Đây là chuyện tình yêu xưa, xa xưa lắm rồi, nhưng dư âm vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến thế hệ chúng ta hôm nay… hình như con người sống nương tựa rất nhiều vào tình yêu… tình yêu cho con người nhiều ý nghĩa thiêng liêng, nhiều gia vị đậm đà đáng sống. Nếu hỏi tại sao là vậy, thì thưa rằng bên cạnh tình yêu và cuộc mưu sinh, ta còn có những gì? Bầu cử ư, bầu cử đã qua rồi, ngã ngũ rồi, không còn gì để bàn nữa. Nhưng nếu bạn muốn theo dõi hậu bầu cử, đó cũng là ưu điểm, coi thế sự cuộc đời sẽ diễn tiến ra sao những ngày sắp tới. Trước mắt, bên cạnh, xung quanh còn vây phủ đe dọa đầy chiến tranh tàn khốc hủy diệt đe dọa sự sống còn của nhân loại bằng những vũ khí của khoa học hiện đại tân tiến, cộng với lòng ác độc của tham vọng, của chính trị không phương giải quyết.
Nếu chiến tranh cứ kéo dài mãi thì trái đất không còn một
sinh vật nào sống sót, hiện hữu, trái đất này sè là một đồng khô cỏ cháy với bừa
bộn những xác người bị nướng khô…
Bỏ qua những điều tưởng tượng sợ hãi kinh dị mà trở về với một
chút gì dễ chịu tươi mát hơn, là tình yêu, một tình yêu xa xưa, nhưng vẫn luôn
mang giá trị vĩnh cửu, không đàn áp không tấn công như một hơi thở, như nhẹ
nhàng êm ái điều hòa cuộc sống cho quân bằng.
Xin kể ra đây là một tình yêu của một bậc trưởng thượng, mẫu
nghi thiên hạ, coi như khuôn vàng thước ngọc của chung hết thẩy mọi người chúng
ta.
Thưa đó là chuyện của cụ Nguyễn Công Trứ. Nói về cụ Nguyễn
Công Trứ, thì đúng là một đề tài xa xưa, không mới mẻ mà ai ai là người Việt
Nam, đa phần cũng biết cụ. Cụ sống vào khoảng 1778-1859 đời nhà Nguyễn thế kỷ
19.
Năm Gia Long thứ II, cụ đã dâng vua kế sách quản trị an
ninh, hành chánh và kinh tế. Tuy nhiên vì thi cử lận đận, mãi năm Gia Long thứ
18, cụ mới thi đậu Giải Nguyên và được ra xuất chính làm quan. Thời còn học
trò, cụ sống hàn vi nghèo khó, gia cảnh đạm bạc, nên khi ra đời và trong suốt cả
cuộc sống, cụ thành công và nổi tiếng với triết lý sống: biết đủ.
Tri túc tiện túc đại túc hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn đại nhàn hà thời nhàn.
Triết lý tri túc tri nhàn luôn có giá trị vượt thời gian mãi
mãi là một bài học đứng đắn cho mọi thế hệ sau.
Thuyết “tri túc“ như còn giúp cho cá nhân sống quân bình và
giúp xã hội tránh được tội ác, tội và tội phạm đầy rẫy có thể xẩy ra bất kể lúc
nào.
Ngoài triết lý sống đúng và thoải mái đó, cụ còn là một người
có tài văn chương, như một nhà mô phạm canh chừng răn đe cho các phạm trù
nghiêm minh của khổng giáo.
Dưới các thời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức,
cụ giữ chức Thị Lang Bộ Hình. Kể là Thượng Thư, cột trụ lo việc nước, về quân sự,
cụ cùng binh tướng dẹp yên giặc Phan Bá Vành, Nông Văn Vân và bình định chiến
tranh Việt-Xiêm La.
Cụ còn có nhiều tài kinh bang tế thế, đi khai khẩn đất
hoang, làm thành các làng xã, cho dân vô gia cư đến sinh sống lập nghiệp, cụ
thành lập các xã huyện Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) Ninh Cường
Giao Thủy ở Bắc Việt, vì nhớ công ơn vỡ đất của cụ, sau này nhiều nơi đã thờ tự
ghi ơn cụ, coi như cụ là vị thần Hoàng làng.
Nhờ tài ba và siêng năng hoạt động, cụ có sức khỏe tốt, tâm
hồn phóng khoáng và sống thọ so với những người đồng thời. Lại nửa bản chất là
người khẳng khái, tính tình cương trực, nên đã có lúc đi làm quan mà cũng bị
phát vãng, đến phải thốt lên lời:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục,
Vào cuộc trần ai khóc lẫn cười.
Thuở còn hàn vi, lận đận thi cử, mãi tới năm 41 tuổi cụ mới
vào hoạn lộ. Bên cạnh tính tình cương trực, cụ vẫn là người đầy tình cảm lãng mạn,
khi nghèo khó, người đã thích đi xem hát ví, hát ả đào, gửi lòng vào cung
thương lầu bực ngũ âm.
Khi còn là học trò nghèo, cụ không có tiền mà vẫn thích đi
coi ké các vương tôn công tử nhà giầu tổ chức ca hát, cụ nghe hát ví, hát ả đào
và say mê tiếng trống chầu, say mê lời nhạc câu ca, say mê luôn các con hát, gọi
là cô đầu hay ả đào. Chữ ả đây không có nghĩa gì xấu, mà chỉ là để gọi một người
đi hát. Có lần đó, cụ đứng dòm và nghe từ cổng và cụ lỡ phải lòng ngây ngất một
cô đào thanh sắc vẹn toàn, rồi buồn vì không biết làm sao gặp lại người đẹp,
cụ liền nghĩ ra một cách là xin đi theo sách đàn và trống, cặp táp cho cô nàng.
May quá cụ được nhận làm việc ấy vì cô đào Tám biết cụ là học trò. Cụ cung cúc
tận tụy đi theo ca sĩ như một tài xế thuở nay.
Rồi có một ngày, cô đào Tám được quan viên mời đi hát ở một
nơi khá xa. Cùng đi với cô, có một tiểu đồng theo hầu, và có cả cụ Nguyễn Công
Trứ tháp tùng mang đàn và tráp bên vai. Đi được vài dặm đường, cụ Nguyễn báo động
là lỡ quên cây đàn nhị và song loan để gõ nhịp.
Làm sao bây giờ? Rồi cô đào miễn cưỡng cùng với cụ vào nghĩ
chân tạm dưới một gốc thông già rộng lớn, tọa lạc ven Đường. Cô chủ nhờ tiểu đồng
quay về nhà lấy dụng cụ.
Khi còn lại chỉ hai người giữa đồng ruộng mênh mang, cụ Nguyễn
xúc động và rồi ra sức tán tỉnh cô đào, nhưng tâm trí cô còn để cả vào buổi hát
chầu sắp tới, nên cô chỉ “ừ hử ừ hử“ cho qua chuyện. Rồi mọi chuyện qua đi,
chuyện tình cảm yêu đương ngắn ngủi rồi cũng qua mau, vì mỗi người bận một công
việc riêng tư.
Cụ quay lại con đường học trò, vả lại là người có lý trí mạnh,
nên tiếp tục vùi đầu vào đèn sách, lo học lo thi cử một cách dũng mãnh rắn rỏi:
« Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi
chi tiên,
Có giang sơn thì
sĩ đã có tên
Từ Chu Hán vốn sĩ
này là quý.
Miền hương đẳng
đã coi là hiếu nghị
Đạo lập thân phải
giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí
đại chí cương
So chánh khí chất
đầy trong trời đất»
Con người đầy
tình cảm luyến ái đam mê, nhưng cùng lúc người cũng giầu nghị lực vượt thoát
thường tình.
Rồi tới ngày đại
đăng khoa, cụ Nguyễn thi đậu và bước vào công danh sự nghiệp. Nhân một dịp lễ hội
hát chầu văn thơ với bạn bè, với các cô ả đào. Tấp nập tới.
Trong số các ả
đào được mời đến, hiện diện cô Tám là cố nhân lúc cụ còn hàn vi… mà cụ đã từng
say mê đắm đuối, nhưng cụ vô tình chưa hay biết, thì người xưa đã hát lên rằng:
“Giang sơn một
gánh giữa đồng
Thuyền quyên ừ hự
anh hùng nhớ chăng?“
Nghe câu hát, cụ
giựt mình, sửng sốt nhìn ra người xưa, cụ xúc động và đọc một bài thơ tặng
nàng:
“Liếc trông đáng
giá mấy mười mươi
Đem lòng vàng để
cạnh tiếng cười
Trăng xế nhưng mà
cung chẳng khuyết
Hoa tàn nhưng nhụy
vẫn vui tươi
Chia đôi duyên nợ
đà hơn một
Mà nét xuân sơn vẹn
cả mười
Ví chút tình
duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận
khách làng chơi.“
Sau đó, cụ nhờ
người đi mua sắm phẩm vật kính biếu và trao tiền vàng bội hậu làm quà kỷ niệm
cho người xưa. Sử liệu không ghi rõ, rồi sau, cuộc tình này đi về đâu.
Trong số các cô
đào hát đó, có nhiều người có học, họ thông minh và ứng xử văn chương đối đáp rất
tài tình. Cụ cũng kể lại rằng, trước lúc gặp cô đào Tám, cụ có gặp cô đào Nhi
thông minh đĩnh ngộ, cụ cũng say mê theo đuổi nghe hát nhiều ngày, mà kẹt là một
dịp đó, cụ đang tìm vầng thơ để tán tỉnh nàng thì nàng đã lanh trí hỏi cụ một
lô câu hỏi:
“Hỏi anh hà tỉnh,
hà danh?
Hà châu, hà huyện,
niên canh kỷ hà?“
Thiệt là một câu
hỏi, hỏi nhiều thứ: năm sanh, quê quán, tỉnh nào, huyện nào, châu nào, bao
nhiêu tuổi? Cụ Nguyễn chới với vì làm sao mà trả lời bằng ấy ý trong một câu
thơ lục bát như của nàng? Cụ liền phải nói đi ngả khác, không chuẩn ý:
“Trước Lam Thủy,
sau Hồng Sơn
Người nào đọc
sách, gẩy đàn là anh”
Đã đối không xong
thì phải trốn đi xa nàng thôi. Tuy vậy không phải thi nhân chỉ biết làm thơ tán
đào, mà khi đứng tuổi, đã yên bề gia thất, có những lúc xa gia đình, người cũng
nhiều lần nhớ nhung người vợ ở xa một cách đắm đuối:
“Tương tư không
biết cái làm sao
Muốn vẻ mà chơi vẻ
được nào?
Khi đứng khi ngồi
khi nói chuyện
Lúc say lúc tỉnh
lúc chiêm bao
Trăng soi trước mặt
ngờ chân bước
Gió thổi bên tai
ngỡ miệng chào
Một nước một non
người cách biệt
Tương tư không biết
cái làm sao!"
Người vợ ấy
thương chồng lặn lội đi thăm, đường xa muôn dặm vất vả, nhìn dáng đi siêu siêu
vẹo vẹo của người vợ luống tuổi, cụ Nguyễn cảm thương mà thốt lên lời:
“Đành nhẽ bút
nghiên mà kiếm mã
Thương ơi kim chỉ
cũng phong trần!”
Tình yêu thương
như đang nghiêng ngả về cuối đường, nhiều thương hơn yêu, nặng nghĩa hơn tình.
Cho hay qua năm tháng, qua bao niên kỷ, tình yêu tự nhiên vẫn gắn kết với ý niệm
thiêng liêng ” ái nên ơn, tình nên nghĩa.”