Hình chụp trẻ em tị nạn Việt Nam tại một trại tị nạn ở Hong
Kong
Ông Jimmy Carter, hồi 98 tuổi, đã rời bệnh viện về nhà sống những ngày cuối cùng. Ông qua đời hôm nay, 29 tháng 12, 2024. Ông là vị tổng thống Mỹ thọ nhất và sống một đời an vui, như Khổng Tử nói, “Người trí sống vui, người nhân sống thọ” (Trí giả lạc, nhân giả thọ, Luận Ngữ, VI, Ung Dã). Ông là người đáng được các thuyền nhân Việt Nam nhớ ơn.
Carter có đức tin rất mạnh, ông thường đến dạy giáo lý ở nhà
thờ. Khi ra tranh cử năm 1976, ông nói với các cử tri: “Tôi sẽ không bao giờ lừa
dối quý vị.” Có người đùa rằng ông nói như thế là mất hết phiếu của những người
nói dối! Nhưng ông đắc cử, sau khi, qua thời Tổng thống Richard Nixon, dân Mỹ
đã phải nghe quá nhiều chính trị gia nói dối. Phó tổng thống của ông, Walter
Mondale nói rằng đối với Carter việc dùng thủ đoạn chính trị để kiếm phiếu là một
điều nhơ bẩn, “Nếu muốn Carter làm một dự án nào mà nói rằng cái này rất lợi về
chính trị, thì chắc ông sẽ bác bỏ.”
Làm việc chăm chỉ không phải là đức tính quan trọng nhất của
người lãnh đạo quốc gia, nhưng ông Carter làm việc 12 giờ, đọc 200 trang tài liệu
mỗi ngày. Và ông đã làm được nhiều việc đáng kể. Ông giúp Israel và Ai Cập giải
hòa ký thỏa ước hòa bình Camp David, từ đó hai nước không còn đánh nhau nữa.
Ông ký thỏa ước SALT II với Nga kiểm soát vũ khí nguyên tử, một bản thỏa ước mới
bị ông Vladimir Putin xóa bỏ. Ông là vị tổng thống đầu tiên, trong bang giao quốc
tế, nhấn mạnh đến điều kiện tôn trọng nhân quyền. Ông cũng cải tổ chính sách di
dân.
Người Việt Nam tị nạn cộng sản biết ơn Jimmy Carter. Sau 30
tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người Việt chạy trốn chế độ cộng sản. Trong 2
năm cuối của Tổng thống Gerald Ford, Hoa Kỳ đã thâu nhận khoảng 150.000 người tị
nạn. Đại tá Vũ Văn Lộc ở San Jose, ký tên Giao Chỉ, từng kể lại, ngày 5 tháng 7
năm 1978, Tổng thống Carter kêu gọi các tàu Mỹ, dân sự cũng như quân sự, đang
có mặt tại Thái Bình Dương thì phải vớt thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ cộng
sản. Ông đã quyết định cứu người vượt biển mặc dù đa số dư luận dân Mỹ lúc đó
không muốn.
Năm 1979, “Báo Time đã ghi nhận có đến 300 ngàn người chết
trên đường vượt biển. Đã có 65 quốc gia tiếp nhận nhưng … thuyền nhân còn tràn
ngập các trại tỵ nạn.” Các nước Đông Nam Á không muốn chịu gánh nặng này, “443
người đến Hồng Kông, Macao, bị cảnh sát kéo ra biển, gặp trận bão Hope chết
không còn người nào.” Giao Chỉ viết, “Dân Việt kéo về Hoa thịnh Đốn thắp nến cầu
nguyện trước tòa Bạch Cung. Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn
nến lung linh. Những linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm.”
Trước cảnh đó, Tổng thống Jimmy Carter ký “Đạo Luật Người Tị
Nạn,” (Refugee Act of 1980) do Nghị sĩ Edward Kennedy đề ra để nước Mỹ nhận người
tị nạn dễ hơn trước. Đạo luật thông qua ngày 17 tháng 3, 1980, sửa đổi “Đạo luật
Nhập cư và Quốc tịch,” và các thủ tục trong “Đạo luật Hỗ trợ người Tị nạn và Di
dân” năm 1962. Ông tăng ngân khoản giúp người tỵ nạn Việt Nam từ 7 ngàn lên 14
ngàn một tháng. “Họ sẽ được đối đãi tử tế theo từng trường hợp và thủ tục tị nạn
dễ dàng để quyết định nơi nào họ muốn đến!” Và, “Sở Di Trú và Nhập Tịch, sẽ hỗ
trợ tối đa các chuyến đi của họ, đến các trại tị nạn, giúp họ khi chọn tái định
cư tại Mỹ!”
Tin tức về tàu Mỹ vớt thuyền nhân bay về Việt Nam, thêm nhiều
người vượt biển trong những năm 1979, 80, dù ai cũng biết những tai nạn, bão tố,
hải tặc, dù hàng trăm ngàn người đã chết trên biển. Số lượng “thuyền nhân,” gia
tăng mạnh, họ cập bến các nước Thái Lan, Malaysia, Hồng Không, Indonesia, Úc và
bị đuổi, nhiều nơi đã kéo các chiếc thuyền mong manh của người tỵ nạn ra ngoài
đại dương.
Do lệnh của Tổng thống Carter, thuyền trưởng tất cả các tàu
Mỹ, có thể cam kết với chính quyền tại những hải cảng đó rằng, Sở Di Trú và Nhập
Tịch Mỹ sẽ nhanh chóng sắp xếp cho những người tị nạn nhanh chóng đến nơi định
cư. Những con tàu Tình Thương từ nhiều quốc gia, Pháp, Đức, Đan Mạch… ra khơi,
tổng cộng đã vớt được trên 3 ngàn thuyền nhân. Nếu không có ông Carter ra lệnh
cứu vớt và thâu nhận họ vào Mỹ định cư, thì chắc chắn không có phong trào này!
Khi gặp thủ tướng Israel, Manachem Begin, ở Camp David, ông
Carter cũng nhắc đến tình trạng thuyền nhân Việt Nam, so sánh với cảnh những
người Do Thái tị nạn trước đây. Giao Chỉ kể, “Tháng 10 năm 1979, một tàu Israel
trên đường đi Nhật đã cứu 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm
ơn ông Carter.”
Do lệnh của ông Carter cho bộ quốc phòng, Đệ thất hạm đội
dành 5 tuần dương hạm để cứu thuyền nhân. Tháng 6, 1988 chiến hạm Mỹ USS
Dubuque gặp một con tàu tị nạn đi từ Bến Tre, sau 19 ngày lênh đênh trên biển,
nhưng chỉ tiếp tế nước và thực phẩm, không cứu và không báo cho tàu khác cứu vớt.
Ông hạm trưởng tàu USS Dubuque đã bị đưa ra tòa án quân sự. Con thuyền Bến Tre
trôi dạt 37 ngày, từ 110 người chỉ còn sống 52 người; sau được tàu đánh cá
Philippines cứu đưa về đảo Bolinao.
Theo con số của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR), khoảng gần nửa
triệu người đã chết trên thuyền vượt biển. Tổng thống Carter đã gởi Phó Tổng thống
Walter Mondale sang Geneva, Thụy Sĩ để họp cùng Cao Ủy Tị Nạn và các nước khác
bàn việc giúp đỡ thiết thực người tị nạn Việt Nam. Cao Ủy Tị Nạn đã thay mặt
Hoa Kỳ, thương lượng với Hà Nội, để bắt đầu chương trình tái định cư ODP, cùng
các chương trình HO, con lai về sau này.
Tháng 8 năm 1979, để thuyết phục dân Mỹ, Tổng thống Carter
nói trong một cuộc gặp gỡ hơn 2,000 người: “Cho tôi nhắc với quý vị rằng, Hoa Kỳ
là một quốc gia của di dân. Cha ông chúng ta là di dân! Chúng ta là một quốc
gia của những người tị nạn. Những người tị nạn Việt Nam từng là đồng minh của
chúng ta, trong cuộc chiến tranh Việt Nam chống sự bành trướng của chủ nghĩa cộng
sản. Họ đang chạy trốn khỏi một xứ đã tước đi tất cả các quyền căn bản của họ.
Họ tin vào giá trị, khả năng của mỗi người, cùng sự tự do cá nhân.”
Sinh năm 1924 tại tiểu bang Georgia, Tổng thống Jimmy Carter
tốt nghiệp kỹ sư tại Học Viện Hải quân, phục vụ tại các hạm đội Đại Tây Dương,
Thái Bình Dương. Năm 1963, ông đắc cử vào Thượng viện Georgia, năm 1971, ông đắc
cử thống đốc và từ năm 1977 ông làm tổng thống.
Ông Jimmy Carter gặp rất nhiều điều không may mắn trong hai
năm sau cùng. Chiến tranh Iran-Iraq làm giá dầu lửa tăng lên 120%, gây nạn lạm
phát khắp thế giới, tại Mỹ lên tới 14.6%. Dân Iran biểu tình chiếm tòa đại sứ Mỹ,
bắt con tin. Liên Xô tấn công chiếm đóng Afghanistan. Năm 1980 ông thất cử.
Nhưng nhờ các chính sách của ông Paul Volcker, do ông Carter bổ nhiệm làm chủ tịch
Ngân hàng Trung ương (Federal Reserve), lạm phát đã chấm dứt khi Tổng thống
Ronald Reagan nhậm chức và kinh tế bắt đầu hồi phục từ năm 1982.
Sau khi rời Tòa Bạch Ốc, ông Carter trở về thị trấn Plains,
nơi ông làm chủ một trang trại trồng đậu phộng. Ông sống giản dị trong một ngôi
nhà hai phòng ngủ trị giá $167.000 đô la, sau mỗi bữa ăn vẫn tự rửa chén, mỗi
Chủ Nhật lại đi dạy giáo lý ở nhà thờ.
Ngày 15 tháng Bảy năm 1979, ông Carter đọc một bài diễn văn
vẫn còn đáng đọc lại. Ông than rằng, “Trong một quốc gia xưa nay vẫn tự hào là
chăm chỉ làm việc, gia đình vững chắc, xóm làng đoàn kết, và lòng tin vào Thượng
Đế, bây giờ nhiều người trong chúng ta chỉ lo thỏa mãn cho mình và tôn thờ việc
tiêu thụ. Con người không còn được thẩm định qua các việc mình đã làm mà qua những
gì mình sở hữu.” Ngày nay, có thể thấy đó cũng là một lời tiên tri