Old soldiers never die, they just fade away.
Gen. Douglas MacArthur
Một nửa thế kỷ trôi qua sau ngày mất nước. Những cay đắng
chua xót đau đớn một thời cũng phai nhạt dần. Thời gian qua đã là liều thuốc chữa
những ưu phiền khổ đau một thời. Tôi nhớ lại những ngày đầu bước chân gia nhập
quân ngũ. Ở lứa tuổi 20 ngoài suy nghĩ về nghĩa vụ công dân, tôi không có ý niệm
sâu sắc gì về tình tự yêu nước thương nòi. Xách chiếc túi nhỏ trong đó có chứa
hai bộ đồ lót, một ít vật dụng vệ sinh cá nhân hàng ngày và chục trái cam mẹ
cho để ăn khi lên tàu lửa. Tôi đón taxi đến trại Lê Văn Duyệt để trình diện nhập
ngũ. Hình ảnh mang theo cùng hành lý chỉ còn lại những giọt nước mắt thương con
của Mẹ tôi. Khi tôi từ giã mẹ. Ở lứa tuổi 20, trải qua nhiều dông bão qua chuyến
vượt tuyến đầu tiên vào năm 1957 thất bại, cả gia đình bị bắt giữ lại tại gần
Hòn Ông Hổ Cửa Tùng rồi thời gian ở trại giam Trần Phú Hải Phòng là những trải
nghiệm đầu tiên về sự khổ đau của cuộc sống mà tôi có. Trước đó chỉ là chuỗi
ngày sống êm đầm bên mẹ cha cho dù phải chạy tản cư xê dịch tới nhiều nơi nhưng
tôi vẫn hồn nhiên vui vẻ chẳng hề bận tâm lo nghĩ gì.
Hôm nay, ngày 10 tháng 11. 1960, tôi thực sự vào đời tạo dựng sự nghiệp cho
chính mình. Trên chuyến xe lửa từ Sài Gòn đi Đàlat, ngồi chung cùng các bạn bè
đồng trang lứa, lần đầu tiên gặp mặt nhau nên cũng chẳng biết tâm sự điều gì.
Không khí tĩnh lặng trên toa tầu vừa nặng nề vừa đượm một chút u buồn của những
chàng trai phần lớn lần đầu xa nhà khiến cho chúng tôi càng ít trao đổi tâm sự
với nhau hơn.
Rồi những ngày học tập rèn luyện tại quân trường, chúng tôi có biết bao nhiêu kỷ
niệm không thể quên. Từ cách xưng hô giữa các khóa đàn anh đàn em, những hành
vi cử chỉ, tất cả đều mới lạ, quần áo trang phục, cách đi đứng chào hỏi…. tất cả
đều đổi khác. Tám tuần lễ sơ khởi huấn nhục đã biến đổi chúng tôi thành một con
người khác trước đó. Những tập tành quân sự hàng ngày khiến cho giấc ngủ là thời
gian duy nhất chúng tôi có thể coi là nghỉ ngơi. Thời gian còn lại lúc nào cũng
bận bịu không chuyện nọ thì chuyện kia, chẳng còn tâm trạng nào mà suy ngẫm lý
giải về cuộc đời.
Cuối năm thứ hai, chúng tôi được chuyển qua trường mới. Một ngôi trường khang
trang hiện đại, chỗ ăn ngủ sinh hoạt cũng sạch sẽ thoáng mát rộng rãi hơn. Khoảng
thời gian đó có tới 4 khóa cùng hiện diện 15 -16, 17-18. Vị chỉ huy trưởng cũng
được bàn giao từ Thiếu tướng Lê văn Kim cho Đại tá Trần Ngọc Huyến. Chương
trình huấn luyện cũng được cập nhật thay đổi theo hướng trang bị cả tri thức
văn hóa lẫn quân sự cho lớp sĩ quan tưong lai để đáp ứng nhu cầu của một đội
quân quốc gia non trẻ trong tình hình mới. Chúng tôi bắt đầu được học tập chính
trị về sự tha hóa của chủ nghĩa cộng sản và nguy cơ trước cuộc chiến tranh xâm
lăng của cộng sản Bắc Việt. Những giờ Dẫn đạo chỉ huy do chính thầy Huyến giảng
dậy là những bài học đầu tiên cho chúng tôi ý thức trách nhiệm và bổn phận của
một công dân đối với tiền đồ dân tộc.
Khóa 15 ra trường đầu năm 1961 và cuối năm 1962 là khóa 16; trước đó ít ngày là
khóa 19 nhập học. Tình hình quân sự trong nước ngày càng trở nên nghiêm trọng
hơn khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do cộng sản Miền Bắc dàn dựng ra đời vào
ngày 20 tháng 12. 1960. Nhu cầu chiến trường ngày càng đòi hỏi sĩ quan chỉ huy
tham gia cuộc chiến. Khóa chúng tôi theo kế hoạch dự trù 4 năm nay có lệnh rút
ngắn gần một nửa thời gian dự trù để làm lễ tốt nghiệp sớm hơn - thậm chí không
có đủ thời gian 3 năm như hai khóa đàn anh trước đó. Ngày 30 tháng 3 1963
Lễ mãn khóa của chúng tôi được Tổng thống Ngô đình Diệm chủ tọa. Buổi chiều
cùng ngày, Tổng Thống đã nói chuyện với khóa về hiện tình thời sự trong nước
cùng nhiệm vụ của các tân sĩ quan trước tình thế . Đầu tháng 11 cùng năm, bản
thân tôi cùng một số bạn đồng môn đã có mặt trong số các đơn vi quân đội tham
gia làm cuộc đảo chánh chính vị Tổng thống đang ngồi nói chuyện với chúng tôi
hôm ấy. Sự trớ trêu ấy mở màn cho những cuộc binh biến hỗn loạn sau này đã khiến
cho Miền Nam bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy nghiệt ngã của lịch sử không thể gượng
dậy được nữa.
Tháng 4. 1963 tôi cùng 10 bạn cùng khóa trình diện BTL/SĐ 7 tại Mỹ Tho. Cuộc đời
quân ngũ thực sự bắt đầu. Đơn vị tác chiến đầu tiên của tôi là đại đội 1 tiểu
đoàn 3/11. Tiểu đoàn có 4 sĩ quan xuất thân từ VB là hai niên trưởng Ngô Gia Tiến
cùng đại đội; Hoàng Lê Cường khóa 16 chung đại đội 2 với bạn cùng khóa 17 Nguyễn
Tiến Mão. Tiểu đoàn 3/11 lúc đó là đơn vị hành quân lưu động trên toàn lãnh thổ
thuộc khu chiến Tiền Giang nên đơn vị chúng tôi di chuyển hầu như liên tục. Mỹ
Tho, Gò Công, Long An , Hậu Nghĩa, Vĩnh Long, Cần Thơ, Kiến Tường Kiến Phong…
Những ngày lang thang lội nước trên những cánh đồng ngút ngàn dưới những cơn
mưa trên chiến trường Đồng Tháp, người lính như thể bị bủa vây bốn bề là nước
là những hình ảnh không thể xóa nhòa trong ký ức của tôi cho tới tận lúc ngồi
viết lại những dòng chữ này.
Năm 1968 sau trận đánh Tết Mậu thân, tôi được đề cử đi học lớp Chỉ huy tham mưu
trung cấp ở Đà Lạt. Tháng 9 ra trường, vị Chỉ huy trưởng trường muốn giữ tôi ở
lại làm huấn luyện viên nhưng tôi từ chối. Có thể là do lời yêu cầu của vị
Trung tá Trung đoàn trưởng 11 lúc đó mong tôi trở về lại đơn vị cũ giữ Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/11 . Niên trưởng Nguyễn văn Tạo Khóa 16 bị tử thương
trong một trận đánh nội công ngay tại căn cứ Đồng Tâm và là tôi là tiểu
đoàn phó trước khi đi học. Cũng có thể là tình đồng đội ở một đơn vị đã có cùng
tôi qua nhiều trận đánh oanh liệt trên chiến trường Đồng Tháp. Cũng có thể là
những tình cảm huynh đệ đồng môn mà chúng tôi đối xử với nhau như tình ruột thịt
khiến cho tôi muốn trở về; nhưng có điều chắc chắn không phải vì chức vụ tiểu
đoàn trưởng bởi vì tôi cũng sẽ đảm nhiệm chức vụ này nếu tôi thuyên chuyển về
SĐ 23 theo lệnh từ Bộ TTM. Đời quân ngũ cho tôi một kinh nghiệm, mười điều mình
mong muốn thực hiện thì có tới chín điều không theo ý mình mong ước. Hơn 5 năm
lăn lộn với SĐ 7, đi đủ 3 tiểu đoàn 1, 2 và 3 của Trung đoàn 11; đảm nhiệm chức
vụ từ trung đội trưởng, đại đội trưởng rồi trinh sát tới tiểu đoàn phó, làm sao
không quyến luyến.
Định mệnh lại thay đổi lối đi của cuộc đời tôi thêm một lần. Tôi được lệnh
thuyên chuyển ra Sư Đoàn 23 BB ở Ban Mê Thuột vào tháng 9 1968. Những quen thuộc
của chiến trường trên đồng bằng sông Cửu Long giờ đây thay đổi bằng những rừng
núi chập chùng của dẫy Trường Sơn khiến tôi có một chút ưu tư, liệu rằng mình
có thể thích nghi được với chiến trường mới này hay không? Những chiến hữu mới,
đồng đội mới có còn những thân thiết chan hòa như ngày nào ở đơn vị cũ?
Tháng 10 tôi nhận bàn giao Tiẻu đoàn 2/44 từ Đại Úy Trần văn Anh một niên trưởng
Khóa 8 VB. Các cuộc hành quân trong mật khu Lê Hồng Phong cùng các vùng núi non
giữa tam biên Phan Thiết - Lâm Đồng - Đà lạt lâu dần rồi cũng trở nên quen. Có
khác chăng là hình thức hành quân có chút khác biệt. Tiểu đoàn thường được chỉ
định một vùng hành quân rộng rồi tùy thuộc vào tin tức tình báo, tiểu đoàn sẽ
thiết lập một căn cứ hỏa lực, sau đó đổ bộ các đại đội xuống các mục tiêu lục
soát, tìm và tiêu diệt địch. Thời gian sử dụng máy bay trực thăng đổ quân nhiều
hơn cuốc bộ leo núi. Tiểu đoàn trưởng cũng có thể tự hoạch định kế hoạch hành
quân theo chủ ý của mình. Kiểu cách hành quân có chút tương tự với các đơn vị
Hoa Kỳ khác hẳn với cách hành quân cũ.
Cuối năm 1971 tôi được giao chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 44 thay thế Trung
tá Đặng Bất. Trung đoàn trưởng lúc đó là Trung tá Điều Ngọc Chánh khóa 8 VB. Nhận
nhiệm vụ được 2 tuần, tôi dẫn chiến đoàn 44 A đi Pleiku trình diện BTL/QĐ 2 làm
lực lượng tổng trừ bị cho Quân đoàn. Mặt trận Cao nguyên bắt đầu sôi động. Các
đơn vị chính quy cộng sản miền Bắc đã vào thay thế cho các đơn vị miền Nam bị tổn
thất nặng nề sau trận đánh tết Mậu thân 1968. Sư đoàn 308 Miền Bắc cùng các đơn
vị trực thuộc, xe tăng thiết giáp hỏa tiễn rầm rập kéo vào Cao nguyên theo đường
mòn Hồ Chí Minh cùng lúc với kế hoạch quân đội Mỹ rút ra khỏi VN theo kế hoạch
Việt Nam Hóa chiến tranh của tổng thống Mỹ Nixon. Những bàn thảo bàn vuông bàn
tròn ở Paris ngày càng làm cho tình hình chiến sự trên toàn 4 vùng chiến thuật
thêm khó khăn. Cộng sản đổ thêm quân và tiếp liệu vào chiến trường vì họ tin rằng
chỉ có chiến thắng mới có cơ hội họ đạt được mục đích mong muốn. Về phía chúng
ta thì ngược lại, hoàn toàn bất lợi trước sự mệt mỏi và tổn thất qua hơn 5 năm
tham chiến của người bạn đồng minh HK. Với kiểu vừa đánh vừa run lo ngại đụng đầu
với Trung/ Nga khiến cho cuộc chiến không thể thắng ngày càng rõ nét. Kinh nghiệm
ngày nào của chiến tranh Triều Tiên khi Tổng thống Truman không nghe lời đề nghị
của tướng Mac Arthur tiêu diệt lực lượng quân đội Trung Quốc lúc đó đang tập
trung tại vùng bắc sông Áp Lục trong khi tràn vào Bắc Hàn đáng để chúng ta suy
ngẫm. Chiến tranh từ cổ chí kim đều coi giả trá là điều kiện cần, còn phải tàn
bạo mới đủ để chiến thắng. Cộng sản đã chứng thực điều đó cho ngay đến lúc này
một nửa thế kỷ sau, trong cuộc chiến Nga/ Ukraine. Putin đã chẳng do dự chút
nào khi sử dụng mọi loại vũ khí tàn độc để tiêu diệt quân dân Ukraine, và luôn
lớn tiếng sẽ sử dụng bom nguyên tử nếu cần. Nếu Putin không lo bụi phóng xạ
theo chiều gió kéo vào làm tổn hai ngay chính nước Nga, ông ta đã làm ngay sau
màn chiến tranh chớp nhoáng đánh chiếm, Kiev thất bại rồi. Nhân đạo lấy tiếng
là quân tử để nhận lãnh thảm bại bị tiêu diệt sau đó chỉ xẩy ra ở nước Trung
Hoa cổ. Còn dùng tàn bạo và giả trá mang đến những chiến thắng vang dội thì điển
hình là đạo quân Mông Cổ thế kỷ 13.
Trận đánh Mùa Hè đỏ lửa tháng 4/1972 là trận đành chính quy hào hùng nhất tôi
được tham dự trong cuộc đời binh nghiệp của mình. Tháng 9 tôi bị thương lần thứ
3 trong đời lính chiến và sau khi nghỉ dưỡng thương một tháng, đầu năm
1973 tôi trở về giữ chức vụ trưởng phòng hành quân Sư Đoàn.
Tình hình ngày càng xấu đi. Các đơn vị chủ lực của Hoa Kỳ rút ra khỏi VN để lại
không chỉ khoảng trống phòng thủ mà tệ hại hơn là những cảm giác bỏ rơi đồng đội
khi đang chiến đấu. Quân nhu đạn dược cũng bị cắt giảm tới mức vô lý trong khi
quân Bắc Việt ngày càng được bổ sung trang bị hiện đại hơn về vũ khí trang dụng,
quân số. Ở vị trí Trưởng Phòng Hành Quân, qua các chuyến bay quan sát chiến trường,
Tôi dần nhận ra sự thất bại tất yếu phải đến của cuộc chiến tàn khốc này. Những
người lính VN đang chiến đấu trong tuyệt vọng. Những chính trị gia đầu não của
chúng ta đã phó mặc đất nước cho giặc. Hòa đàm Ba Lê, hậu quả đưa đến một kết
quả hòa bình nửa dơi nửa chuột, chiến không ra chiến hòa chẳng ra hòa. Chỉ có
những ai từng đang cầm súng trong khoảng thời gian ấy mới thấu hiểu được tâm trạng
của người lính VNCH lúc đó. Chúng ta đã thua ngay sau khi bị cưỡng ép đặt bút
ký vào tờ hiệp định đầy cạm bẫy bất lợi này.
Từ cuối năm 1973 đến hết năm 1974, trong các chuyến bay trinh sát tìm vị trí thả
các toán trinh sát phối hợp giữa phòng 2 và 3 SĐ, tôi đã chứng kiến những đoàn
xe khổng lồ dài vài cây số nối đuôi nhau chạy dọc theo dẫy Trường Sơn khu tam
biên trong lúc các đơn vị đồng minh lần lượt rút ra khỏi VN. Cái hiệp định
Paris tồi tệ ấy là cuộn dây thiết chặt cổ họng người lính VNCH để cho kẻ thù
hành hạ. Chẳng ai trong những người lính ở thời điểm đó còn có lòng tin về một
chiến thắng hay hòa bình thật sự trong danh dự.
Cuộc chiến đã qua đi 50 năm nhưng những di họa của nó thì chắc vài thế hệ nữa mới
mong xóa nhòa. Chiến tranh mang đến nỗi thống khổ vô biên không thể phai trong
tâm trí những người từng tham chiến. Cuộc chiến tạo nên sự gắn kết tình đồng đội
vào sinh ra tử xác thực, đồng thời cũng biểu lộ bộ mặt phản trắc trí trá của bạn
và thù. Khi cuộc chiến qua đi tôi nhìn ra nhiều điều, trong chiến đấu bầu không
khí hừng hực khói lửa chiến trường, giữa tên bay đạn réo, khi sinh mạng của
mình có thể bị lấy đi bất cứ thời điểm nào lúc đó sẽ lộ diện cái mà chúng ta
thường nói tới: Tình đồng đội, sự dũng cảm, tài chỉ huy. Tình cảm đồng đội vượt
lên trên mọi tị hiềm ganh ghét, đố kỵ cay cú tranh giành điều mà trong cuộc sống
hòa bình bầy ra nhan nhản trước mắt. Trường Võ Bị có truyền thống là tôn sư trọng
đạo. Trong chiến tranh các sĩ quan đồng môn luôn gìn giũ nền nếp này. Suốt cuộc
đời binh nghiệp của mình tôi chưa một lần đánh mất niềm tin đó. Các niên trưởng,
đàn anh, các niên đệ khóa nhỏ mỗi lần gặp gỡ đều vui vẻ tay bắt mặt mừng. Dù
tôi là cấp chỉ huy của họ hay được một đàn anh chỉ huy, tôi cũng đều nhận được ở
đó sự thân thiết đùm bọc anh em. Cuộc chiến qua đi, những thử thách chiến trường
không còn. Cuộc sống cơm áo gạo tiền đòi hỏi một kỹ năng khác hẳn những hy sinh
mạng sống trước kia nên chi cái từng được trân trọng nâng niu “ chung mái trường
Mẹ” trở nên lạc lõng bơ vơ. Những mưu mánh thủ đoạn chính trị được ẩn danh dưới
nhiều hình thức miệt thị lẫn nhau để cố tranh đoạt một danh hiệu mà mình không
còn thực tâm tôn kính gìn giữ. Tôi thầm nghĩ, chỉ cần 20 năm nữa thôi, những cựu
SVSQ từng xuất thân Võ Bị có còn lại bao nhiêu đủ để ngồi chung một bàn tròn Tổng
Hội? Điều chúng ta nên làm là xây dựng đội ngũ kế thừa từ con em cháu chắt của
mình cho một đoàn thể VBQG mai sau qua những tấm gương của chúng ta đang làm hiện
tại. Những ai đã từng sống sót qua bao thử thách của cuộc chiến đều hiểu rằng sở
dĩ chúng ta hãnh diện về ngôi trường Mẹ chỉ bởi vì chúng ta coi đó là nơi đã tạo
nên dáng vóc và khả năng chỉ huy lãnh đạo để cùng chung tay đánh giặc cộng sản,
bảo vệ quê hương đất nước. Chúng ta từng tự hào vì là những sĩ quan tình nguyện
gia nhập quân đội, được đào tạo bài bản về cả văn hóa lẫn quân sự nên đã làm
nên bao chiến công hiển hách trên khắp các mặt trận trên bốn quân khu, vùng chiến
thuật.
Lòng dũng cảm, khả năng chỉ huy trên chiến trường, sự hy sinh, xương máu của
các đồng môn không chỉ làm nên danh dự của đội ngũ chúng ta mà còn làm rạng
danh cho cả quân đội quốc gia non trẻ của chúng ta nữa. Chúng ta đã từng
tự hào về những sĩ quan tốt nghiệp thủ khoa của nhiều khóa Võ Bị đã chọn cho
mình những đơn vị chiến đấu để phục vụ thay vì họ có cơ hội để tìm những đơn vị
yểm trợ nơi hậu phương; những cấp chỉ huy nhảy vào chảo lửa chiến trường, thực
hiện những nhiệm vụ thập tử nhất sinh trong những trận đánh khốc liệt nội biên
và ngoại biên đã nêu gương sáng cho các thế hệ đàn em, đâu có thời gian để suy
nghĩ tranh giành hiềm khích đố kỵ lẫn nhau? Hoàn cảnh đổi thay, khi những người
lính già từng trải chiến trường ngày nào, qua lao tù đầy đọa bởi kẻ thù khi
buông súng giờ đây trên đất khách quê người ngậm ngùi nhìn một số đàn em dùng
những thủ đoạn mà các chính trị gia cơ hội thường dùng để làm những điều mà một
SVSQ/VB không nên làm. Trường VBQG là nơi đào tạo sĩ quan chỉ huy cho quân đội.
Chiến trường là nơi biểu tỏ khả năng trình độ của một sĩ quan. Chiến công qua
những trận đánh, tinh thần quả cảm và sự hy sinh anh dũng trên chiến trường khi
giáp mặt kẻ thù, theo tôi nghĩ mới là điều đáng hãnh diện và tự hào của một sĩ
quan quân đội chứ không phải là những phù phiếm hào nhoáng khác. Chẳng một sĩ
quan đúng nghĩa nào lại tự cho mình là giỏi hơn thiên hạ vì những tiêu chí vớ vẩn
nào đó ngoài những trải nghiệm đã được thử thách sinh tử trên chiến trường. Giá
trị đích thực của một sĩ quan phải được đánh giá khách quan từ những người từng
cùng chung trận chiến, hoặc từ đơn vị bạn chứ không phải từ những nhận xét chủ
quan của người “tự đánh giá.”
Tháng 4 năm 1992 gia đình tôi di cư qua Hoa kỳ theo chương
trình HO11. Khi bước chân lên phi cơ tôi mang tâm trạng nửa mừng vì chắc chắn bản
thân gia đình con cái sẽ có một tương lai tươi sáng—một sự đổi đời-- nửa lo về
những khó khăn chắc chắn sẽ gặp trong thời gian sắp tới; thêm một chút lưu luyến
về quê hương đất nước với biết bao kỷ niệm vui buồn sướng khổ đã từng. Gia đình
tôi ở lại Thái Lan 1 tuần để làm giấy tờ rồi sau đó lên phi cơ vào Mỹ. Bước
chân xuống phi trường Los Angeles cả gia đình choáng ngợp về sự hiện đại tráng
lệ của phi trường. Có điều kỳ lạ là ngay ngày hôm sau, một cuộc động đất lớn
rung lắc bàn ghế chỗ chúng tôi tạm trú tại thành phố Santa Ana thuộc Orange
county—lần đầu tiên trong đời tôi được biết động đất là gì. Cả ngày theo dõi cảnh
đốt phá cướp bóc trên đường phố Los lại càng làm cho tâm trạng tôi rối bời những
ý tưởng buồn chán. Cuộc sống thì ra ở đâu cũng có những bất hạnh và khổ đau do
thiên nhiên mang đến. Tôi tự an ủi mình những tai ách ấy là không thể tránh được
nhưng ít ra cũng không tệ hại bằng chính những tai ách do con người tạo nên cho
nhau. Cuộc sống mới bắt đầu với những biến động như thế từ trong thâm tâm tôi
đã nghĩ tôi cũng sẽ phải cố gắng nhiều hơn để hy vọng có thể tồn tại được trên
mảnh đất tự do nhiều cơ hội này.
Tháng 5 gia đình dời đi lên vùng Bắc Cali - thành phố Campbell. Một thành phố
nhỏ nằm lọt trong lòng một thành phố lớn hơn San Jose. Những ngày đi tìm việc
mưu sinh, vào đúng thời điểm kinh tế suy trầm khiến cho công việc càng gay go
khó kiếm hơn. Rồi mọi thứ cũng đi dần vào quỹ đạo ổn định đúng lúc tháng trợ cấp
cuối cùng đáo hạn vào tháng 10 cùng năm. Tết năm 1992 là cái Tết đầu tiên tôi
được xum vầy cùng cả gia đình kể từ khi bước chân vào lính. Suốt 12 năm từ khi
nhập ngũ cho tới lúc ra trường, Tết đối với tôi là chuỗi ngày xa nhà, hoặc đóng
tại các địa điểm quan yếu trên quốc lộ, hoặc túc trực 100% tại đơn vị sẵn sàng
hành quân. Mười ba năm còn lại kể từ sau tháng 4/75 là những năm đón Tết trong
các trại cải tạo hết Nam rồi Bắc. Một trong những cái Tết u buồn nhất là Tết
Nguyên Đán 1982 tại trại Nam Hà. Đêm Giao thừa gió rét căm căm, cả căn phòng rộng
chừng 100m vuông chứa hơn 50 chục người lặng lẽ đón Tết trong nỗi tuyệt vọng ê
chề khi nghĩ về gia đình và tương lai. Những năm trước đó bản thân tôi không có
những cảm súc kỳ lạ như vậy, không hiểu sao Tết năm ấy, không chỉ riêng tôi mà
kể cả các bạn đồng cảnh ngộ cũng có chung một tâm trạng như thế. Có lẽ do áp lực
quốc tế khiến cho cộng sản phải mang dần các tù cải tạo trở lại Miền Nam sau
khi đã đưa toàn bộ tù cải tạo ra Bắc nhằm hủy diệt số tù nhân này theo kế hoạch
của Lê Đức Tho không thành. Các bạn tù đã về Nam từ Tết trước còn lại chúng tôi
chẳng biết bao giờ mới trở lại Miền Nam. Bản thân tôi nằm trong nhóm đầu tiên
đi Bắc và đi chuyến chót về Nam. Khoảng tháng 5 1982 tôi được chuyển từ Nam Hà
về trại A Z30A rồi tiếp tục ở lại đó cho đến Tết 1988 mới ra trại.
Tháng 4/ 1975 ập đến. Một hệ quả tất nhiên phải có của cuộc
chiến bất cân sức này. Giờ đây tôi đã mất đi cảm xúc đau đớn của nửa thế kỷ trước.
Tôi cũng chẳng muốn quy kết trách nhiệm cho ai và nhận ra, chính bản thân cũng
có phần trách nhiệm. Có nhiều điều vượt ra khỏi sự hiểu biết của con người mà
có lẽ chỉ cách nói vận nước phải thế là có thể chấp nhận được. Sự phân ly chia
rẽ dân tộc có thể đã bắt đầu từ huyền sử Lạc Long Âu Cơ khi chia đôi bầy con nửa
lên rừng nửa xuống biển. Rồi phân tranh đất nước Bắc Nam cũng đâu chỉ có một lần
thời Pháp thuộc hoặc sau hiệp đình chiến Geneve 1954 ? Có khác chăng là cuộc thống
nhất Nam Bắc lần đầu bắt nguồn từ Miền Nam với đạo quân của Quang Trung. Còn Bắc
vào Nam trong năn 1975 thì ngược lại? Lịch sự dân tộc chúng ta là như thế. Lịch
sử có quy luật của nó theo đúng quy trình Sinh Trụ Hoại Diệt không thể khác được.
Hình thù địa lý đất nước có nút thắt giữa chừng rất hẹp nên luôn có mối đe dọa
cắt ngang. Với hơn 3000 cây số bờ biển trong khi không có một lực lương hải quân
đủ mạnh để bảo vệ luôn là miếng mồi ngon cho ngoại xâm. Chưa nói tới những nhà
lãnh đạo khôn nhà dại chợ chỉ lo thu vén cho cá nhân dòng họ thay vì quyền lợi
đất nước.
Nếu có chút suy ngẫm gì chăng có thể chỉ là tại sao dân tộc chúng ta không đủ
minh mẫn để tìm ra một phương cách khác thống nhất đất nước trong hòa bình thịnh
vượng như một nước Đức tùng làm? Trong sử sách chúng ta luôn tự hào về sự thông
minh, chịu thương chịu khó, rừng vàng biển bạc mà trong thực tế thì trái ngược
hẳn. Sau chiến tranh chúng ta mất cả biển lẫn rừng, mang tiếng là thống nhất
nhưng nhân tâm chia rẽ hơn bao giờ hết. Bắc nam/ Trong nước ngoài nước, kẻ thắng
/ người bại…cuộc chiến kéo dài bất tận giữa những người cùng mang dòng máu Việt.
Năm mươi năm chưa đủ dài để cho những người cộng sản hiểu ra rằng nguy cơ đang
dần dần mất nước vào tay Trung cộng là rất lớn. Ông cha ta đã từng bị Bắc thuộc
một ngàn năm còn lần này sẽ kéo dài bao lâu mới có cuộc khởi dậy của Ngô Quyền
mười thế kỷ sau đó để dõng dạc tuyên bố chủ quyền độc lập dân tộc?
Năm mươi năm kể là khá dài đối với một kiếp sống con người, nhưng lại là quá ngắn
kho so sánh với cuộc trường tồn của một dân tộc. Đất nước đã đổi thay từng ngày
và luôn đổi thay không ngừng nghỉ. Con người cũng thế. Từng thế hệ luân phiên
nhau có mặt trong cuộc đời này rồi lần lượt lìa xa cuộc sống để tiếp tục phiêu
du ở một thế giới khác, một kiếp khác.
Những ngày gần đây chúng ta đã chứng kiến nhiều đổi thay đổi nghịch thường
trong nước. Những vụ tranh ăn giựt ghế của nội bộ đảng cộng sản VN ngày
càng trắng trợn hơn tàn khốc hơn. Sự phân hóa trong giới lãnh đạo chóp bu của
chúng cũng ngày càng lộ rõ nét không thể che mắt thiên hạ như họ đã từng làm
trước đây nữa. Những chuyển biến ấy có cho chúng ta một hy vọng gì không cho
tương lai đất nước? Chắc chắn là có. Chỉ có điều, vì hình thể địa lý, sự lệ thuộc
quá chặt với Trung cộng khiến cho cuộc thay đổi ấy chậm chạp lề mề, tình hình sẽ
khá hơn khi mẫu quốc Trung cộng đột biến quay ngang. Bản thân TQ cũng đang
trong cùng quẫn trở mình. Ngoại biên, Hoa Kỳ cũng trong thời gian đổi thay mãnh
liệt. Với chủ trương Nước Mỹ trên hết, tổng thống Trump có khuynh hướng áp dụng
học thuyết Nước Mỹ Trên Hết (MAGA). Điều này sẽ dẫn đến những đổi thay không ai
biết được trong những ngày sắp tới. Chúng ta cũng không thể đoán định được tình
hình thế giới sẽ chuyển biến ra sao trước chủ trương tránh can dự vào các cuộc
tranh chấp thế giới của chính quyền Hoa Kỳ tương lai trước khuynh hướng bành
trướng ngày càng tăng của các nước cộng sản còn sót lại đặc biệt là hai cường
quốc Trung cộng và Nga.
Cuộc chiến dang dở giữa Nga và Ukraine cùng số phận của quốc đảo Đài Loan sẽ ra
sao? Cũng chẳng ai biết được. Chỉ có điều tôi tin tưởng thế chiến thứ ba hy vọng
sẽ không xẩy ra ít nhất trong thời gian này bởi vì cuộc chiến hủy diệt ấy là bản
án cáo chung của nhân loại chứ không phải là một tai họa cho riêng một quốc gia
tham chiến nào. Tham gia hay không đều chết vì các loại bom hạt nhân và bụi
phóng xạ. Chắc hẳn cho dù những tên cầm đầu hung hăng cách mấy cũng phải nghĩ tới
số phận của chính chúng cùng gia đình. Hoa kỳ sẽ chuyển mình là điều chắc chắn.
Với một chính phủ bao gồm hầu hết các tỷ phú đô la cộng thêm mang sẵn ý tưởng “
Dọn sạch đầm lầy” ý muốn nói tới việc dọn dẹp những cơ chế cổ lổ sạn đá cũ đã từng
là nền tảng của đất nước trong suốt gần 249 năm qua như việc bãi bỏ bộ Giáo dục
cho một bà bộ trưởng chẳng có mấy kinh nghiệm về giao dục; trao cơ quan chăm
sóc sức khỏe cho một người có tư tưởng chống vắc-xin kịch liệt, một cơ quan thuế
vụ cho một thương gia đòi bãi bỏ Sở thuế; cơ quan FBI cho một người sẵn sàng
dùng cơ quan này làm theo ý tổng thống để truy quét các kẻ mà tổng thống cho là
nội thù; một cơ quan tình báo trung ương cho một nữ nghị sĩ Dân chủ từng đổi đảng
và có khuynh hướng thân Nga….và bộ quốc phòng cho một thiếu tá vệ binh quốc gia
thì chắc chắn phải có thay đổi mà chúng ta không cần phải tốn công dự đoán!. Sự
thay đổi triệt để ấy như lời hứa hẹn của Tổng thống Trump “ Drain swamp and
demolish deep states “ chắc chắn sẽ làm xáo trộn cả thiên hạ từ Đông sang Tây,
từ Nam chí Bắc. Một đặc điểm nổi bật trong nhiệm kỳ thứ 2 của Tổng thống Trump
là sự tham gia rất đông đảo các đại gia kỹ nghệ thương mại và tài chánh trong
chính phủ Trump. Với cung cách suy nghĩ đặt lợi nhuận cá nhân trên mọi thứ khác
cho chúng ta có chút bận tâm. Liệu rồi đây một nước Mỹ đại diện cho tự do và
nhân quyền, luôn đứng ra bảo vệ các quốc gia yếu kém, chống lại mọi chủ trương
xâm lăng của các đế quốc cộng sản trên toàn thế giới có còn giữ được lý tưởng của
mình? Chỉ có điều chắc chắn rằng những xáo trộn tương lai cũng sẽ là cơ may tạo
nên một luồng sinh khi mới cho mọi quốc gia đang bị nhấn chìm trong ảo giác về
một thế giới biệt lập không có sự tương liên nối kết với nhau. Sau cơn mưa trời
sẽ sáng. Một chu kỳ mới lại bắt đầu và đó là điều chúng ta sẽ có cơ hội nhìn thấy
trong tương lai gần thôi.
Năm 2025 là năm có nhiều điều đặc biệt. Năm này có tới 2 ngày lập xuân trong
cùng năm Dương lịch 2025. Là năm kế tiếp của một loạt 8 năm liên tiếp không có
ngày 30 Tết Âm lịch. Cho dù biết rằng lịch đại chỉ là sản phẩm của con
người tạo ra. Nhưng nguồn gốc của lịch đại hoàn toàn dựa trên quan sát sự xoay
vần ngày đêm, thời tiết, dưới tác động của mặt Trăng mặt Trời. Năm nay là năm
con Rắn và vì có tới hai ngày Lập xuân nên cổ nhân còn cho nó cái tên Năm Rắn
hai đầu. Điều kiện để có một năm có hai ngày lập xuân là năm đó phải là một năm
nhuận để tháng Chạp kéo dài đủ để chứa thêm một ngày lập xuân. Năm 2025 có
tháng 6 là tháng nhuận. Thường thì khoảng cách thời gian từ 9 tới 19 năm mới có
một năm như thế. Năm gần nhất có 2 ngày lập xuân là năm 2015 ( vào hai ngày 16
tháng Giêng /4 tháng 2 2015 Dương lịch và 26 tháng Chạp âm lịch/ 4 tháng 2 2016
dương lịch ). Nếu có sự đáng nghiền ngẫm hơn có lẽ đó là năm Trump đắc cử tổng
thống nhiệm kỳ 1. Cách quãng đi 4 năm nhiệm kỳ của Biden, năm nay là nhiệm kỳ 2
của Trump. Năm Rắn 2 đầu 2025 lần này có là một điềm báo gì không? Tôi thực sự
không biết.
Tôi tin vào sự bí nhiệm của Trời Đất, Lẽ huyền vi của Tạo Hóa. Có biết bao điều
chúng ta không thể giải thích hoặc hiểu được trên đời. Những bất khả tri ấy là
của ông Trời, Chúa Phật tạo ra hay một đấng thiêng liêng nào khác tùy thuộc vào
đức tin của mỗi người nhưng chắc chắn phải có một đấng Sáng Tạo. Khi khoa học
phát triển, đã có lúc con người tự huyễn hóa mình rằng bộ óc có thể giải
thích được mọi hiện tượng. Nhưng giờ đây họ đã hiểu ra rằng có những giới hạn
con người không thể vượt qua cho dù là siêu nhân đi nữa. Điều ấy làm cho cuộc sống
thi vị hấp dẫn hơn nếu so với mọi thứ đều có thể cắt nghĩa rạch ròi biết trước.
Tết Nguyên Đán Ất Tỵ đã cận kề. Tổng thống Trump cũng vừa chính thức làm Lễ
Đăng Quang. Một kỷ nguyên mới bắt đầu cho nước Mỹ và cho thế giới. Suy ngẫm từ
chính bản thân mình, qua thời gian đã biến đổi như thế nào từng thời kỳ. Những
thăng trầm khổ ải, những đau buồn, những hoan lạc, vinh nhục tôi đều đã nếm
mùi. Giờ đây bước vào tuổi U90, tôi luôn cảm tạ Đất Trời đã cho tôi sống sót
qua cuộc chiến đẫm máu ngày nào. Đọc trên báo chí hàng ngày khi nhìn thấy tên
tuổi những người thân quen, đồng đội đồng môn, niên trưởng niên đệ trên các
trang cáo phó lòng tôi có chút u buồn vì chia ly nhưng rồi nghĩ lại thân phận
mình cũng sẽ có một lần như thế. Lẽ tử sinh là chuyện thường tình và bản thân
đã chẳng biết bao lần vào sinh ra tử đó sao. Sống dài ngắn đâu có nghĩa gì bằng
mình đã sống như thế nào. Sống như một công dân có trách nhiệm với đất nước, thủy
chung với bạn hữu, gia đình vợ con đã đủ làm cho tôi hài lòng với cuộc đời
mình. Lúc cuối đời, lâu lâu bắt gặp lại những chiến hữu từng sống chết trên chiến
trường xưa, ngồi nhâm nhi bên ly trà, cà phê nhắc lại những câu chuyện cũ, những
kỷ niệm xương máu cũ lại thấy lòng rộn ràng sức sống. Những buồn đau vì sự phân
hóa chia rẽ không thể hàn gắn được giữa bạn hữu cùng chung lý tưởng nhưng khác
cách suy nghĩ và hành động chẳng còn làm tôi thao thức mất ngủ vì tự thân đã nhận
ra sự khác biệt là đương nhiên giữa con người với nhau. Nỗi nhớ quê hương nguồn
cội có lẽ là niềm ưu tư duy nhất không phai mời trong lúc tuổi xế chiều. Lìa xa
đất nước, sống phiêu bạt quê người cho dù cuộc sống tự do no ấm thoải mái nơi
đây vẫn không xóa nhòa hình ảnh về một quê hương ngày nào nơi đó có ông bà tổ
tiên của mình đã từng sinh sống. Cảnh quan, môi trường quen thuộc của thời niên
thiếu, đồng lúa, lũy tre làng, những khu phố tiệm ăn của thành phố Cảng nơi tôi
được sinh ra. Những ngôi trường, các thầy giáo hết lòng yêu thương truyền dậy
kiến thức làm người….lũ bạn cùng phố đá bóng, đánh bi đánh đáo ….Tất cả những
hình ảnh ấy đúc kết lại thành một quá khứ gắn chặt với ký ức để mang theo cả cuộc
đời. Có đôi lúc tôi lúc thiển nghĩ, quê hương là nơi cho mình cơ hội làm người
và sống với tư cách một con người theo nghĩa cao đẹp của nó. Quê hương hiểu
theo định nghĩa đó để tự an ủi bản thân rằng quê hương không chỉ bó hẹp trong
giới hạn địa lý trên bản đồ, nhất là khi thế giới đã đi vào kỷ nguyên trí thông
minh nhân tạo và hệ thống liên lạc truyền thông đã trải khắp trên mọi nơi trên
hành tinh này để rồi thanh thản chấp nhận nơi này cũng là quê hương.
Năm mươi năm nhìn lại cuộc đời, những điều đắc /thất, có được/ mất không, nhục
vinh xướng khổ tôi đã nếm trải. Chút thời gian còn lại tôi tự nhủ đã đến lúc
buông bỏ tất cả để ra đi trong nhẹ nhàng thư thái như bao bạn hữu xa gần đã ra
đi. Ở lớp tuổi ngồi đợi trên sân ga chờ chuyến tầu lên đường trở về cõi hư
không như những bạn đồng môn khác nếu có chăng còn chút ưu tư suy ngẫm về cuộc
đời của mình, có lẽ chỉ là ao ước mọi bất hòa giữa các đồng môn Võ Bị sớm chấm
dứt để hình ảnh đẹp đẽ của những chàng trai Võ Bị một thời chỉ mờ dần theo thời
gian như hình ảnh những người lính già trong câu nói của tướng MacArthur “Old
soldiers never die; they just fade away“.
Con người ai cũng chỉ sống có một lần. Hãy cố gắng sống sao cho khỏi phải ân hận
vì đã sống hoài sống phí và đừng để hổ thẹn về dĩ vãng ti tiện hèn đớn của
mình.
Song Vũ
(Tháng
Giệng 2025)