Ở hải ngoại, mười ông Việt Nam sồn sồn, cỡ trên dưới sáu mươi tuổi thì có đến chín ông là nhà thơ. (Xin bạn đồng ý với tôi, vì chính bạn cũng từng làm thơ, từ thời còn đi học ở quê nhà, nhưng không gửi đăng báo vì khiêm tốn đấy thôi). Ở hải ngoại, cuộc mưu sinh tuy bận rộn nhưng một lúc nào đó, những “rung động bất chợt của những nỗi nhớ, những kỷ niệm…”, khiến tâm hồn lãng mạn cảm hứng thành những vần thơ, phải ghi xuống để khi rảnh rỗi, đem ra ngâm nga, tự thưởng thức. Và “chủ đề” của các ông, bà hiện nay là “quê cũ và người xưa”.
Sự thực, với các ông, trong chín nhà thơ đó, hết tám ông, thời
còn đi học không hề có người yêu, yêu thầm thì họa may. Lý do đơn giản là thuở
học trò, cứ vác quả tim cô đơn đi cà lơ thất thểu ngoài đường chứ chẳng cậu nào
dám tán tỉnh hay tỏ tình với người đẹp. Nhưng trong “thơ văn hoài niệm” ông nào
cũng sắm cho mình một lô các cô nữ sinh, xinh đẹp, ngây thơ… và nhất là cũng
yêu “chàng” (nhà thơ) say đắm. Nhưng đau khổ thay! Người yêu lên xe hoa với người
khác khiến chàng thành “thi sĩ”.[/CLOR]
Người làm thơ, trước hết là để cho mình ngâm nga, sau đó (tự
thấy hay) mới quyết định mời thiên hạ cùng thưởng thức. Thời đại khoa học tân
tiến, chỉ cần mở computer tung thơ mình lên “net” là có hàng trăm, hàng nghìn
người đọc. Rồi thì những hồn thơ đồng cảm tìm đến nhau. Trước còn sơ giao, sau
thành thân thiết. Khoảng năm 1994, ở hải ngoại, có Hội Thơ Tài Tử, quy tụ hàng
nghìn nhà thơ trên khắp thế giới. Họ góp thơ để phát hành những tập thơ “Cụm
Hoa Tình Yêu” dày năm, bảy trăm trang của mấy trăm nhà thơ, lại còn hẹn nhau cứ
mỗi hai năm, cùng họp mặt để đem thơ mình ra ngâm nga, cùng thưởng thức, sau đó
rủ nhau đi thăm thắng cảnh, đi ăn uống, vui chơi… Nơi họp mặt thường là các
thành phố đẹp ở Mỹ, Châu Âu…
Mới đây nhất là cuộc họp mặt của Hội Thơ Tài Tử ngày 14
tháng 9 năm 2012 tại Dallas, Texas kỷ niệm 18 năm thành lập, quy tụ nhiều nhà
thơ khắp thế giới, có cả những nhà thơ từ Việt Nam sang. Trên thế giới, xưa
nay, chưa có hội thơ nào quy tụ nhiều nhà thơ đến như vậy. Tuy vậy còn có hàng
trăm thi sĩ người Việt hải ngoại không vô hội, họ làm thơ chỉ phổ biến trong bạn
bè, thậm chí để riêng mình ngâm nga.
Tôi biết có một ông nhà thơ thuộc loại đó. Nhà thơ Xuân Tình
với tập “Thơ Xuân Tình”. Tình yêu trong thơ ông ta mênh mông, lai láng như muốn
tràn ra ngoài những dòng chữ.
Chuyện đó có gì lạ đâu?
Điều lạ mà tôi sắp kể ra đây lại là bà vợ ông nhà thơ
đó.
Bà vợ ông nhà thơ làm chủ hai tiệm nail (làm móng tay), khá
lắm, nên ông chồng ở nhà, đi vô đi ra và làm thơ chơi để giết thì giờ. Vợ ông
ta rất yêu chồng, yêu luôn thơ của chồng. Làm chủ tiệm nail lại phải lo chuyện
gia đình, chợ búa, nấu nướng, giặt giũ áo quần, rửa chén bát… bận túi bụi, vậy
mà về đến nhà là ôm chồng hôn và âu yếm hỏi “Bữa nay ông xã em làm được mấy bài
thơ? Đọc cho em nghe với!” Trong khi ông chồng đi lấy mấy bài thơ vừa sáng tác
thì bà vợ nấu nước pha trà. Hai người ngồi ở phòng khách, vợ tựa đầu trên vai
chồng, lắng nghe chồng ngâm thơ. Và dù là những câu thơ bí hiểm cách mấy, bà vợ
cũng suýt xoa khen hay. Chuyện ngắn là chuyện dài “cô đọng”, bài thơ là chuyện
ngắn “cô đọng”.
Bà ta không cần biết điều đó. Bà chỉ cảm nhận được chồng
mình có gì đó cao quý hơn người khác. Chồng bà là “nhà thơ”. Bà yêu chồng, yêu
hồn thơ của chồng. Sau khi cùng chồng uống chén trà thơm, bà ta hôn chồng lần nữa
rồi mới đứng lên lo chuyện cơm nước. Bà ta nấu vài món thôi, nhưng nấu nhiều.
Lũ con, nhà gần đấy, đã nên vợ nên chồng, nhưng vẫn giữ thói ăn bám mẹ. Buổi
chiều chúng chỉ chờ mẹ gọi là cả gia đình kéo đến ăn, đã khỏi nấu nướng mà được
mẹ cho ăn ngon còn bới đem về để sáng mai đem đi làm.
Chuyện hai ông bà yêu thơ hơi quá đáng, có thể làm bạn nghi
ngờ tôi “sáng tác”. Làm gì có bà vợ yêu chồng kiểu đóng kịch như vậy? Xin bạn
kiên nhẫn đọc những chuyện vô lý tiếp theo. Vợ chồng tôi có quen với vợ chồng
nhà thơ nên mới biết mà kể cho bạn nghe.
Ông nhà thơ này là một ông cù lần. Suốt ngày ở trong nhà, cứ
lừ nhừ, khật khừ như con gà rù, chẳng bạn bè, chẳng hội đoàn, ngay cả hội “Thơ
Tài Tử” ông ta cũng không tham gia. Một lần gặp vợ tôi, bà chủ tiệm nail khoe
thơ chồng mình hay lắm, tôi hỏi sao không gửi đăng báo để thiên hạ cùng thưởng
thức? Bà ta nói rằng, có gửi nhưng không thấy báo nào đăng! Tôi mới tiết lộ cho
bà ta cái “mánh” giống như của tôi (mỗi khi gửi truyện đến các báo) “Chị gửi
khoảng chục bài thơ của ông xã chị, kèm theo một chi phiếu mua một năm báo, họ
sẽ coi như “bài cậy đăng”. Nhất định thơ của ông xã chị sẽ xuất hiện trên báo
đó”. Bà ta bảo rằng không biết làm cách nào? Tôi bảo cứ ký cho tôi năm ba cái
chi phiếu, tôi sẽ lo giùm cho.
Vậy là cả năm tờ báo, thuộc loại “văn học nghệ thuật” ở
Cali. , Texas đều đăng thơ của ông chồng bà chủ tiệm nail. Bà ta đem mấy tờ báo
ra tiệm khoe với khách hàng người Việt rồi cám ơn tôi rối rít “Ông xã em vui lắm.
Không ngờ thơ mình được các báo giá trị đăng. Cám ơn anh nhiều lắm”. Như vậy là
bà ta không cho chồng biết đó là “những bài thơ cậy đăng”.
Tôi bảo “Có một cách làm cho ông xã chị khoái hơn nữa là ra
mắt thơ”. Chuyện móng tay, móng chân thì bà ta rành, nhưng về văn học nghệ thuật
thì bà ta lại phải nhờ tôi “Em có nghe chuyện ra mắt thơ, nhưng không biết làm
cách nào? Anh có thể giúp em được không? Miễn ông xã em vui thì tốn kém bao
nhiêu em cũng không ngại” “Ra mắt thơ nhiêu khê hơn đăng thơ trên báo, nhất là
ông xã chị không quen biết nhiều với báo chí, ít giao thiệp với đồng hương địa
phương ở đây.
Tôi lên chương trình như thế này để chị về bàn với ông xã chị
trước khi quyết định vì tốn tiền lắm. Trước hết là in những bài thơ của ông xã
chị thành tập, gọi là “thi phẩm”. Muốn chơi sang thì nhờ một ông nhạc sĩ phổ nhạc
khoảng mươi bài thơ, thuê ca sĩ hát và thu vào CD, sau đó tổ chức một buổi ra mắt
thơ, có ca sĩ hát “thơ phổ nhạc”. Hôm ra mắt thơ, ông xã chị ngồi sẵn chỗ ra
vào, ký tặng thơ và CD. Nhớ đừng ép mua, kiểu bắt chẹt đó khiến người ta bực
mình. Người ta đến là may lắm rồi.
Muốn buổi ra mắt thơ được đông vui, chị phải quảng cáo trên
đài phát thanh, trên TV, trên báo chí thật rầm rộ. Nhưng tôi báo trước là chục
nghìn không đủ đâu”. Bà ta sáng mắt lên “Bao nhiêu cũng được miễn sao chồng em
được mọi người biết tên, báo chí, truyền hình, phát thanh đưa tin, gọi chồng em
là “thi sĩ” là chồng em vui rồi. Anh cố giúp giùm em. Anh đừng ngại chuyện tiền
bạc” “Tôi chỉ giới thiệu những người lo chuyện ra mắt thơ với chị, họ sẽ sắp xếp
mọi việc. Chị yên tâm”.
Vài tháng sau, việc in ấn, phổ nhạc, thu CD đã xong, tôi gọi
cho một ông trưởng ban nhạc kiêm MC (người điều khiển chương trình), chuyên phục
vụ đám ma, đám cưới, hội xuân, ra mắt sách… nhờ ông ta lo giùm, rồi gọi một ông
bạn, nhà “phê bình văn học nghệ thuật” ở Cali. nhờ giới thiệu tập thơ. Ông ta bảo,
đây là dịp qua Virginia thăm bạn bè mà không tốn tiền nhưng phải gửi cho ông ta
tập thơ rồi lo cho ông ta vé máy bay, khách sạn và vài chai rượu là đủ, và muốn
ông ta nói trong bao lâu (nửa giờ, một giờ?), ông ta cam đoan sẽ làm phổng mũi
tác giả và khán giả sẽ vỗ tay liên tục. Ông bạn “nhà phê bình” này tính hơi
khùng khùng, nhưng cũng rất khôn.
Ông ta góp nhặt những đoạn văn từ những bài phê bình, nhận định
văn học trên các báo, xào nấu lại thành những bài thuyết trình hoa mỹ, thánh
thót của riêng mình. Ông ta có khoảng năm, bảy bài thuyết trình tiền chế như thế,
thủ sẵn, khi có người nhờ, giới thiệu một tác phẩm, thì chỉ việc lựa bài nào
thích hợp với tác phẩm, nhét vào đó tên tác giả là thành một bài giới thiệu
nghe rất mê ly. Một tập thơ, tập truyện, dở cách mấy mà qua tay ông ta với bài
thuyết trình cũng trở thành “kiệt tác”. Đương nhiên, tác giả sướng mê, khán giả
cũng khoái lỗ tai.
Thật ra, tôi vốn tính lười. Vợ sai còn không chịu làm, hơi sức
đâu làm chuyện tào lao! Nhưng vì tôi không ưa ông nhà thơ này nên muốn phá
chơi, vì trước đây vài năm, ông ta gặp ai cũng chào hỏi vui vẻ, còn rủ đi uống
cà phê để tán phét, về sau, bỗng nhiên, ông ta rút vô nhà, gặp bạn bè, chào hỏi,
ông ta chỉ gật đầu mà không thèm mở miệng, có lẽ ông ta thành nhà thơ, thuộc
“cõi trên”, không thèm giao tiếp với bọn tầm thường. Bây giờ, tôi xúi ra mắt
thơ mà không ai đến để ông ta “quê”, cho bỏ ghét.
Hơn nữa, tôi tò mò muốn biết về bà chủ tiệm nail này. Yêu
thương chồng, chiều chồng theo kiểu kỳ quái đó thì xưa nay hiếm thấy. Bà nào
nghe chồng in thơ, ra mắt thơ là nhăn mặt rồi. Đã tốn kém còn phải mang về cả
nghìn tập thơ, để chật nhà.
Muốn gửi tặng bạn bè, phải moi óc, có được vài chục địa chỉ
là quá nhiều, lại phải ký tên, ra bưu điện gửi, tốn kém, phiền phức vô cùng!
Nhiều ông còn đi các tiểu bang khác, ra mắt thơ, các bà vợ rầu lắm mà không dám
nói. Riêng bà vợ ông nhà thơ này thì lại hối hả, chạy ngược, chạy xuôi, gọi người
này, người kia nhờ vả, năn nỉ, đốc thúc… Tôi được bà ta coi như quân sư, gì
cũng hỏi ý kiến, tôi thấy tội nghiệp nên cố giúp. Vì biết kết quả sẽ không ra
gì nên tôi giao hẹn trước “Tôi giúp ông bà hết mình rồi nhưng người ta có đến
hay không, tôi không chịu trách nhiệm”.
Hôm ra mắt thơ, vợ chồng tôi có đến phụ giúp việc chào đón
quan khách, sắp xếp chỗ ngồi. Thật không ngờ, khách đến chật nhà hàng! Không biết
ai xúi mà bà ta mời một cô ca sĩ nổi tiếng từ Cali . qua. Thế là cứ nghe báo
chí, đài phát thanh quảng cáo có cô ca sĩ Ngọc Hạ hát là người ta ùn ùn kéo đến.
Hơn nữa đã nghe hát “chùa” (miễn phí) lại được tác giả tặng không tập thơ với
CD ca nhạc, lại có nước ngọt, bánh kẹo để nhâm nhi, được gặp bạn bè trò chuyện
rôm rả (chả cần biết diễn giả đang nói gì!). Vợ chồng nhà thơ mặt mũi sáng rỡ,
nhất là ông chồng, không còn là con gà rù nữa, lúc nào cũng tươi cười, ký tên tặng
thơ không ngơi tay.
Có điều lạ là, không biết từ đâu kéo đến một lô người đẹp.
Tôi thật sự kinh ngạc, không ngờ thơ ông ta làm rung động quả tim của những cô
trẻ đẹp đến như vậy! Các cô rất hấp dẫn, thơm tho, ngon lành. “Nói chung” là cô
nào cũng nõn nà. Cô có cánh tay trắng nuốt thì mặc áo hở cả nách, cô có đùi
thon dài thì mặc quần trên đầu gối hai gang tay, cô có ngực tròn, trắng, mịn
như trứng gà bóc thì chỉ che ngực một phần tư thôi. Có cô, diện giống như nữ
tài tử xi nê đến dự đại hội điện ảnh Oscar, phía sau, từ cổ đến dưới eo (lưng)
để trống trải, thoáng mát, nên cô đi đâu thì đầu các ông quẹo theo hướng đó.
Đã vậy các cô lại đi lung tung, gặp ông nào cũng chào, chào
theo kiểu Nhật, nghĩa là cúi gập người xuống. Các ông thấy hết, mặt thộn ra,
như bị bắt mất vía. Có lẽ xong buổi ra mắt thơ mà các cô chưa về, các ông cũng
không chịu về. Tôi đâm ra ước được như ông nhà thơ, để trong mấy chục cô “hâm mộ
thơ” đó làm gì cũng có vài cô sa vào vòng tay của tôi. Có điều lạ là bà vợ ông
ta không tỏ ý khó chịu trước những lời ca tụng, tán tỉnh gần như tỏ tình của
các cô (nõn nà) nầy với ông chồng (nhà thơ), mà còn về hùa theo rồi cười đùa
vui vẻ nữa. Vì sao bà ta lại quá tử tế với chồng đến như vậy?
Buổi ra mắt thơ thành công ngoài mơ ước. Người điều khiển
chương trình quả là chuyên nghiệp. Anh ta mở miệng là khán giả cười vui như xem
hài kịch. Nhà phê bình văn học nghệ thuật thì đúng là danh bất hư truyền. Vì
tôi mãi chiêm ngưỡng vẻ đẹp giai nhân nên đôi mắt và hồn vía tôi cứ bám sát
theo các cô đang ỏng ẹo đi lòng vòng khắp nơi, nên không biết ông ta nói gì
nhưng thỉnh thoảng nghe tiếng vỗ tay rào rào.
Sau hôm ra mắt thơ đó, tò mò, tôi đem thi phẩm “Thơ Xuân
Tình” ra đọc. Không hiểu ông bà nào đánh máy, trình bày tập thơ cho ông ta, đã
ghi một câu đáng kinh ngạc, ngay bìa trước tập thơ, dưới tấm hình tác giả rằng
“Thi sĩ lãng mạn được mến mộ nhất hiện nay tại hải ngoại, người đã hy sinh cả đời
mình để viết nên những trang sử thi đau thương…”
Tôi cũng mượn bài diễn văn của nhà phê bình văn học để
nghiên cứu, hy vọng sẽ biết được giá trị của thi phẩm. Đọc suốt tập thơ và bài
“phê bình văn học” tôi chỉ rút ra được một kết luận là nhà phê bình quả là đại
tài. Tôi xin trích vài đoạn văn tiêu biểu sau đây: “Lãng mạn và đầy cá tính là
yếu tố hấp dẫn trong thơ Xuân Tình. Đó là một thông điệp, chuyên chở bằng chữ
nghĩa, gần như lạnh lùng, không cảm xúc về những vấn nạn của hiện thực đầy cảm
tính, nhưng lóng lánh trong đó là những mảnh suy tưởng sắc xảo, những rung động
ẩn mật của tình yêu. Tuyệt vời hơn nữa là với sự thông minh, dí dỏm, nhà thơ
Xuân Tình đã lôi cuốn người thưởng ngoạn vào những tình huống bất ngờ, đầy hình
ảnh và âm thanh của đam mê, buông thả và cộng hưởng” (?!).
Trong một đoạn khác, ông ta viết “Từ vị trí một người thưởng
ngoạn bình thường, tôi nghĩ, nhà thơ Xuân Tình có trong tay một cách thế thi ca
để thể hiện sự hiện hữu của mình. Một nhà thơ phá cách, nhiều tìm tòi thử nghiệm,
cách tân ở kỹ thuật, đậm tính thời cuộc ở nội dung. Thơ ông được giải thoát, được
tự do, vượt trên mọi câu thúc xã hội, vượt qua cả hàng rào tín ngưỡng, đạo lý,
vượt khỏi tâm lý rụt rè, khép kín để bay bổng về một thế giới mới, một linh hồn
mới, một hơi thở mới. Từ đó, người ta thấy được cái phong phú của cuộc sống,
cái sâu thẳm của tâm hồn và cái trớ trêu của định mệnh”
Tôi chịu thua, không hiểu gì về bài nhận định thơ theo lối
tiền chế đó! Chỉ duy nhất một câu (không biết ông ta thuổng của ai) lộ rõ ý mỉa
mai mà ít người để ý “Thơ rất lạ, một ưu điểm nhưng cũng là nhược điểm vì sẽ
kén người thưởng thức”. Tôi hỏi “nhà phê bình văn học” nghĩ thế nào mà viết
toàn những câu ca tụng nghe rổn rảng như chuông mà chẳng thực tế, rõ ràng gì cả?
Ông ta hỏi tôi “Ông có đi dự đám ma lần nào chưa? Có nghe người ta đọc điếu văn
chưa? Tôi nhận định văn học trong những buổi ra mắt sách, ra mắt thơ cũng giống
như người ta đọc điếu văn trong các đám ma vậy thôi. Chỉ ca tụng, suy tôn tác
giả, tác phẩm chứ không phê bình, góp ý. Tác giả khoái chí, người nghe vui tai.
Có hại cho ai đâu? Anh chê văn, thơ người ta vì văn, thơ của anh dở hơn của người
ta. Nhà văn, nhà thơ thất bại thành nhà phê bình là vậy”.
Còn về thi sĩ Xuân Tình, cá nhân tôi nhận xét thì, quả thực
ông nhà thơ của chúng ta đã “bước lùi về quá khứ một bước và tiến tới hậu hiện
đại ba bước”. Nhiều bài thơ, tôi đoán, ông ta nhắm mắt viết bừa những câu bí hiểm
điên khùng rồi ngắt ra từng đoạn, xuống dòng, thế là thành một bài thơ tự do,
trừu tượng, siêu hình gì đó? Có những câu rất công thức như “Từ em về với người
ta. Anh rời phố thị khóc tà huy xưa…” hoặc rất khó hiểu như “Em cổ tích ta vong
thân mục tử, ôm mặt trời độc tấu khúc cuồng phong”…
Tôi biết, bạn nghĩ rằng tôi (nhà văn thất bại thành nhà phê
bình) đang phịa ra một chuyện vừa dở vừa vô lý. Tôi còn điên đầu hơn nữa. Thế
nên, nhân một hôm bà ta đến nhà để cảm ơn sự giúp đỡ của vợ chồng tôi về buổi
ra mắt thơ, tôi hỏi bà ta “Tôi có vài thắc mắc, nếu không tiện thì chị đừng trả
lời. Như thế này. Tôi chưa thấy bà vợ nào hăng hái ủng hộ chồng in thơ, ra mắt
thơ một cách tốn kém như chị. Ông xã chị ham vui thì chấp nhận được, nhưng chị
lại sốt sắng hơn chồng nữa. Vậy là sao?”. Bà ta ngồi yên một lúc rồi bỗng khóc
òa. Vợ tôi hoảng kinh, ôm lấy bà ta, vỗ về “Có chuyện gì vậy? Chị không muốn
nói thì thôi, đừng kể ra đây”. Rồi làm bộ trách tôi “Anh sao tò mò chuyện người
ta? Xin lỗi chị. Ông xã em vô ý quá!”.
Bà ta vừa khóc vừa lắc đầu, một lúc sau mới mếu máo nói “Chồng
em bị ung thư sắp chết. Mổ rồi, chữa đủ cách rồi, nhưng bác sĩ bảo riêng với em
là ảnh chịu đựng giỏi lắm là hai năm. Bởi vậy em phải làm sao cho ảnh vui trong
những ngày cuối cùng khi vợ chồng còn bên nhau. Bán nhà em cũng làm. Cứ nghĩ đến
mỗi ngày vợ chồng mỗi cách biệt, đêm nào em cũng khóc”. Vợ chồng tôi vội xin lỗi
“Ảnh bị bệnh mà tụi tôi không hề biết. Thật có lỗi quá!” Bà ta lại lắc đầu “Chồng
em dặn trong nhà là không được nói cho người ngoài biết chuyện bệnh hoạn của ảnh.
Ảnh không muốn ai hỏi han, thăm viếng, an ủi, thương hại”.
Trước đó, tôi nghĩ rằng bà ta là người điên, giờ đây, tôi lại
thấy thật đáng kính phục, thương chồng quá sức! Bà ta nói tiếp “Em phải làm gấp,
trước ngày đưa chồng em tái khám, vì sợ, bác sĩ mà tìm thấy di căn thì chẳng
khác gì bị kêu án tử hình. Lúc đó vui thú gì mà ra mắt, ra mũi. Em sợ mất ăn mất
ngủ mà ảnh thì vẫn bình thản làm thơ còn đồng ý cho em tổ chức ra mắt thơ nữa”.
Vừa thán phục bà vợ, bây giờ tôi lại kính nể ông chồng. Hiếm người thấy thần chết
vác lưỡi hái đứng trước cửa mà vẫn làm thơ tỉnh bơ.
Sau ngày ông thi sĩ Xuân Tình tái khám, vợ chồng tôi không
dám hỏi thăm sợ ông chồng giận vợ, đã dặn là không cho ai biết, sao có người gọi
hỏi? Vậy mà một hôm, bà vợ điện thoại, mời chúng tôi đi nhà hàng, ăn mừng buổi
ra mắt thơ thành công mỹ mãn.
Chiều thứ bảy, những người đã góp công, phụ giúp trong buổi
ra mắt thơ, có cả mấy cô hấp dẫn đi nhởn nhơ bữa trước nữa, tổng cộng trên vài
chục người, đến nhà hàng đông đủ. Bà vợ ông nhà thơ đứng lên nói mấy lời cám
ơn, chờ mọi người vỗ tay xong, bà ta mới long trọng báo một tin vui “Hôm thứ
hai, ông xã tôi đi tái khám, mấy ngày sau có kết quả từ bệnh viện cho biết,
tình trạng rất khả quan, nghĩa là không thấy di căn hay bịnh lan qua các bộ phận
khác”. Mọi người nâng ly chúc mừng nhà thơ khỏi bệnh.
Ông ta đứng lên tươi cười nói “Tôi bị ung thư bao tử đã lâu
nhưng không cho ai biết. Bữa nay thì coi như khá hơn trước. Bác sĩ nói vậy thì
biết vậy, dù sao đi nữa, tôi vui sống được đến ngày nay là nhờ vợ tôi”. Đang ăn
uống chuyện trò thì bà vợ ông nhà thơ có điện thoại. Bà ta nói lớn như muốn mọi
người chú ý “Alô! Dạ đúng rồi ạ! Dạ, em có biết nhà sách Văn Chương của anh.
Anh cần mang đến ngay hai mươi tập Thơ Xuân Tình? Thế hả? Một bà bên Pháp qua Mỹ
thăm bà con, người ta nhờ mua đem về Pháp? Ôi. Thật hân hạnh cho vợ chồng em
quá! Cám ơn anh nhiều lắm. Dạ, chủ nhật này em đem thơ đến, được không ạ? Dạ,
cám ơn anh”.
Bà ta bỏ điện thoại vào xách tay, giọng bình thản “Sáng hôm
qua, nhà sách Bình Minh cũng gọi bảo đem đến hai chục tập Thơ Xuân Tình. Một bà
từ bên Úc qua Mỹ chơi mua một mớ. Thằng con chúng tôi đưa tập Thơ Xuân Tình của
ba nó lên “nét” (internet), báo chí đem xuống in ra nên người ta biết và hỏi
mua”. Mọi người ngớ ra rồi lại vỗ tay chúc mừng. Ông chồng ngồi cười cười, nói
mấy lời khiêm tốn, nhưng mặt cứ vếch lên trời, coi bộ thú vị lắm. Thật đáng
kinh ngạc. Một nhà thơ vô danh, chỉ sau mấy bài thơ đưa lên “net”, đăng báo và
một buổi ra mắt thơ bỗng trở thành nhà thơ “kiệt xuất”! Hay là bà ta làm bộ như
có người mua thơ để chúng tôi lác mắt chơi, và cũng để cho chồng vui chứ chẳng
ai khùng điên đi mua loại thơ đó về Úc, về Pháp tặng bạn bè!
Mấy hôm sau, tôi đến nhà sách Văn Chương. Ông bà chủ nhà
sách là chỗ quen biết. Tôi mua vài cuốn sách rồi làm như vô tình, hỏi chuyện về
thơ, về phát hành, mua bán thơ. Ông chủ nhà sách dẫn tôi đến một góc kẹt, chỉ một
dãy các tập thơ “Những nhà thơ nổi tiếng thì bán chạy lắm, còn những người khác
gửi bán, tôi nể tình nhận, nhưng chẳng bao giờ bán được thơ. Thế nên, tôi dồn hết
những “thi phẩm” của họ vào góc đó, gọi là Nghĩa Địa Thơ”.
Rồi ông ta tiếp “Có một chuyện lạ. Anh có biết nhà thơ Xuân
Tình là ai không?”. Tôi lắc đầu, vờ không biết “Tôi chỉ đọc báo và biết ông ta
vừa ra mắt thơ tuần trước ở thành phố mình” “Tôi có đọc thử, thơ ông ta cũng
nhì nhằng, tàm tạm, vậy mà có người mua cả chục tập, đem về Pháp, Úc tặng bạn
bè. Sáng nay tôi vừa giao hai chục tập thơ cho một bà, bà ta còn đòi mua thêm mấy
chục tập nữa” “Có thể mình không đủ trình độ thưởng thức thơ ông ta. Kiểu này
ông ta dám lãnh một giải thưởng thơ quốc tế nào đó thì cũng không nên ngạc
nhiên” “Đúng vậy. Ở đời có những bất ngờ mà chẳng ai lường trước được!”
Đọc đến đây, quý vị sẽ nghĩ “Đúng là một chuyện phịa có hậu
nhưng vụng về và vô lý. Nhà thơ ra mắt thơ thành công, bệnh ung thư lành hẳn, vợ
chồng hạnh phúc!”
Nhưng xin thưa quý vị, chuyện đời đâu có đơn giản quá như vậy?
Phần sau đây mới làm người đọc bàng hoàng.
Nguyên nhân thế này. Bà vợ ông nhà thơ đang khỏe mạnh bỗng
thấy đau đầu khủng khiếp. Đi bác sĩ rồi khẩn cấp đưa vô bệnh viện mổ ngay. Bà
ta có khối u trong đầu. Bệnh viện thử máu, chụp hình rồi chụp thuốc mê để mổ. Mổ
xong, bà ta đi luôn, không tỉnh dậy nữa. Mới tuần trước còn thấy bà ta chào hỏi,
cười nói với mọi người, tuần sau, bà ta biến mất trên thế gian!
Sau khi chôn cất vợ, ông nhà thơ đem những tấm hình vợ rọi lớn
lên, treo kín các vách tường trong nhà. Trong phòng ngủ thì một bức chân dung vợ
lớn hơn nữa, che lấp cái màn hình TV, để khi vào giường, thay vì xem TV, ông ta
nằm ngắm vợ. Suốt ngày ông nhà thơ chỉ quanh quẩn giữa bốn bức tường, để nhìn
đâu cũng thấy vợ. Có thể nói ông ta điên vì thương nhớ vợ chứ không phải thất
tình.
Một năm sau, nhân giỗ đầu của bà chủ tiệm nails, chúng tôi
được mời đến dự. Ông chồng có vẻ tỉnh táo, bớt nhớ vợ. Khi về, tôi nói với vợ
tôi những thắc mắc về buổi ra mắt thơ, về những tập thơ bán qua Châu Âu, châu
Úc. Vợ tôi giải thích “Chị ấy bắt mấy cô thợ nail (thợ móng tay) trong tiệm diện
vô, sao cho sexy, đi nhởn nhơ cho mấy ông vui, để khỏi chán, bỏ về sớm”.
Tôi kinh ngạc “Không ngờ bà ta khôn lanh quá cỡ. Bả làm cách
nào mà bên Pháp, Úc cũng nghe danh ông ta mà tìm mua thơ?”. Vợ tôi lại cười, chấp
hai tay vái vái vào khoảng không như vái vong linh bà vợ ông nhà thơ rồi thì thầm,
như sợ bà ta nghe được “Chị ấy dặn tụi em phải giữ thật bí mật. Chỉ nhờ tụi em,
giả bộ như người từ Pháp, Úc, qua Mỹ tìm mua Thơ Xuân Tình. Cứ hỏi mua tối đa,
mấy chục tập cũng được, chỉ trả lại tiền”.
Bạn thấy, chuyện tôi kể chẳng hay ho gì, phải không? Không
hay nhưng rất đẹp. Đó là tình yêu thương chồng của bà chủ tiệm Nails. Hiếm ông
nào có được người vợ như thế.