Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Ðứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu: “Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương”. Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà, họ lườm lườm: “Mê gì như thằng Hết mê cờ”. Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời: “Bộ hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất vợ, không sợ?”. Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghê. Chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.
Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt. Quán
cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong xóm ai muốn
mua gì thì gọi vọng vô. Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt
trời vừa khuất sau vườn chuối anh Hết hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước, 500đ bột
ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu. Chị cố bán thật rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa
nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn vương trấu. Nhìn vậy
thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái cọc nói được. Nhưng vẫn cứ
đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị biết thể nào thì anh cũng
về qua, về để nấu cơm cho tía anh.
Tía anh Hết năm nay 72 tuổi. Tuổi này, người ta hay đau yếu
nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng tai. Người ta mời
ông ngồi, ông cười, xua tay: “Ăn rồi. Ăn cơm với thằng Hết rồi”. Chừng năm năm
trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà cháy
rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà một
chút. Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải đập thùm thùm nó mới
lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy, chiều
chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.
Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn,
ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói ngồi ngủ
gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm có ấm
cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh mới vừa giở cửa chui
vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh thương
tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạo.
Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà chết vì sinh khó. Ngoại
anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ không có
nghĩa gì đâu. Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở cái
xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ rào giâm bụt
xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ
dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc
ngoe ngóe trên giường.
Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày cột sợi dây võng dài từ
nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, “Chớ ầu ơ... Cây
khô đâu dễ mọc chồi...”. Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc,
lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm.
Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho
quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần mình. Những trưa nắng
tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa,
kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Ði cạnh,
che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm,
yếu ớt lắm.
Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy rượt đánh anh hoài đó
chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh
mấy cây me già ngoài mé lộ. Ðám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bội. Hỏi anh Hết
sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được, nhưng càng
nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.
Ai nghe nói cũng thương. Ðúng là tên sao thì người vậy, chịu
thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng hết
mình.
Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô bàn cờ rồi quên
đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã thoát tục
rồi, bình an, xa rời mọi điên đảo. Thấy con bồ mình đang thương dắt tay chồng
tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì đúng là không
còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồi. Cũng có nhiều người thích đánh cờ nhưng say đến mức
coi con cờ như con người thì không ai làm được, ai đời, đi chốt qua sông mà anh
khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám gả chị Hoài.
Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ.
Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổi. Thời đó, tuổi
đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không ngại
ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông. Bên nhà
chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống đá thì không vui. Má chị
Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại: “Anh Hết hổng được chỗ nào hả
má?” “Ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại
hiếu thảo. Nhưng nó nghèo quá, thân sơ thất sở không một cục đất chọi chim, biết
có lo cho bây sung sướng được không. Bây quen được tưng tiu mà”. Chị Hoài không
cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đời.
Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ đi
làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng với mấy
chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị Hoài lại
nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn
mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép. Sáng hôm sau anh đã thay
đổi, nhanh như người ta lật một bàn tay. Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ cờ
ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng là thằng
Hết bê tha thiệt rồi. Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời gian trên
mấy con cờ xanh đỏ.
Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa với tía, nợ sữa là
món nợ lớn nhất đời người. Con đã nợ má em Hoài, tía à. Không biết ông già rồi
có hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậy. Nhưng thấy anh ngồi la cà
đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh vừa kêu
nhịp nhàng “Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao chiếu
cho mấy đường”. Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua nó để
ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng ông hơi nghèn nghẹn
dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn, bây giờ ông mới đánh
nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đời. Tối về ông bắt nó nằm cho ông xoa dầu, hỏi
bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơi. Xóm này người ta không biết nên nói
mày hết thuốc chữa rồi. Con tao mà vậy à.
Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục mãi, tốn không biết bao
nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng. Hôm đám, anh Hết còn tỉnh
bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Ðám bạn
gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng
dưng vậy. Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc
tình ảnh cũng gánh cho em rồi. Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài rủ chị Hảo
mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng là chết vậy.
Anh Hết dứt khoát không ngước lên. Thôi, không nắm níu gì được nữa rồi, nghe
người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vào. Ði một đoạn, nghe đám con nít trộ lên,
anh Hết sao mà khóc vậy. Ðâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè,
đó, nó ướp nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn,nói lớn. “Ừ tại tao thương con chốt.
Qua sông là không mong về”...
Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo thương
điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.
Anh Hết lại sống như những ngày trước kia lầm lũi đi đào
thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tía. Ðôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên cái bếp
còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khô. Có bữa, mẻ kho đổi lại là
nồi canh rau đắng. Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ đằng
xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy nón mà xót
xa:
- Sao nông nỗi vầy, Hoài?
Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh Hết không
tin: “Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ xứ”. Chị
Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt lìa phần đời trước.
Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng, thương không giấu
giếm, ào ào như người ta bán thuốc sơn đông. Chị thôi không đứng tần ngần chỗ
nhà chú Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữa. Chị
Hoài nói với bạn “Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ. Ảnh
nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim mũi chỉ
lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè...”. Giữa đường nói chuyện chồng
con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết, thôi đừng đi đâu hết,
tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm đây.
Cho bỏ tội mê cờ, nghen.
Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh Hết đã không đụng tay
vào quân cờ nào nữa. Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy đứa nhỏ
không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơi. Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự đi quân,
anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn.
Tấn chỗ nào? Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn hỏi. Tụi nhỏ
kêu, đây là kiểu “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, đánh cờ mà làm công chuyện không
ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.
Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng.
Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô. Anh hỏi ông thèm gì.
Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nội. Hết lượng sượng mãi
mới cười: “Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ”.
Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ
thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không. Anh Hết cãi, làm gì có, tía. Ông
già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại
chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm
cười quay đi. Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh
chai dầu Nhị Thiên Ðường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người
thân thiết trong nhà: “Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?”.
Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Ðây đã là chai
thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:
- Hảo, tôi... cảm ơn.
Anh ngần ngừ sau chữ “tôi” hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín
thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà
trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi!
Ðâu có biết, chỉ tại chưa quên được. Anh chưa dám nhìn thẳng
vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm
ngừa. Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có
hiểu không?
Hiểu, nên tôi chờ đây nè.
Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại
cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Ðường của
chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm “Viễn ly điên đảo mộng tưởng
cứu cánh niết bàn”, chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.
Nhưng mà chờ tới chừng nào lận
Ai mà biết.
Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về./.