Phạm Duy ra đi về cõi vĩnh hằng từ tháng 1/2013.
Kỷ niệm 10 năm ngày mất của ông (2013-2023), tạp chí “Saigon Nhỏ” (Little Saigon, quận Cam, California) đã dành một ấn bản đặc biệt có tựa đề “Bụi phù sa chờ ghé những bờ vai” [1] với bài viết của nhiều tác giả: Khang Thụy, Duyên Anh, Phạm Xuân Đài, Phạm Văn Kỳ Thanh, Ngu Yên, Tuấn Khanh, Nguyễn Hoàng Linh…Trong dịp này, tôi được biết một số bạn hâm mộ nhạc Pham Duy ở Sài Gòn cũng tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày mất của ông, qua đó, đặc biệt tôi được nghe lại giọng ca truyền cảm của ca sĩ Lệ Hồng qua bản “Hẹn Hò”, [2] là một trong những bản nhạc của Phạm Duy mà tôi rất thích.
Tôi đã từng nhiều lần nghe Lệ Hồng hát ca khúc này trong một
“video clip” với tiếng đàn của “guitarist Thiên An” mấy năm trước đây. “Hẹn Hò”
cũng đã được nhiều ca sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước trình bày như Thái
Thanh, Ý Lan, Ngọc Hạ, Quang Dũng, Tuấn Ngọc, Họa Mi, Hương Lan, Thanh Thúy, Đức
Tuấn, Thiên Tôn, Duy Quang, Khánh Ly, Lệ Thu, Thái Hiền, Thanh Hà…Trong số này,
tôi thích nhất là giọng ca mượt mà của hai ca sĩ Ngọc Hạ và Họa Mi.
Dẫu vậy, cái lạ là, so với nhiều ca khúc khác của Phạm Duy,
“Hẹn Hò” lại không nằm trong số những ca khúc phổ biến nhất của ông đối với
công chúng cũng như đối với những nhà văn hay nhà nghiên cứu về nhạc Phạm Duy.
Đọc qua hàng chục bài viết về Phạm Duy, rất ít tác giả đề cập đến ca khúc này.
Thực tình, từ hồi còn nhỏ, võ vẽ tập đàn tập hát, tôi cũng không mấy khi “đụng”
đến nó, có lẽ là vì mấy lý do sau:
- lời
ca kể một chuyện tình yêu tuyệt vọng, nhưng mơ mơ hồ hồ với khá nhiều hình
ảnh ẩn dụ, không mấy gần gũi với mọi người, chỉ trừ hai chữ “mùa
Ngâu”, ám chỉ một chuyện cổ tích mà bất cứ trẻ em nào cũng biết.
- nhạc
điệu lê thê, trầm đều, ít kịch tính và lời ca cũng thế, lê thê, mỗi câu nhạc
dài đến…12 chữ. Đây là một bản nhạc không… khó hát, nhưng hát…khó hay. Tôi
thích đọc lời ca, nhưng không mấy khi hát, dù chỉ hát cho mỗi một mình
nghe.
Nhắc lại việc sáng tác “Hẹn Hò”, Phạm Duy cũng chỉ nói qua
loa trong hồi ký của ông. Ông cho biết, bản nhạc này chịu ảnh hưởng của dân ca,
“được xây dựng trên giai điệu ngũ cung, kể lể một câu chuyện tình thảm thiết,
giống như chuyện Ngưu Lang Chức Nữ.” (Hồi ký Phạm Duy, chương 3). [3]
Giai điệu ngũ cung, hèn gì! Đúng thế. Toàn bản nhạc chỉ xoay
lui xoay tới trong có năm nốt nhạc: Đô, Rê, Fa, Sol, La. Đã thế, chỉ trừ đoạn
điệp khúc có hơi khác đôi chút, còn tất cả những câu 12 chữ, thì 5 chữ ở giữa
câu đều cùng một nốt, chẳng hạn:
(Một người ngồi) bên kia sông im nghe (5 nốt
sol)…
(Trời thì mưa) rơi mưa rơi không ngưng (5 nốt
rê)…
Rõ ràng tác giả có dụng ý làm cho bài hát trở nên lê thê,
phù hợp với câu “chuyện tình thảm thiết” mà ông “kể lể”. Mà thảm thiết thật!
Trong truyện cổ, Ngưu Lang và Chức Nữ chỉ bị chia cách, nhưng rồi được gặp lại
nhau hàng năm, do đó, những giọt nước mắt “mùa Ngâu”, dù sầu khổ, nhưng chỉ là
nước mắt tạm biệt. “Hẹn Hò” của Phạm Duy, ngược lại, là vĩnh biệt. Chúng ta hãy
theo dõi lại diễn tiến câu chuyện tình bi thảm này.
Hai người yêu nhau hẹn hò ở một địa điểm nào đó – bến đò hay
một nơi vắng vẻ chẳng hạn – của dòng sông. Vào mùa nước cạn, có lẽ họ có thể
qua lại dễ dàng để gặp nhau. Nhưng rủi thay, khi đến chỗ hẹn thì gặp tiết tháng
Bảy mưa Ngâu, trời mưa liên tục, dòng sông nước lớn, không cách gì “sang sông”
được. Cả hai đành ngồi, mỗi người ở một ven sông, người thì “im nghe”, người
thì “trông hoa trôi”, chờ cho đến khi “chóng tạnh mùa Ngâu”:
Cuối
cùng, dù không trao đổi được với nhau bằng lời, nhưng cả hai đều hiểu từ trong
trái tim của nhau rằng chỉ còn một cách để họ có thể “gần nhau” là “sông nước”:
Đó là nơi không còn ai có thể chia cắt được mối tình da diết
của họ. Phạm Duy kết thúc câu chuyện tình bi thảm bằng niềm hy vọng rằng người
đời sau sẽ lấy đó làm gương: đừng bao giờ tìm cách cản trở mối tình của đôi lứa
yêu nhau:
…cho
phong phú đời người sau
Cuộc tình “Hẹn Hò”, như thế, trông có vẻ còn “bi kịch” hơn cả
cuộc tình Romeo-Juliet của Shakespeare: trong lúc Romeo và Juliet chọn cái chết
vì do hiểu lầm, thì đôi trai gái trong “Hẹn Hò” chọn cái chết vì
do quá hiểu lòng nhau. Cũng là một cách nói cho vui thôi. Bi kịch
là bi kịch!
Thời tôi còn nhỏ, khoảng thập niên 1960, mỗi khi cầm đến bản
nhạc này là tôi nghĩ đến những vụ tự tử vì tình thỉnh thoảng lại xảy ra ở Huế.
Phần nhiều trong số đó là các cô gái lứa tuổi mười tám, hai mươi nhảy tự tử ở
sông Hương, trên cầu Bạch Hổ, gần cồn Dã Viên – nơi nước sông thì sâu mà đoạn cầu
này lại rất vắng vẻ – vì gia đình hai bên không tán thành mối tình của họ, hoặc
do không “môn đăng hộ đối” hoặc do những nguyên nhân riêng biệt khác, “làm
cho đôi bên yêu nhau cách một biển sâu.” Cũng có vài vụ tự tử gây chấn
động toàn thành phố như vụ một cặp trai gái uống thuốc tự tử chết cả hai ở lăng
Thiệu Trị (hay Minh Mạng?), hay vụ một cặp khác cũng uống thuốc tự tử, chàng
trai thì chết nhưng cô gái được cứu sống, ở vùng Gia Hội. Cuộc tình của hai cặp
này rõ ràng là hao hao cuộc tình trong “Hẹn hò”.
Thực ra, theo tôi, cảm hứng để Phạm Duy sáng tác ca khúc này
có lẽ không xuất phát từ một câu chuyện có thực như thế, mà là từ sự đào sâu ý
niệm về tình yêu của ông: một tình yêu tuyệt đối. Một mặt, lời ca tuy chứa đựng
nhiều chi tiết hiện thực, nhưng mơ mơ hồ hồ, có tính cách tượng trưng, bóng bẩy
hơn là “tả thực” như ta có thể tìm thấy trong nhiều ca khúc hiện thực khác của
ông. [4] Mặt khác, cũng trong hồi ký, khi đề cập đến “Hẹn Hò”, ông có nói
thêm, “Đây là lúc tôi hay nói tới chuyện thiên thu. Phải sống bon chen
với thực tại, thỉnh thoảng tôi muốn sống với viễn mơ.”
Trên đây, tôi đã phân tích “Hẹn Hò” dựa theo nội dung văn bản:
một cuộc tình bi thảm. Tuy nhiên, có một chi tiết khiến tôi nghĩ đến một cách
giải thích khác, đó là, trong ấn bản đầu tiên (1954), vào cuối bản nhạc, tác giả
có ghi: Saigon 1954 (thời chia đôi đất nước). Ông viết trong hồi
ký: “Vào thời điểm này không phải chỉ có tôi viết về đất nước mến yêu hay soạn
những bài hát nhớ quê hương khi đang sống trên quê hương. Cuộc di cư năm 54 của
một triệu người đã khiến Vũ Thành soạn bài Giấc Mơ Hồi Hương, Hoàng Dương
viết bài Hướng Về Hà Nội.” Ngoài ra, một số ca khúc khác vào
giai đoạn này cũng đề cập đến chuyện chia đôi đất nước như “Tình cố đô”, “Chuyến
đò vĩ tuyến” (Lam Phương), “Về đây anh” (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng)…Cho nên,
dù ông nói bản “Hẹn Hò” là để “xưng tụng ái tình”, nhưng rõ ràng Phạm Duy sáng
tác ca khúc này trong nỗi ám ảnh – có thể là vô thức – của biến cố chia cắt đất
nước mà hậu quả nặng nề của nó đang tác động trên mọi mặt của đời sống cá nhân
cũng như xã hội lúc bấy giờ. Con sông trong ca khúc có phần chắc là hình ảnh của
sông Bến Hải chia đôi đất nước; hai người ngồi hai bên sông có phần chắc là
hình ảnh của người Việt ở hai bên bờ sông. Đọc kỹ lại từng câu, từng ý, và cả từng
nhóm chữ, ta sẽ thấy hiện ra rành rành nỗi đau chia cắt: “đôi bên yêu nhau cách
một biển sâu”, “cách biệt dài lâu”, “biết thuở ban đầu”, “bắc cầu”, “sông nước
gần nhau”, vân vân.
Tuy nhiên, đất nước cũng như con người có lúc thăng lúc trầm,
có lúc nhiễu nhương nhưng cũng có lúc thái bình an lạc. Trong cái buồn thảm, có
chứa đựng niềm lạc quan về tương lai:
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau.
Dù hiểu theo cách nào, tôi cho đó là ý nghĩa tích cực mà Phạm
Duy muốn gửi cho chúng ta qua ca khúc chứa đầy chi tiết tiêu cực này.
Trần Doãn Nho
[1] https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/qua-tang-pdf-tuong-niem-10-nam-ngay-mat-pham-duy/
[2] https://www.youtube.com/watch?v=e8_6305LLa4
[3] http://www.phamduy2010.com/phamduy_viethtml/hoiky/hoiky3/chuong_3.html
[4] Về sự “tả thực” này, xem thêm Trần Hữu Thục, Tính
hiện thực trong lời ca của Phạm Duy.
https://www.diendantheky.net/2022/04/tran-huu-thuc-tinh-hien-thuc-trong-loi.html