1.
Tôi cười phá lên: Ở gần đây
có sẵn vạc dầu đang
sôi không? Để làm gì? Phán
quan hỏi và nhìn thẳng vào mặt tôi.
Tôi nói: Để anh dẫn tôi tới rồi
thảy tôi xuống đó cho xong mọi chuyện.
Phán quan lặng lẽ ngồi xuống, hai bàn tay đan
vào nhau, hai ngón tay trỏ cử động không ngừng. Chợt anh ta cười nửa miệng: đâu
có phải chết rồi là mọi chuyện đã xong, đã hết, đã kết thúc. Hạnh phúc cho ai
được chết một lần. Anh tưởng ai cũng được chết một lần hả?
Không đâu. Có người phải chết nhiều lần, có kẻ phải chết đi sống lại. Bao kẻ
xác bỏ quan tài còn phải lôi ra, quần áo bị lột bỏ. Đâu đã yên, nhiều kẻ
còn bị moi ruột, móc óc... Bao kẻ còn bị đào lên lấp xuống đến nỗi
không kịp thối... Vì sao thế anh biết không?Tôi cười: chắc là tại không thành
thật khai báo?
2.
Phán quan đứng lên làm mấy động tác thư giãn, anh ta bước lại gần
tôi, giọng nhẹ nhàng: anh hãy quên chuyện khai báo đi. Giữa anh với tôi là trao
đổi, là làm sáng tỏ một điều gì đó. Tôi ngồi xuống ghế trở lại: Tôi đã chết rồi.
Anh nhớ cho tôi điều đó. Phán quan trở lại ghế ngồi: Anh nói đúng. Anh đã chết
rồi. Nhưng chết rồi đâu có nghĩa mọi điều cũng chết theo. Anh có nhớ câu: trâu
chết để da người ta chết để tiếng. Lại còn: trăm năm bia đá thì mòn ngàn năm
bia miệng vẫn còn trơ trơ. Anh thấy đó: nhiều kẻ sống đã khai gian lý lịch,
khai gian để lừa người. Nào thay họ đổi tên, thay đổi quê quán, thay cả tên tuổi
cha mẹ. Như thế chưa khiếp. Có kẻ còn tạo ra một tiểu sử đề cao mình, suy tôn
mình... Muốn chết thanh thản người ta phải sòng phẳng với
đời. Chỉ có thành thật và thành khẩn người ta mới chết
yên được. Chính vì thế mà chúng tôi muốn tận tình giúp đỡ anh.
Giúp đỡ, giúp đỡ hết lòng. Quả thực tôi muốn văng tục. Tôi
nói: cám ơn anh, tôi không có gì để khai nữa. Bao nhiêu
trang giấy tôi đã giao cho anh như vậy chưa đủ sao? Anh muôn làm gì
thì làm. Tôi chết rồi. Phán quan gằn giọng: đúng là anh đã chết, nhưng vẫn còn
sống ở một thế giới khác. Vả lại những điều anh viết ra,tôi đã đọc nhưng nay
tôi không còn nhớ gì nữa. Anh cứ coi như bây giờ mình mới bắt đầu câu chuyện có
được không? Phán quan bước đi khoan thai nhiều vòng trong gian phòng. Không một
tiếng động. Một giọng nói chậm, nhẹ vang lên như từ một cõi nào xa lắm: Mình có
thể nói chuyện với nhau bắt đầu từ chỗ nào nhỉ? Cuộc đời của anh cũng có nhiều
phiên hồi đáng ghi nhớ... Khi khóc, khi cười, khi lên khi xuống... Anh cũng có
lúc bị tống giam phải không? Anh nhớ chứ? Mình có thể bắt đầu ở chỗ này không?
Hay lùi xa lên ở cái lúc dinh cơ của ông anh Nguyễn Khản bị Kiêu binh đốt cháy?
Hay lùi lại vào lúc anh thi đỗ tam trường? Nhưng thực ra phải đợi đến khi anh
ra làm quan cho Nguyễn Ánh thì lý lịch mới rõ ràng, phải thế không? Mọi điều tưởng
như rõ ràng nhưng thực ra ở đó vẫn còn những khuất lấp. Anh biết rõ điều này
hơn ai hết. Sao anh lại im lặng? Khó thật đấy. Bắt đầu từ chỗ nào chăng nữa chắc
cũng làm anh lúng túng với những điều khó nói. Anh cũng có lúc bị bắt giam, bị
nhốt lại, được hỏi han, chắc chưa bị tra khảo? Nhất nhật tại tù, thiên thu tại
ngoại... Với anh nói tù thì cũng không đúng hẳn phải
không?
3.
Tôi ngồi im. Nơi này đã có bao nhiêu người đến rồi đi? Có
bao nhiêu phán quan? Đây là đâu? Tôi nhìn chung quanh, tất cả bao trùm trong một
thứ ánh sáng đục, vây quanh tôi hình như là một bức tường. Tôi đập mạnh tay xuống
bàn, xô cái ghế. Sao không có một tiếng động nào? Tôi đang ở đâu?
Tôi đã chết. Một ngày nào đó, tôi nhớ: tôi nằm im không còn
cựa quậy, đầu óc tỉnh táo, người như nhẹ hẳn... Tôi thấy chung quanh tôi bao
nhiêu là người, tôi chú ý và nhận ra những gương mặt thân quen. Tôi đang ở đâu?
Dần dần những gương mặt như mờ và trôi đi... Những tiếng nói thân thuộc đầm ấm
mỗi lúc một nhỏ đi rồi biến vào im lặng...
Tôi đã chết. Tôi nhớ lại những giây phút cuối cùng đó. Tôi
thấy mình rất tỉnh táo nhưng sao cả thân người thì cứng đơ và lạnh dần... Tôi
cố gắng nói với người ngồi gần nhất, không biết là con, là cháu hay là một người
nào đó: sờ giúp cái chân một chút. Sao tôi không còn thấy một cảm giác nào. Có
tiếng nói: lạnh rồi. Lạnh rồi. Tôi nghe rõ. Tôi nhìn lướt nhanh những khuôn mặt
nhòe nhoẹt đang vây chung quanh tôi. Có phải cả tôi và những chung quanh đều
đang đợi một điều gì đó. Tôi cố gắng mở rộng mắt, lấy hết sức để nói: được...
được. Tôi muốn nói một điều gì khác nhưng lưỡi đã cứng lại. Có còn điều gì để
nói nữa? Tôi nhủ thầm: mình đang chết, chết từ chân lên... Tôi lịm đi. Tôi chìm
dần vào trong bóng tối... Những bóng người chập chờn không rõ nét,
những tiếng nói rì rầm mơ hồ. Tôi thấy mình như đang trôi đi...
Câu hỏi của phán quan làm tôi nhớ tới những gì thuộc về nguồn
gốc. Tôi họ Nguyễn. Nếu lấy Nguyễn Bặc thời Đinh Tiên Hoàng làm gốc thì Nguyễn
Ánh với tôi cùng một dòng, cùng một tổ. Có điều chi của tôi bị đại tông khai trừ.
Tại sao thế? Cái này là do những đổi thay của các triều đại. Gia phả họ tôi ghi
về những ông tổ mà tôi được biết thì nó thế này. Gốc họ Nguyễn của
tôi ở làng Cổ Hoạch, sau này gọi là Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.
Nơi này hiện còn nhà thờ tổ. Một trong những cụ tổ có cụ Nguyễn Doãn Địch, cụ đỗ
thám hoa triều Lê Thánh Tông. Dòng họ Nguyễn này của tôi có nhiều người học giỏi,
đỗ đạt cao và ra làm quan từ thời Lê thịnh. Sau đó vào thời nhà Mạc có Nguyễn
Thuyến đậu trạng nguyên và cả ba cha con đều làm quan trong triều. Làm quan cho
nhà Mạc nên Nguyễn Thuyến, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn bị kết án phản Lê. Sau đó
Nguyễn Thuyến bỏ nhà Mạc vào Thanh Hóa phù Lê trung hưng. Nguyễn
Thuyến chết, hai người con lại trở ra Bắc phục vụ dưới trứơng Mạc Mậu Hợp. Sau
này tôi có được đọc trong ngoại sử nói chính Nguyễn Bỉnh Khiêm, người có những
liên hệ với Nguyễn Thuyến đã khuyên hai người con của Nguyễn Thuyến về giúp nhà
Mạc. Cả hai người này sau bị Trịnh Tùng giết. Con của Nguyễn Miễn là Nguyễn Nhiệm
tìm đường chạy vào Nghệ An và chọn Tiên Điền làm quê hương mới. Nguyễn Tiên Điền
ở Nghi Xuân, Nghệ An ra đời. Tôi sinh ra ở Tiên Điền. Tôi là hậu duệ của kẻ bỏ
chạy khỏi đất bắc để tránh bị tiêu diệt bởi những thế lực tranh nhau quyền thống
trị. Thực ra tới thời gọi là Lê Trung Hưng thì không còn nhà Lê nữa. Nhà Lê chỉ
là bù nhìn cho các chúa Trịnh thao
túng.
Phán quan nói: cái họ của anh nhiều người học giỏi,
làm quan to mà sao lung tung quá, nay theo người này mai theo người khác, vậy
là thế nào? Hôm nay là minh chủ mai đã thành kẻ địch? Đó có phải là câu hỏi
dành cho tôi không? Câu hỏi này có lẽ người muốn moi móc tới những vị
tiền bối của tôi. Nhưng vào cái thời nhiễu nhương giữa Lê Trịnh, Mạc, Nguyễn
thì cũng khó để nói tới những lựa chọn minh bạch. Nhưng có một câu hỏi mà cho tới
nay mỗi khi nhớ tới tôi vẫn thấy choáng váng: có phải anh đã chạy theo Lê Chiêu
Thống bám gót giặc ngoại xâm?
Đây là sự thật tôi không thể nào chối được.
Nếu ba anh em tôi mà chạy kịp sang Tàu thì đời tôi đã như thế
nào nhỉ? Bám gót giặc ngoại xâm? Điều này thì oan cho tôi. Nhưng tại sao lại chạy
theo Lê Chiêu Thống? Có phải vì Lê Chiêu Thống là hậu duệ của
Lê Lợi, người đã đánh đuổi giặc Minh dựng nền tự chủ. Vua chết tôi
phải chết. Thờ hai vua là bất trung. Điều này ở đâu ra vậy. Nhà Trần suy tàn, Hồ
Quý Ly đứng dậy lập triều đại mới. Nhà Lê thối nát bạc nhược, Mạc Đăng Dung nổi
lên dựng nghiệp, một số các quan chống đối, dân không đồng lòng. Thấy
xã hội bất công dân tình khốn khổ, Cao Bá Quát phất cờ khởi nghĩa bị gán là giặc
châu chấu. Sợ thay đổi, đó là bản chất của những ông quan, quan lớn hay quan nhỏ
cũng thế. Vì mất chức thì họ sống bằng gì? Những ông quan tốt nhất của
giới sỹ phu thấy những sai trái của triều chính thường chỉ biết dâng sớ
tâu vua, nhưng thường vua đâu có nghe, kẻ còn liêm sỉ chỉ có con đường
từ quan, đó là hành động cao nhất mà họ dám làm. Tại sao họ không chiêu mộ
nghĩa sỹ đứng lên kêu gọi dân nổi dậy. Lịch sử Đại Việt không có
truyền thống nổi dậy chống bạo quyền. Anh làm quan nhà Lê Trịnh cũng như ông
cha anh với quyền cao chức trọng nên tất nhiên anh phải trung thành với họ. Thời
nào cũng vậy mỗi triều đại đều thiết lập một cơ chế gồm những kẻ trung
thành, được ưu đãi để cai trị dân và duy trì chế độ lâu dài, hẳn nhiên những kẻ
này chẳng bao giờ muốn thay đổi. Thời Lê Trịnh tôi đã là một ông quan dù là một
ông quan nhỏ. Có phải vì thế mà tôi sợ thay đổi?
4.
Cha mẹ tôi mất sớm, được đi học là nhờ người
anh lớn khác mẹ nuôi nấng. Nhưng tới một lúc anh tôi như linh cảm thấy
những bất trắc đang chờ đợi và ông mang gửi gấm tôi cho một ông quan võ họ Hà.
Bao nhiêu sự kiện dồn dập xẩy ra: một vụ án đưa anh tôi vào tù, ra
tù, làm quan lớn hơn nhưng kiêu binh đốt nhà phải bỏ chạy về quê. Nhờ làm con
nuôi họ Hà tôi được yên thân tiếp tục học hành để sau đó cắp giấy bút tới Sơn
Nam dự kỳ thi hương và đỗ ba trường. Cha nuôi của tôi qua đời, tôi được kế
chân, đúng là cha truyền con nối. Cha làm vua thì con làm vua, cha làm quan thì
con làm quan, từ thời nào đã có diện chính sách. Tại sao tôi lại là con nuôi
nhà họ Hà mà không phải là con nuôi nhà họ
khác?
Những ngày tháng ở Thái Bình có gì để nhớ? Chỉ có niềm vui
nhỏ được sống bên vợ con nhưng thực ra bao nhiêu sự việc làm rối lòng đã khiến
cho niềm vui đó chẳng còn ý nghĩa gì với tôi.Tin từ Nghi Xuân cho biết dinh thự,
nhà thờ... đã bị đập phá tan hoang vì Nguyễn Quýnh kết lạp nghĩa sỹ
nổi dây chống Tây Sơn. Trong khi Nguyễn Nễ đang ẩn náu ở Bắc
Ninh thì nhận được dụ của Quang Trung triệu vào Phú
Xuân. Cùng lúc Đoàn Nguyên Tuấn, anh vợ tôi, ra cộng tác với nhà Tây
Sơn và có mặt trong đoàn sứ bộ sang Tàu. Một triều đại mới đã bắt đầu. Nhà Lê
đã dứt. Bao nhiêu sự việc ngổn ngang lại thêm cái chết bất ngờ của người vợ
thân yêu, tôi quyết định trở về quê
nhà.
Quê nhà ngày tôi trở lại vẫn còn nguyên đó một vùng đất
nghèo,một thiên nhiên khô cằn với cát và đá, cỏ cây xơ
xác, những luống khoai bụi sắn èo oặt, những diện tích trồng lúa nhỏ hẹp, ít ỏi
chen vào giữa những đồi đất đá rộng lớn... Tôi tự hỏi: Sao tổ tiên tôi lại dừng
chân ở nơi này để khởi nghiệp? Tại sao không đi thêm nữa về phương Nam nơi có
những cánh đồng màu mỡ bạt ngàn, những dòng sông đầy tôm cá, những cánh rừng đầy
cây ăn trái? Tổ tiên tôi đã đến đây, đã ở lại đây. Tôi đâu có quyền để chọn nơi
mình sinh ra... Những đổi thay của cuộc sống thời nhiễu loạn như đã để lại dấu
vết trên từng tấc đất dưới bước chân tôi. Quê nhà đã không còn như ngày ra đi.
Qua xã Xuân Yên, Tiên Điền vẫn còn đó nhìn ra biển Đông bao la lộng gió, bờ biển
cát trắng một màu, trên sóng nước những cánh chim biển bay lượn... Phía
tây dãy Hồng Lĩnh vươn cao sừng sững. Nước sông Lam vẫn chảy, bến Giang Đình
còn đây nhưng dinh thự, từ đường, chùa miếu thời cha tôi ở lúc thịnh
thời xây dựng đã không còn, có chăng một mảng tường, một cột trụ, một bậc thềm
rêu phong... Thay vào đó có mấy ngôi nhà nhỏ mái ngói còn tươi là những
xây dựng của Nguyễn Nễ. Một thời đã qua.
5.
Tại sao anh không ra hợp tác với tân triều? Anh nghĩ nhà Lê
sẽ khôi phục lại cơ đồ à? Hay anh đang hướng về Nguyễn Ánh ở phương Nam? Mấy
câu hỏi của viên phán quan làm tôi nhớ tới cái lúc bước chân vào nhà giam ở trấn
Nghệ An hôm nào. Việc xẩy ra vào một buổi sáng: một toán lính đứng trước cổng với
công văn gọi đích danh Nguyễn Du lên trình diện quan Trấn thủ Nghệ
An. Tôi tự hỏi: cái gì vậy?Toán lính lặng lẽ dẫn tôi đi không nói một
lời. Tới dinh quan trấn thủ tôi được ra dấu đứng lại nơi giữa sân. Một
người lính bước vào trong, lúc sau anh ta đi ra đứng trước mặt tôi bảo: đi theo
tôi. Tôi được dẫn đi về phía sau ngôi nhà lớn, vượt qua thêm mấy lớp cửa và người
lính ngừng lại trước một gian phòng có những chắn song lớn. Người
lính mở cửa và nói với tôi: có lệnh bắt giam anh. Tại sao? Không một lời giải
thích. Tôi bất ngờ với sự việc. Kẻ cầm quyền khi nào cũng có lý cho hành động của
mình. Tôi bước chân vào trong phòng, người lính đóng mạnh cánh cửa.
Tôi đã trở thành tù nhân. Phải có lý do để trấn thủ Nghệ An
ra lệnh bắt giam mình. Tôi thử tìm kiếm lấy một câu trả lời, nhưng tất cả đều
mơ hồ. Có một buổi sáng tôi thấy khu nhà tù chộn rộn một cách khác thường: từng
toán người được đưa đi sau lại có những toán khác được đưa vào. Tôi chờ đợi đến
phiên mình. Tôi ngồi sát ra cửa đưa mắt quan sát sinh hoạt ở
phía ngoài. Không xa, ở gần một lớp cửa có hai lính gác đang nói
chuyện với nhau. Một giọng khàn: hôm nay quan ra lệnh cho thả hết những
tên trộm cắp sau khi bắt gia đình viết tờ cam kết bảo
lãnh và mỗi tên bị đánh năm trượng, đứa nào khóc la bị đánh thêm hai
trượng. Một giọng khô: có hai thằng ăn trộm trâu không? Có - Hai đứa đó là anh
em mồ côi thì lấy ai bảo lãnh? Còn cái bọn kiêu binh kết bè đảng đi ăn cướp?- Mấy
đứa già yếu bệnh tật được tha, còn những tên khỏe mạnh bị đưa đi đập đá trên
núi. Riêng ba cha con đi đào trộm củ chuối thì không chịu
về - Bọn nó điên à - Thằng bố bảo ở đây không đói, về nhà phải đi ăn
trộm khổ lắm - Quan xử trí làm sao?- Cho lính lôi bỏ ra đường trong khi chúng
kêu khóc thảm thiết. Trại giam đông quá, phải thả bọn nó ra mới có chỗ mà nhốt
bọn khác chứ. Sao nhiều kẻ bị bắt thế nhỉ - Nghe đâu toàn bọn phản động,
trong đó có cả tàn quân của tên Nguyễn Quýnh bị giết lúc trước. bọn phục Lê ở đất
này xem chừng còn nhiều. Lúc sau hai tên lính bỏ đi, cánh cửa được đóng lại.
Tôi nghĩ: chắc là mình nằm trong danh sách rồi, ông anh mình mới làm loạn đó
thôi, trối làm sao được.
Cái mặt của tên phán quan hiện ra với vẻ đáng ghét: anh có
mưu toan, anh chống Tây Sơn, anh định vào phương nam theo Nguyễn Ánh, trấn thủ
Nghệ An bắt nhốt anh là phải rồi. Nhưng sao anh chỉ ở trong tù chưa hơn trăm
ngày đã được tha? Chắc anh đã van xin, đập đầu kêu oan, đã viết cam kết trung
thành với tân triều? Anh nghĩ tôi là một người
như thế sao? Đó là quyền của anh. Tôi chẳng làm gì cả - Anh làm gì ở trong tù
ai mà biết được. Tôi biết chắc một điều: anh có làm thơ. Không sẵn
giấy bút nhưng thơ nó ở trong đầu anh. Ai vào tù cũng ham làm thơ, nhiều khi chỉ
là vè để gửi tâm sự: nào nhớ vợ nhớ con, nào ân hận đã không ở nhà để phụng dưỡng
cha mẹ, có kẻ làm thơ thế sự, có kẻ làm thơ kể khổ, có kẻ làm thơ dặn con về
mai sau, cũng không thiếu những bài thơ mà kẻ viết coi như di ngôn muốn nhắn gửi
cho hậu thế. Có kẻ nói về ngày ra khỏi ngục thất sẽ vẫy vùng
phá tan tất cả những nhà tù trên thế gian này... Ôi thôi thơ trong tù thì vô số
kể. Anh mà ở trong tù lâu hẳn có nhiều thơ để lại cho hậu
thế. Thật đáng tiếc. Khi anh bước chân ra khỏi nhà tù chắc anh biết
vì sao anh được tha.
Tôi chẳng biết gì cả cho tới khi về nhà mới hay: anh Nguyễn
Nễ đã nói chuyện với tướng Tây Sơn tên là Nguyễn Thuận, họ từng là ban với
nhau. Tên phán quan phá lên cười một cách khả ố: họ cùng phe với nhau mà, thế
còn ông anh vợ lúc đó ở đâu? Làm sao tôi biết ông ấy ở đâu... Thế
anh không tức giận vì bị bắt giam sao? Ở trong nhà giam có lúc tôi thấy ở trong
hay ở ngoài cũng thế thôi. Tôi chẳng muốn nghĩ ngợi gì. Tôi buông tôi trôi
đi chẳng thắc mắc là mình sẽ trôi tới đâu. Tôi ngoái cổ nhìn lại đời
mình, tôi chỉ thấy tôi bị đẩy tới không ngừng và tôi đã chẳng hề chủ động quyết
định hay tham dự gì. Thật là khốn khổ phải không?
Phán quan đứng thẳng người hai tay dơ lên trời: Anh kêu khốn
khổ mà tôi thì không thấy, cả đời anh chỉ đi học, làm quan, đọc sách, làm thơ,
khi chết thì nhắm mắt ở kinh đô nhưng xương cốt được đưa về
táng ở quê nhà. Vậy còn đòi gì nữa? Tôi thấy anh tham quá. Bây giờ anh có muốn
sống lại và trở về quê hương không? Không. Không. Trở về đó làm gì? Phán quan gật
gật đầu: tôi biết trước điều anh nói. Anh đã từng viết: Hồn ơi! Hồn ơi! Đông,
Tây,Nam, Bắc không có nơi nào nương tựa đâu! Lên trời, xuống đất đều không được,
Về đất Yên, đất Dĩnh mà làm gì? Anh đã chẳng viết thế để gửi cho hương hồn người
đã nhảy xuống sông Mịch La đó sao? Anh còn bảo: Họ không để lộ vuốt nanh sừng
và nọc độc. Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường. Nghĩa là sao? Chẳng lẽ
anh đã trải nghiệm như thế nơi cõi trần? Anh không muốn trở lại quê hương cũng
có nghĩa anh không muốn trở lại cõi trần, không muốn trở lại làm người? Vậy anh
muốn đi đâu? Tôi phải thú thật với anh: tôi không thể hiểu được anh.
Dương Nghiễm Mậu