Trong số các bạn, có những người đã ra đi không bao giờ trở
lại, em tôi là một trong những người đó. Người dân Miền Nam vẫn luôn giữ hình ảnh
hào hùng của các bạn trong trái tim với lòng biết ơn bao la.
Thầy Năng Tĩnh ở một mình trong ngôi Chùa nhỏ vùng ngoại ô, rất xa thành phố. Ngôi Chùa chỉ là chiếc “mobile home” trên vài mẫu đất, trước kia là một nông trại bé tí teo, có hàng rào kẽm gai chung quanh để trại chủ nuôi bò. Từ ngày lập Chùa, Thầy chỉ nuôi một con chó nhỏ để làm bạn và mấy con gà trống, thả chạy tự do đặng nghe tiếng gáy cho vui. Sát hàng rào Thầy trồng mấy dây mùng tơi, khổ qua, giàn bầu và mướp trái xum xuê, bên cạnh đó là mấy luống cải xanh, rau thơm, cà pháo. Sân trước, Thầy đào chiếc hồ xinh xinh, có hòn non bộ, đầy đủ cảnh “Sơn Thủy Tùng Đình” với “Ngư Tiều Canh Mục”, trông cũng vui mắt. Trong hồ có cá vàng bơi lội tung tăng, vài con rùa thỉnh thoảng lại trồi lên mặt nước ngoe ngoảy. Những lúc rảnh rỗi, Thầy ra ngồi trên chiếc ghế đá đặt cạnh hồ đọc sách hoặc uống trà, có khi ngồi thiền nữa. Đúng là khung cảnh nhà quê Việt Nam của kẻ nhàn hạ ẩn dật. Kể ra cuộc sống cũng tạm đầy đủ, thỉnh thoảng có khách lại thăm, mang cúng dường vài bao gạo, mấy chai tương đủ cho Thầy dùng cả năm. Phật tử theo Thầy đa số là bạn bè cũ, hoặc mấy người theo học khóa tu thiền. Thầy cất mấy cốc nhỏ sau chánh điện làm phòng ngủ cho chính Thầy và cho khách phương xa cần ở lại.
Thỉnh thoảng Chùa vẫn mở khóa tu thiền, thường kéo dài từ 4
ngày đến 1 tuần. Phật Tử đến tu tập xúm nhau nấu ăn tập thể, nghe Thầy thuyết
pháp và tập thiền, đa số là những người lớn tuổi, thời giờ rảnh rỗi, muốn tìm về
nơi yên tĩnh để được hít thở không khí trong lành, như một cuộc nghỉ mát hằng
năm cho tâm hồn thư giãn. Chùa ở xa thành phố nên cũng it khách thập phương
vãng lai. Thầy là người điềm đạm, thông thái và vui tính. Ai có điều khó giải
quyết trong gia đình cũng lại Chùa để trút bầu tâm sự và nghe lời Thầy chỉ dẫn.
Thầy đã lăn lóc hơn nửa đời người ngoài đời nên cũng có chút kinh nghiệm về đời
sống gia đình. Dạo gần tết, có người biếu Thầy một chậu mai vàng, Thầy vẫn
chưng trong phòng khách cùng với mấy chậu kiểng bonsai. Bên Mỹ, loại mai rừng
năm cánh dài và nhỏ xíu thì rất nhiều, nhưng Mai Việt Nam thì hiếm, quý lắm, thế
mà có người trồng được, hay họ nhập cảng từ Việt Nam không chừng. Phòng khách,
phía sau chánh điện, trên tường có treo bức tranh thật đẹp, có lẽ Phật Tử vẽ tặng
Thầy; Hình một tháp chuông của ngôi Chùa nào đó, ở góc tháp, chỉ thấy chiếc áo
nâu của vị Sư đang nhìn về phía núi rừng trước mặt, trong buổi chiều tà. Phía
dưới hình tháp chuông là bài kệ “Cáo Tật Thị Chúng” của Thiền Sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Bài kệ này đã được cụ Ngô Tất Tố dịch ra như sau:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Bài kệ đã được sáng tác hàng ngàn năm trước từ đời vua Lý
Nhân Tông, có lẽ sẽ còn truyền tụng nhiều ngàn năm sau và mãi mãi. Thiền Sư Mãn
Giác đã khéo léo dùng hình ảnh hoa rụng rồi hoa nở để nói lên kiếp luân hồi của
chúng sanh, như thiên nhiên có đi rồi có về, giòng đời vẫn trôi vô tình.
Một buổi chiều cuối tuần có người khách từ phương xa đến
trao cho Thầy tấm thiệp. Thầy Năng Tĩnh cầm tấm thiệp, lật qua lật lại xem tỉ mỉ.
Tấm thiệp cũ kỹ, bạc màu, đã sờn rách mấy góc cạnh, không có địa chỉ người gởi
nhưng địa chỉ người nhận đã bị sửa đổi nhiều lần, chứng tỏ nó đã chuyền qua nhiều
người trước khi tới tay Thầy. Thầy lẩm nhẩm đọc tấm thiệp từ Việt Nam gởi tới:”
Nội của cháu nhắc đến Ông luôn, Nội đã mất rồi. Cháu tình cờ đọc được bài viết
về Ông trên mạng. Cháu cám ơn Ông và bạn của Ông đã cứu gia đình cháu, Huế, Mậu
Thân.” Thầy nhìn mãi tấm thiệp như đang nhìn hình ảnh đời Thầy trong dĩ
vãng.
Thầy Năng Tĩnh sinh ra và lớn lên ở Huế. Những gì còn lại
trong Thầy chỉ là mấy bài thơ nhớ Huế, và vài kỷ niệm của cậu “Bé Tư” hoang
đàng chơi nhiều hơn học.
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
(Đây Thôn Vỹ Dạ, Thơ Hàn Mặc Tử)
Thời niên thiếu của Thầy là cả một trời mộng mơ với bao kỷ
niệm êm đềm. Mỗi khi trời se lạnh, rong chơi trên những con đường Thành Nội, ngắm
những tà áo trắng học trò khoác hờ một chiếc áo len đủ màu, ôi dễ thương làm
sao! Những buổi trưa hè cùng đám bạn “Trời đánh” đạp xe ra hồ Tịnh Tâm hay lên
đồi Vọng Cảnh hoặc nằm dưới gốc mấy cây Phượng Vỹ hoa đỏ rực gần cầu Trường Tiền.
Huế chỉ còn lờ mờ trong ký ức đâu đây. Chùa Linh Mụ trang nghiêm soi mình trên
giòng sông Hương thơ mộng, núi Ngự Bình hiền hòa như vòng tay Mẹ dang ra ôm những
người con xứ Huế vào lòng. Còn gì nữa nhỉ, phải rồi, những buổi hẹn hò đi ăn
chè Cồn, ăn cơm Âm Phủ, bún bò Huế ở cái quán sập xệ bên đường quốc lộ 1,
dưới gốc tre già, ngon tuyệt vời và cay xé họng, hay những ngày còn bé bỏng
lẽo đẽo theo Mạ trong chợ Đông Ba. Vâng, chỉ có thế thôi, còn lại là máu và nước
mắt. Máu của đồng đội và nước mắt của những bà mẹ mất con, người vợ mất chồng.
Huế là những tang tóc điêu tàn của Tết Mậu Thân, là ngơ ngác lo âu hoảng loạn của
nhũng ngày cuối cùng thời VNCH.
Đời người thật ngắn ngủi, mới hôm nào đây, Thầy còn là một
chàng trai trẻ “Cậu Tư” vẫn cắp sách đến trường, rồi bị gọi động viên vào quân
ngũ. Cậu mê màu xanh rằn ri và cuộc sống hào hùng của những “Thủy Thần Mũ
Xanh”, thế là tình nguyện gia nhập TQLC. Trải qua bao nhiêu gian khổ, sống chết
trong gang tấc. Những đứa con yêu xứ Huế đã mấy lần cứu đất Mẹ, để trả một chút
ân tình cưu mang. Tết Mậu Thân, hối hả theo đơn vị từ Saigon về Phú Bài, suốt gần
một tháng hành quân giải tỏa, đổ bao nhiêu xương máu của anh em, bạn bè, đồng đội
để giành lại từng căn nhà, từng con đường, cuối cùng cũng treo được lá cờ vàng
trên kỳ đài Huế, lính tráng vỗ vai nhau cười mừng rỡ. Cha Mẹ ở đó, bà con
anh em ở đó, Thầy cô ở đó, ngôi trường thân thương thời niên thiếu ở đó, bây giờ
đã chiếm lại được! Cái giá phải trả quá cao nhưng vẫn là đáng giá. Đã là trả chữ
hiếu thì nghĩ gì đến giá cả! Đơn vị lúc ra đi đầy đủ quân số, giải tỏa
xong chỉ còn lại một phần ba.
“Mùa Hè Đỏ Lửa” Cậu Tư theo đoàn quân cấp tốc từ Ái Tử kéo về
dàn hàng ngang bờ nam sông Mỹ Chánh. Bắc quân, với quân số cao gấp mấy lần,
đang hùng hổ vượt sông Bến Hải kéo nhanh về phương nam, Hy vọng sẽ chiếm Huế một
lần nữa trong thời gian rất ngắn, nhưng bị khựng lại ngay bờ sông Mỹ Chánh. Những
đứa con yêu đất Thần Kinh đã dựng một bức tường lửa ngay ở đó đốt rụi đám quân
“Sinh Bắc Tử Nam” điên cuồng, rồi đẩy bật “những con thiêu thân” đó ra khỏi Cổ
thành Quảng Trị. Máu đổ thịt rơi, trên 3.000 chiến hữu đã bỏ mình để đổi lấy sự
tự do cho miền địa đầu giới tuyến. Quảng Trị ơi, quê hương ta đấy!. Quê hương đầy
máu lửa và hận thù, do giặc phương Bắc mang đến. Thời trai tráng đã đi qua mau
chóng sau những chiến trận đẫm máu, Cậu Tư đã trở thành Ông Tư lúc nào không biết.
Tháng 3 năm 75, đám bạn bè của Ông muốn cứu đất Mẹ lần thứ
ba, nhưng không còn cơ hội nữa, thế là “Gãy Súng”, thế là “Tan Hàng”, nhưng
không ai còn nhớ những đứa con thân yêu bị bỏ rơi ở cửa biển Thuận An, ở Non Nước
Đà Nẵng. Đồng đội của Ông đã hy sinh trên những “Pháp Trường Cát” đó. Người ta
đã quên đi, nhưng Ông thì không, bạn bè, anh em còn nằm lại đó, làm sao quên được.
Ông Tư bị đi tù cải tạo tận miền Bắc, ngày được tha về, vợ
Ông đã qua đời. Gia đình cha mẹ chẳng còn ai. Nhà cửa bị tịch thu, đứa con gái
nhỏ vượt biên chẳng ai biết tin tức ra sao. Nghĩ đến gia đình tan nát, đúng là
cảnh “Nước mất nhà tan” Ông lại ứa nước mắt. Ông tự hỏi từ ngày đi tù cải tạo,
vợ con Ông làm sao để sống? Bao nhiêu cay đắng nhọc nhằn nay mới được dịp tuôn
trào như nước vỡ bờ. Ông theo người bạn, sắm một thùng đồ nghề nho nhỏ để sửa
xe đạp, “bản doanh” đặt ở gốc cây gần ngã tư. Thời điểm đó chương trình
đoàn tụ gia đình (ODP) đang lên cao. Nhờ chút vốn liếng Anh Văn trong những lần
Quân Đội cho tu nghiệp bên Mỹ trước kia, Ông đổi nghề làm Thầy dạy Tiếng Anh tại
tư gia cho những gia đình sắp đi đoàn tụ, học trò của Ông nhiều quá phải chia bớt
cho đám bạn tù khác. May mắn gặp người bạn giới thiệu dạy mấy lớp tiếng Anh
trong một trường tư thục, cũng tạm đủ sống. Lúc nạp đơn theo diện HO đi Mỹ,
Ông vẫn còn lưỡng lự giữa đi và ở lại, cuối cùng Ông quyết chí ra đi để tìm đứa
con thất lạc.
Qua Mỹ, nhờ bạn bè cũ, ra đi từ trước, giúp đỡ kiếm việc và
hướng dẫn hội nhập vào đời sống mới. Việc làm lao động cực nhọc, dù cực mấy
cũng không bằng những năm tù cải tạo. Ông làm việc không nghỉ, những ngày cuối
tuần lại đi làm công quả ở Chùa, để khỏi phải nhớ về dĩ vãng. Ông muốn quên đi,
nhưng không làm sao quên được.
Có những đêm mệt mỏi đặt lưng xuống giường nhưng mắt vẫn mở
thao láo, dĩ vãng lại ùn ùn kéo về như mây mùa thu. Đôi khi chợt thấy mình còn
đang nhọc nhằn trong trại tù cải tạo, giật mình thức giấc nửa đêm, mồ hôi ướt đẫm
áo ngủ, sờ xoạng trên tấm nệm một lúc mới tin rằng mình đang ở bên Mỹ. Có những
lúc thương nhớ người vợ đã ốm đau trong lúc nước mất nhà tan, chồng tù tội,
không thuốc thang, rồi đột ngột bỏ đi về bên kia thế giới không lời từ giã với
Ông, để lại đứa con gái trẻ dại, không biết nương tựa vào đâu, Ông ngồi khóc một
mình trong nỗi cô đơn nơi xứ lạ quê người. Đứa con vẫn chẳng có tin tức
gì.
Thỉnh thoảng đám bạn già lại tụ họp nhau ôn lại chuyện xưa,
vỗ về an ủi nhau, ai còn ai mất. Ai hiểu được lòng thổn thức nỗi niềm mất nước
nhà tan, lưu vong nơi xứ người?. Những vết thương xưa trong lòng hầu như khó
lành, thỉnh thoảng lại vỡ ra. Hãy quên đi! Hãy quên đi! Hãy quên đi! Giọt nước
mắt lưng tròng không gọt rửa được tủi nhục và lòng thương nhớ anh em bạn
bè, những kẻ kề vai sát cánh, sống chết với mình đã vĩnh viễn nằm lại.
Mỗi lần nghe bản nhạc:”Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân
yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” Đám bạn bè của Ông cúi đầu mắt đỏ hoe. Ai
hiểu được nỗi niềm của kẻ tha hương muốn đem nắm xương tàn về với quê hương bên
đồng đội của mình:
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu Đ
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.
(Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển. Thơ Nguyễn Văn Phán)
Một ngày giúp Sư Cụ dọn dẹp kệ sách trong Chùa, bất ngờ đọc
được bài kệ của Thiền Sư Mãn Giác. Tục truyền rằng bài kệ đó, Thiền Sư đã ban
cho các đệ tử trước khi Ngài viên tịch, để an ủi những người còn thương tiếc
Ngài. Ông Tư ngộ ra rằng kiếp nhân sinh là vô thường nên quyết tâm
cạo đầu xin quy y làm đệ tử Phật Môn. Sư Cụ cũng hoan hỷ chấp thuận. Ông Tư nay
đã trở thành Thầy Năng Tĩnh, sớm hôm theo Sư Cụ học đạo và tụng kinh.
***
Thầy Năng Tĩnh chợt nhớ ra, tuần lễ đầu tiên về giải tỏa Huế
trong trận đánh Mậu Thân, đơn vị của Thầy đã mất một phần ba quân số chỉ để
băng qua một con đường, tiến vào khu trường học. Hóa ra ngôi trường là khu giam
giữ những người dân chẳng may lọt vào tay lũ Việt Cộng nằm vùng. Hằng đêm
chúng mở ra phiên tòa, buộc những tội vu vơ hay chỉ là tư thù cho người bị bắt
rồi mang đi thủ tiêu. Một số người may mắn được đơn vị Ông cứu kịp, thoát chết,
mặt mày ngơ ngáo, đói khát, trong đó có gia đình người Thầy giáo biệt phái bạn
học cùng trường với Ông. Người bạn đã ôm chặt lấy Ông và khóc ròng. Nhiều người
đã quỳ xuống đất lạy tứ phương như cám ơn những người lính VNCH và Trời Phật đã
cứu họ vừa đúng lúc. Lính tráng chẳng có nhiều đồ ăn nhưng cũng chia cho đám
“tù nhân” thê thảm đó ít cơm sấy ăn đỡ lòng. Đứa bé viết lời cám ơn gửi tới Ông
chắc là cháu của Ông Thầy giáo hay là của một người nào đó trong đám tù nhân được
Ông và đồng đội giải thoát.
Đôi tay run run, Thầy lau nhẹ hai giọt lệ lăn trên gò má rồi
tất tả đi vào chánh điện lạy Phật, tụng một hồi kinh sám hối. Thầy bước qua góc
phải đến trước bàn thờ Hương Linh, trên bàn thờ có hình ảnh 5 vị Tướng VNCH tuẫn
tiết và thấp thoáng rất nhiều hình ảnh các cựu chiến binh. Thầy thắp nhang, vái
lạy và ngồi tụng một hồi kinh. Tiếng Thầy sang sảng nhịp đều theo tiếng mõ. Thỉnh
thoảng âm vang tiếng chuông giải thoát trong không gian tĩnh mịch như muốn thức
tỉnh những ai còn đang u mê trong cõi trầm luân.
Nửa đêm, Thầy chợt tỉnh giấc, trong tay vẫn cầm tấm thiệp,
nước mắt còn hoen ố trên mi. Thầy thì thầm đọc bài kệ của Thiền Sư Mãn
Giác:
“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai”
Đúng vậy, Chết không phải là hết, Miền Vĩnh Cửu vẫn là điều
mong ước như cành mai còn nở vào độ xuân tàn. “Nhất Chi Mai” tượng trưng cho niềm
hy vọng, chân thiện mỹ. Những sự hy sinh bản thân mình của các vị anh hùng cho
tha nhân giống như những giá trị siêu việt, vẫn trường tồn bất diệt. Thầy mỉm
cười, khoác thêm tấm áo lạnh, đầu chùm chiếc mũ len, lặng lẽ đi ra phía bờ hồ,
con chó con lẽo đẽo theo sau. Thầy châm lửa đốt tấm thiệp, rồi ngồi tọa thiền đến
lúc nghe tiếng gà gáy, con chó vẫn nằm yên dưới chân chủ nó. Thầy thủng thẳng đứng
dậy, đi về hướng chánh điện. Sau một đêm tọa thiền, ánh sáng ban mai đã xua đuổi
hẳn màn đêm tăm tối ra khỏi bàu trời mênh mông và ra khỏi tâm trí Thầy Năng
Tĩnh. Thầy chậm rãi đi về chánh điện để tụng hồi kinh sớm mai.
Thầy là người tu hành, những tưởng rằng nương tựa cửa Phật
thì sẽ quên mọi sự nhưng dù sao Thầy cũng chỉ là con người như trăm ngàn con
người khác với đủ cả “hỉ nộ ái ố” … và một tấm lòng từ bi, một trái tim biết
xót thương đồng loại!