậu chiến và thời bao cấp.
Nay các con
đã đi làm và tự lo được cho mình.
Có lẽ ai
trong cuộc đời cũng phải đi qua phù trầm dâu bể với bộn bề cuộc sống không nhiều
thì ít, nhất là trong giai đoạn khó khăn chung của đất nước. Hôm nay hồi ức ùa
về, nhìn lại một chặng đường đã qua không ít gian nan, ngẫm lại cũng thầm tự phục
mình ừ cũng kiên cường đấy nhỉ! Không tệ phải không?
Bây giờ chỉ
mong mọi người sức khỏe và bình yên!
*Kể một
chút về duyên quen biết với Diên (D). Anh thuộc quân đội bên thua cuộc nên sau
khi cải tạo về, anh chị cũng làm nhiều nghề để kiếm sống.
Trong một dịp
lên A lưới lấy đót về làm chổi đót xuất khẩu, thì anh D gặp các thầy cô từ Huế
lên dạy nơi đây (cũng như giáo viên cắm bản vậy), Ông xã mình lúc này làm hiệu
trưởng tại một trường ngay chợ thị trấn Bót Đỏ, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất
có thể cho nhóm mấy anh có chỗ ăn chổ nghỉ, và còn dọn dẹp các phòng thầy cô ở
lại để dành một phòng làm chỗ cho mấy anh chị làm kho chứa đót (trong đó có anh
D và một số người làm việc bên phường Vĩnh Ninh, Huế). Sau này về Huế anh D và
ông xã mình vẫn giữ mối liên lạc cho đến ngày anh đi diện H o nay định cư ở nước
ngoài, không biết nước nào, mình cũng cầu chúc gia đình anh luôn bình an mạnh
giỏi. Đó là một thời gian (trong khoảng thập niên 80-90) ở Huế rộ lên phong
trào làm chổi đót xuất khẩu, nhà nhà làm chổi đót, người người làm chổi đót.
Trước đó hai năm, Hồi mình mới lên, dạy ở một trường cách thị trấn 15 km. Lúc
này đa số giáo viên còn độc thân, chỉ có anh hiệu trưởng Tây lai là đã có gia
đình. Hai nữ giáo viên độc thân ở một phòng, còn các giáo viên nam thì ở chung
với nhau tại căn nhà ba gian. Nhà bếp chung, có một chị cấp dưỡng trong biên chế.
Đến giờ cơm cùng về nhà bếp ăn cơm. Khi có người dưới Huế lên làm đót, anh hiệu
trưởng Tây lai bảo hai cô dọn về nhà dân sống nhé, để căn phòng này lại cho họ
mượn họ đựng đót. Thế là tụi mình về nhà dân ở. Hồi đó dân rất quý giáo viên
nên cô chú ấy cũng làm riêng cho tụi mình một phòng. Đến giờ đi dạy rồi về nhà
ăn tập thể ăn cơm, xong thì về nghỉ ngơi soạn bài và chơi ở nhà dân, đôi khi
cùng đi khám phá khe suối, câu cá với mấy em trong gia đình cũng vui.
Trở lại
chuyện anh D, anh từng là sĩ quan nên có lượng kiến thức nhất định, cần thiết để
mưu sinh dẫu trong hoàn cảnh nào. Trải qua nhiều công việc khác nhau, sau này
anh nghĩ ra cách nấu bia. Huế lúc này có từ gọi là “bia khổ” tên gọi là vậy để
chỉ cách nấu thủ công nhưng được khách ẩm thực đón nhận nên anh chị cũng có thu
nhập ổn trước khi lên đường đi H O. Từ bia khổ đã đi vào dĩ vãng nay không biết
ai còn nhớ và ai đã quên? Tên gọi này này thực sự đã lùi vào dĩ vãng. Nay không
còn nghe ai nhắc đến nữa, nhưng đó là mưu sinh một thời của không ít người liên
quan và thực khách xứ Huế.
Sài gòn,
ngày 8/12/2023