09 January 2024

MỘT VÒNG ĐAI, MỘT CON ĐƯỜNG & HAI CON TIM BỘ LẠC - Tưởng năng Tiến

Thỉnh thoảng, cũng có vài ba thân hữu hỏi (xem) tôi quê quán nơi nao? Thực là một câu hỏi khó. Tôi sinh ở Sài Gòn, lớn lên ở Đà Lạt, và sống phần lớn thời gian ở California. Cả ba đều là nơi tập hợp của dân tứ xứ, khó có thể xem là quê hương (bản quán) của bất cứ ai. Tôi cũng chả biết hỏi ai về “gốc gác” của mình vì song thân đã quá vãng từ lâu; anh chị em thì kẻ mất người còn nhưng đều tứ tán và phiêu bạt cả.

Tôi chỉ đoán chừng rằng tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình đều gốc gác là những nông dân từ một làng quê khốn khó nghèo nàn nào đó (kề cạnh sông Hồng) nên cái chất nông phu vẫn còn  nguyên vẹn trong máu huyết. Sau khi đã đi nhiều nơi, và có nhiều dịp được nếm thử đủ loại thực phẩm của những những dân tộc khác, tôi vẫn “chốt” lại rằng: ngoài mì quảng, cá rô kho tộ, cá chẻm nấu canh chua, đậu rán tẩm mỡ hành, rau muống luộc – chấm với nước mắm ớt chanh – và cơm gạo tẻ ra … thì chúng ta không nên đụng đũa đến bất cứ thứ thức ăn (tào lao) nào nữa!

Tôi ăn uống quê mùa ra sao thì ăn nói, và suy nghĩ cũng bỗ bã, cạn cợt y như vậy. Rõ ràng, tôi có cốt cách và tư duy của giới tiểu nông (vốn không thể nhìn xa, thấy rộng) nên rất khó lĩnh hội được những điều tinh tế.

Có lần tôi mon men thử tìm hiểu chút đỉnh về vô thức tập thể qua công trình biên khảo (Archetypes and the Collective Unconscious) của Carl Gustav Jung, cha đẻ của khoa Tâm Lý Học Phân Tích –  Analytical Psychology. Bước chân vào cái thế giới bao la và sâu thẳm này khiến tôi hơi bị choáng, và không khỏi lại chạnh lòng nghĩ đến hai vị nhân sĩ khả kính của đất nước mình: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

Tuy mỗi người chủ trương một phương cách khác hẳn nhau nhưng mối bận tâm chung của hai ông vẫn chỉ là làm sao cho quốc dân thoát khỏi được vòng lệ thuộc. Dù nhị vị đã khuất núi từ lâu nhưng Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc vẫn chỉ là bánh vẽ, và “khai dân trí” vẫn là một vấn đề sống còn và cấp bách.

Phan Bội Châu (1867 – 1940), Phan Châu Trinh (1871 – 1926), Carl Gustav Jung (1875 – 1961) đều chào đời vào hậu bán thế kỷ 19 và tuổi tác gần suýt xoát nhau. Chỉ có điều khác là quê hương của Carl Gustav không trải qua một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Thụy Sỹ cũng chả bị tàn phá hay ảnh hưởng gì nhiều bởi hai cuộc Thế Chiến vừa qua.

Có lẽ vì thế nên tư duy của  Jung khác với hai cụ Phan rất xa. Khoảng cách bao la này – dường như – chưa bao giờ ngắn lại, dù chỉ một ly. Cả đời tôi (và không ít những bạn đồng thời) cũng vẫn chỉ loanh quanh với đậu rán, cá kho, canh chua, rau luộc, và vẫn cứ loay hoay với chuyện thoát Trung cùng thoát Cộng.

Thế nên tôi không chỉ có “cái mặc cảm VN” mà còn mang luôn cái “mặc cảm Á Châu” – nơi mà phần lớn đất đai đều có thời là thuộc địa, và không mấy khi sản xuất được một nhân vật tầm cỡ. Mặc cảm này, gần đây, đã được giải toả phần nào khi bên nước (bạn) láng giềng bỗng xuất hiện một nhân tài nổi bật: Tập Cận Bình. Ông hiện là Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Sự, và kiêm Chủ Tịch Nước (vĩnh viễn) luôn.

Cùng với quyền lực nghiêng trời lệch đất, Tập Cận Bình còn có thêm một khối óc vỹ đại với tầm nhìn bao quát cả toàn cầu. Ông là cha đẻ của Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường (The Belt and Road Initiative) còn được gọi là Nhất Đới Nhất Lộ, nối liền những trọng điểm kinh tế. từ Trung Quốc sang châu Âu và châu Phi. Sáng kiến này được mô tả là “dự án của thế kỷ – project of the century,” với kỳ vọng sẽ mang lại “một trật tự mới cho thế giới – a new world order.”

Thiệt là một phát kiến rất đáng kể, đáng nể, và quả là một tin vui.

Tôi chỉ bớt vui, và bắt đầu buồn (rồi buồn nôn) từ hôm ghé qua Sihanoukville – một trong những nơi được xem là trọng điểm trên lộ trình One Belt One Road (OBOR) của Tập Cận Bình. Ở thành phố cảng này, tôi đếm được khoảng gần 100 cái casino và building sang trọng của người Hoa. Xen cạnh là vô số restaurant cùng supermarket – đỏ rực bảng hiệu tiếng Tầu – nằm san sát hai bên những con đường lỗ chỗ ồ gà, ngập ngụa rác rưởi, và mịt mù khói bụi.

Nơi đây, người Trung Hoa thường ở biệt lập trong những khách sạn sang trọng hay những khu chung cư cao cấp. Họ chỉ chia chung với dân bản xứ những dòng nước suối đen ngòm (lềnh bềnh chai lọ nhựa) lừ đừ chẩy qua những ngõ ngách chật chội và hôi thối.

Bên cạnh những công trình kiến trúc hoành tráng là mấy dẫy mái tôn lụp xụp, và len lách giữa đám xe du lịch đắt tiền (đậu trước những casino tráng lệ) là những đứa bé Cambodia phải nhặt rác để mưu sinh (thay vì cắp sách đến trường đồng)   và không ít người dân Cambodia đang ngồi không bên lề cái Vòng Đai & Con Đường hoành tráng của ông Tập Cận Bình.

Những hình ảnh này khiến tôi nhớ đến lời của nhà nhân chủng học Jane Goodall  trong một cuộc phỏng vấn dành cho AFP, hồi năm 2014: “Trung Hoa đang bóc lột Phi Châu chả khác gì thế lực thực dân kiểu cũ… với những hậu  quả tai hại về môi sinh. China is pillaging Africa like an old colonial power … with disastrous effects for the environment.)

Với thời gian, sự việc mỗi lúc một tệ hại hơn: “Nhiều quốc gia ở châu Phi và châu Á cho biết họ không thể tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư bằng vốn của Trung Quốc. Tại Nigeria, dự án đường sắt trị giá 1,5 tỷ USD rơi vào trì trệ vì ảnh hưởng của dịch bệnh. Nhiều dự án khác thuộc Vành đai Con đường ở Zambia, Zimbabwe, Algeria và Ai Cập cũng bị trì hoãn vô thời hạn do sự lây lan của Covid-19.”

Many countries in Africa and Asia have not been able to continue with mega projects, mostly funded by Beijing, because they are struggling to service debts. In Nigeria, a US$1.5 billion rail project is facing delays because of coronavirus disruptions, while many Chinese funded projects in Zambia, Zimbabwe, Algeria and Egypt have been put on hold or may be delayed as the countries fight to control the spread of Covid-19. (Jevans Nyabiage. “Pandemic takes the shine off China’s Belt and Road Initiative as African partners struggle with coronavirus.” South China Morning Post 28 Jun 2020 translated by Hương Vũ).

Nếu chiến lược ngoại giao bẫy nợ của Trung Cộng – China’s debt-trap diplomacy – cứ tiếp tục phát triển thì nhiều quốc gia khác nữa (Cambodia, Lao, Mongolia, Myanmar, Nepal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka, Vietnam …) cũng sẽ chìm trong biển nợ. Châu Á, rồi ra, e cũng sẽ chả khác gì Châu Phi là mấy.

Ở bên trong Bức Màn Sắt Trung Hoa thì bàn tay sắt của ông Tập Cận Bình chả cần gì phải bọc găng, cũng khỏi cần giăng bẫy vì Tây Tạng và Tân Cương đã nằm trong rọ tự lâu rồi:

Thiên hạ vẫn chưa biết Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường (The Belt and Road Initiative) có tính cách toàn cầu của họ Tập rồi ra sẽ dẫn dắt đến đâu nhưng quả tim (bộ lạc) nhỏ hẹp và tàn ác của ông ấy đã làm cho bất cứ ai cũng phải hết hồn, hết vía:

“Bằng chứng phạm tội là nhiều tù nhân lương tâm-thành viên Pháp Luân Công, người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ, phật tử Tây Tạng và tín đồ Công giáo “chui” –  bị bắt xét nghiệm y khoa và bị mổ cướp lấy nội tạng. Những nội tạng này đã cung cấp cho thị trường cấy ghép nội tạng rất lớn. The charge is that many prisoners of conscience – Falun Gong members, Uighur Muslims, Tibetan Buddhists and “underground” Christians – have been subjected to medical testing and had their organs forcibly removed. Those organs have fed an enormous trade in organ transplants.” (“Benedict Rogers. “The Nightmare of Human Organ Harvesting in China.” The Wall Street Journal 5 Feb 2019 translated by Trần Quốc Việt ).

Những thử nghiệm y khoa của Đức Quốc Xã (“Nazi Medical Experimentation”) chắc cũng chỉ man rợ đến vậy là cùng. Dù vốn gốc nông dân và rất vô tâm, tôi vẫn cứ ngẫm nghĩ mãi về câu nói của Sir Alan Bullock  (“Hitler tin rằng Đệ Tam Quốc Xã sẽ kéo dài cả ngàn năm. Nó tồn tại được hơn chục năm”) rồi không khỏi lấy làm lo cho thần tượng của mình. Chả hiểu bác Tập sẽ “trụ” được thêm bao năm, hay bao lăm, nữa?

Tưởng năng Tiến