Mùa phượng vĩ-
tranh Đặng Mậu Tựu
Trưa vàng, cỏ biếc, trời xanh,
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.
Trần Dạ Từ
“Kính thưa quý khách, chúng ta sắp sửa đáp xuống phi trường Tambo. Thành phố Johannesburg chào đón quí khách với nhiệt độ 20 độ C…” Tôi choàng tỉnh, sau hơn mười tiếng đồng hồ mệt mỏi của chuyến bay xuyên lục địa. Phi cơ một lèo xuôi nam, từ Munich xuống Johannesburg, cùng kinh tuyến, bởi vậy, không chênh lệch giờ. Cất cánh tối Chủ Nhật, sáng Thứ Hai có mặt, đúng giờ cho họp hành, hội nghị. Nếu bay về hướng đông, tôi đã gần tới Bangkok, có thể cảm nhận được chút hơi hướm quê nhà Á Châu yêu dấu.
Nơi đây,
Johannesburg của nước Nam Phi, là hai thế giới trong một thành phố. Công ty tôi
có quy định rất nghiêm ngặt về chuyện đi lại trong quốc gia này. Để bảo đảm vấn
đề an ninh cho nhân viên, văn phòng luôn sắp xếp người đón đưa chu đáo. Tôi đảo
mắt nhìn quanh, bắt gặp một người đưa cao tờ giấy có những mẫu tự ngoằn ngoèo,
trông giống tên tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thấy tôi đến gần, người đàn ông nhoẻn
miệng cười. Màu da đen sẫm làm răng anh ta như trắng hơn. Tôi liên tưởng đến quảng
cáo kem đánh răng Hynos ở Việt Nam cách đây mấy thập niên. Sau khi nhận mặt người
quen, anh ta lịch sự thăm hỏi thường tình, nhanh nhẹn kéo phụ va-li cho tôi.
-Hi, Miss Thi. How are you? How was
your flight? Chào
Cô Thi. Chuyến bay của cô thoải mái chứ?
Tôi mỉm cười:
-Cám ơn
anh. Cũng tạm.
Đó là chuyến
bay đêm, a night flight. Các đồng
nghiệp gọi đùa là nightmare flight.
Anh ta tự giới thiệu:
-Tôi là
Moffat. Tôi sẽ đưa cô về Radisson Blu. Cô lo thủ tục nhận phòng. Tôi sẽ trở lại
một tiếng đồng hồ sau đó, đón cô đến văn phòng.
Tự nhiên
trong đầu tôi chuyển tên Moffat thành Mô-Phật. Mô-Phật có khuôn mặt tròn tròn,
hiền hậu, đôi chút dáng dấp của các chú tiểu. Nhưng nước da nặng màu bánh gai
hơn màu bánh mật. Tôi luôn cố gắng sáng tác mẹo vặt “bồi dưỡng” trí nhớ ngắn hạn
của mình. Phải làm như vậy, để nhớ tên, nhớ số, nhớ những chi tiết lặt vặt,
mình không có cơ hội ghi chép. Lầm lẫn, hoặc quên có thể gây ra tình huống vụng
về, khó xử.
Vừa trải
qua những ngày đông đến sớm ở Munich, đôi ngày có mưa tuyết ướt lạnh, buổi sáng
sương muối rét cóng, tôi thấy lòng mình rộn lên niềm vui, giữa bình minh, trong
nắng sớm nhẹ nhàng của thành phố Johannesburg.
Tôi lịch sự
hỏi thăm về những chuẩn bị của Nam Phi cho mùa giải túc cầu thế giới trong năm
tới. Mô-Phật như trúng đài, kể huyên thuyên, chỉ trỏ khắp nơi:
-Cô xem
này, đây là đường xe điện ngầm, dẫn ra phi trường, dự định sẽ xong đầu năm tới.
Cô có thấy bên kia không? Một cái cầu được xây song song, mới giải quyết thỏa
đáng lượng xe cộ đông đảo.
Tôi dạ nhịp:
-Yes, yes, I see.
Tôi khơi
thêm đôi ba câu hỏi để đáp lại tấm thịnh tình của Mô-Phật. Bỗng nhiên, mắt tôi
như reo lên mừng rỡ, khi thấy những tàng hoa màu tím, như ngợp trời, điểm ít lá
xanh, thật đẹp. Tôi vội đổi đề tài:
-Moffat, mấy
cây hoa màu tím là hoa gì xinh quá vậy?
Mô-Phật vui
vẻ:
-Jacaranda đó cô ạ. Hoa mùa hè đấy.
Tôi liên tưởng
đến phượng hồng, hoa học trò của Việt Nam. Tai tôi nghe lan man những lời cắt
nghĩa của Mô-Phật. Nhưng trí tôi lại bâng khuâng, lãng đãng đâu đâu với những
câu hát… những chiếc giỏ xe chở đầy hoa
phượng, em chở mùa hè của tôi đi đâu… Phải rồi! Hoa mùa hè là phượng. Hoa học
trò màu tím là phượng tím. Tại sao không! Sau này, tôi mới vỡ lẽ ra rằng mình
quá lạc hậu. Biết bao nhiêu người xuýt xoa gọi Jacaranda là phượng tím tự hồi nảo, hồi nao. Chứ tôi nào phải người
đặt tên cho Jacaranda đâu. Xe chạy gần
những hàng cây, tôi kịp thấy những lá lăn tăn giống lá hoa phượng. Qua nhiều
ngõ phố, những hàng phượng tím hai bên đường như chụm đầu tình tự với nhau. Trời
ơi, giá mà bây giờ có thể níu cành, ngắt vài cánh hoa, chiếc lá, thích thú mê
tơi. Tôi mằn mò quanh quẩn hỏi thăm Mô-Phật, muốn được xuống xe, chụp một tấm
hình đứng cạnh phượng tím. Mô-Phật lắc đầu quầy quậy:
-Không được
đâu cô ơi. Cô nhìn thấy không? Sát sau hàng cây là những hàng rào, có ghi rõ
công ty bảo vệ an ninh. Nếu cô lại gần, họ sẽ nổ súng. Hậu quả ra sao, ráng chịu.
Thấy tôi thất
vọng, Mô-Phật an ủi:
-Hôm nào
làm việc xong ở đây, cô thu xếp đi chơi Pretoria một chuyến. Ở đó cơ man là Jacaranda. Thể nào cô cũng toại nguyện.
-Ừ, đành vậy.
Chắc chắn tôi sẽ tìm dịp đi Pretoria.
Pretoria là
thủ đô hành chánh của nước Cộng Hòa Nam Phi. Pretoria nổi tiếng với những hàng
cây Jacaranda, rộ nở từ tháng mười.
Mùa hoa, thành phố như như khoác chiếc màu xanh tím, yêu kiều, diễm lệ. Bởi thế,
Pretoria còn được gọi là Jakarandastad,
thành phố Phượng Tím. Mùa Jacaranda
trùng vào mùa thi vào đại học. Cho nên, ở đó, thí sinh truyền miệng nhau rằng,
nếu ai được hoa Jacaranda rơi trúng đầu,
có quyền nghêu ngao rằng... Hôm nay ngày
thi, bao nhiêu người đi. Xe! rộn rịp. Lớp! tràn người, niềm vui vấn vương...
đây bao tiếng cười đắc ý khoe rằng, “Phen này ta trượt thì ai đậu cho” ...
Buổi chiều ở
phòng họp, sau khi trình bày cho đồng nghiệp những phương án quản lý tín dụng,
lúc tôi đề nghị nghỉ giải lao, là lúc điện thoại di động của tôi reo. Đám bạn đồng
nghiệp đùa, ai đó đã sắp xếp giờ giấc rồi.
-Thi đó hả?
Nguyên đây, Nguyên Việt Nam, Nguyên Quảng Ngãi đây.
Tôi ngạc
nhiên quá đỗi. Nghĩ thầm, trời đất, ở đâu Nguyên có số điện thoại của tôi. Tôi
vui, nhưng không nén nổi tò mò:
-Biết rồi,
nhớ ra rồi, khỏi phải kê khai lý lịch. Làm sao Nguyên có số điện thoại của Thi
vậy?
Tiếng
Nguyên cười thích thú:
-“Théc méc”
làm chi. Thi có rảnh để nói chuyện không?
Tôi vội giải
thích:
-Không rảnh.
Thi đang đi làm ở Nam Phi. Nhưng nói chuyện vẫn được.
Nguyên hối
hả:
-Đang ngồi
chung với đám bạn bè cũ. Tụi nó chọc ghẹo Nguyên, thách Nguyên có dám gọi cho
Thi hay không.
Xem ra cuộc
điện đàm còn nhiều điều hấp dẫn, tôi đưa tay ra dấu với đồng nghiệp xin thêm
vài phút. Nguyên huyên thuyên:
-Nhiều bài
hát Nguyên thích lắm Thi ạ: Đường Xưa,
Phượng Hồng… Bây giờ Thi cho phép
Nguyên hát vài câu tâm đắc thôi nghen.
Ủa, sao mà
trùng hợp dữ vầy ha. Mới sáng nay, khi say mê ngắm những hàng phượng tím của
Johannesburg, trí tôi đã reo lên, nhớ đến những câu: Cánh phượng hồng ngẩn ngơ/ Mùa hè đến trường khắc nỗi nhớ trên cây/ Ai
cũng hiểu chỉ một người không hiểu/ Nên có một gã khờ ngọng nghịu đứng làm
thơ...
Nguyên ê a:
-Ai về sau dãy núi Kim Bôi, nhắn giùm tim tôi
chưa phai nhoà...
Tôi phì cười,
cắt ngang:
-Ủa, Nguyên
định giới thiệu cho trung tâm ca nhạc mời Thi đóng vai sơn nữ hả?
Giọng
Nguyên bỗng nghiêm chỉnh, đổi cách xưng hô:
-Mình không
biết tại sao. Mình rất thích bài hát này. Mỗi khi nghe những lời ca này, mình lại
nghĩ đến bạn... Mà thôi, chắc Thi đến giờ phải làm việc há? Cho mình hát một
câu nữa nghe, “Hỡi người xa xăm đó, biết
nhau thì xa nhau…”
Tôi vẫn giữ
tiếng cười. Nói với Nguyên, cho tôi gởi lời thăm bạn bè, chúc tất cả vui vẻ.
Tôi nhủ thầm, hên quá, mình chưa xài điện thoại có hình. Không thôi, chắc
Nguyên sẽ thấy tôi bổi hổi, bồi hồi.
Trở về
phòng họp, trí tôi lan man, không tập trung được. Cũng may, tôi đã “nhuyễn như
cháo” mấy đề tài tôi trình bày, nên không lạng quạng. Sau màn thảo luận, hỏi
đáp như thường lệ, tôi thở phào nhẹ nhõm, khi mọi người bảo không còn thắc mắc
gì nữa.
-Vậy chúng
ta kết thúc buổi hội thảo hôm nay nhé.
Yogi rủ rê:
-Thi đi ăn
tối với tụi mình chứ?
Tôi thoái
thác:
-Cám ơn
Yogi. Hôm nay mình hơi mệt. Để tối mai nha.
Tôi chỉ muốn
ăn qua loa, dành thì giờ nghỉ ngơi và cho đầu óc rong chơi. Từ vuông cửa sổ
phòng khách sạn, tôi nhìn mông lung xuống thành phố bên dưới. Trong nắng chiều
tà, những tàng phượng tím đẹp quyến rũ lạ lùng. Cuộc sống đôi khi có những tình
cờ kỳ diệu. Bao lần đến Johannesburg, mảnh đất ở phương nam châu Phi vẫn tạo
nhiều ấn tượng trong tôi. Nhưng mãi lần này, tôi mới thấy những hàng phượng
tím. Những cây Jacaranda bao năm khoe
sắc ở thành phố này, chứ đâu phải mới rộ nở cho tôi ngắm lần này đâu! Thật lạ,
thấy phượng tím, bỗng dưng tôi lại nhớ mấy câu hát trong bài Phượng Hồng, một bài hát dường như hơi
thời thượng đối với tôi. Bài hát ra đời khi tôi đã sống xa Việt Nam. Lẽ thường,
với tâm hồn “cổ” của tôi, thấy phượng, tôi tất nghĩ đến Yêu người! Yêu Phượng! Yêu hoa đầu mùa, yêu mầu rực rỡ, yêu em mù
loà... Vậy rồi, vài tiếng đồng hồ sau, nhận điện thoại của Nguyên, của người
bạn ấu thơ, nghe nhắc đến bài hát Phượng
Hồng. Cảm giác mang mang, bâng khuâng, khó tả trong hồn. Hoàng hôn ở thành
phố Johannesburg của Nam Phi, lục địa xa lắc quê nhà, tôi đang chầm chậm những
bước lần qua lối xưa, tìm về ký ức của mấy chục năm trước.
Thời mẫu
giáo ở trường thầy Thống, tôi đã là học sinh chăm chỉ, khi bập bẹ đánh vần. Những
năm tiểu học, tôi đều đặn hãnh diện mang những bảng danh dự đủ màu đem về nhà
trình Ba Mạ. Xong lớp Năm, đám học trò tiểu học thi vào trung học. Ba Mạ cho
tôi theo học luyện thi Đệ Thất ở trường thầy Khiêm. Thời ấy, đa số các học sinh
lớp Năm ở Nữ Tiểu Học, Nam Tiểu Học đều “vâng lệnh song thân” đi dùi mài kinh sử
ở các trung tâm luyện thi của thị xã Quảng Ngãi. Khi vào trường thầy Khiêm, con
gái học chung với con trai. Nguyên là một trong những khuôn mặt nổi bật trong
đám nam sinh trường thầy Khiêm. Nguyên nổi, nhờ học rất giỏi, mà phá phách cũng
kinh khủng. Mấy gốc mận, gốc ổi, oằn thân vì những trò leo trèo của đám con
trai. Chúng truy những trái mận chua, ổi chát. Đã đời, chúng săn đâu đó vài con
sâu, cho ngo ngoe dọa, tụi con gái sợ hãi, mặt mày xanh lét. Nguyên có khi “thò
què, thọt quẹt” lấy dây thun, quấn giấy tròn, bắn tụi tôi. May, các thầy giáo cấm
tiệt không cho đem ná gỗ vào trường. Chớ không, những màn ẩu đả với món vũ khí
này chắc hẳn khốc liệt lắm. Từ nhỏ, tôi có “tật” thích mình học giỏi và nể người
học giỏi. Bởi vậy, tôi để ý đến Nguyên, luôn muốn làm sao giỏi cho bằng. Nguyên
chọc phá, tôi quạu. Nhưng Nguyên học giỏi quá, làm tôi “nực” hơn. Cứ
như vậy, thuở đó, hai đứa tôi “trộm nhìn nhau” ra vẻ... tình thù rực nắng. Hình
như toàn bộ học sinh luyện thi ở trường thầy Khiêm đều đậu vào hai trường trung
học công lập, nam sinh vào Trần Quốc Tuấn, nữ sinh vào Nữ Trung Học. Từ đó,
chúng tôi... đường đời hai lối. Tôi hết xụ mặt vì bị địch thủ bắn dây thun. Tôi
thôi ấm ức vì đối thủ nhanh tay hơn, tìm ra đáp số của bài toán đố hóc búa “vừa
gà, vừa chó, bó lại cho tròn, đếm đủ 100 chân” hoặc phép tính động tử cùng chiều,
nghịch chiều... Tôi hân hoan vào trường Nữ Trung Học, yêu kính thầy cô, mến
thân bè bạn ở ngôi trường con gái gần bốn năm. Sau biến cố 1975, trường Nữ
Trung Học dành cho học sinh trung học đệ nhất cấp, tên gọi trong chế độ mới là
trường cấp II. Học trò trung học đệ nhị cấp, tức cấp III, chuyển sang trường Trần
Quốc Tuấn, nam nữ học chung. Niên khóa 1975-1976, tôi vào lớp 10B, trường Trần
Quốc Tuấn. Học môn chính là Văn và Anh Văn. Tôi gặp lại Nguyên, học lớp 10C,
ban Toán Lý. Học khác lớp, khác ban, tôi chẳng ngó ngàng đến “cố nhân”, để
“kình” nhau chuyện học hành như thuở học luyện thi. Vả lại, sau biến động 1975,
cuộc sống êm đềm của gia đình tôi trải qua nhiều bất trắc. Đang là một học trò
chỉ một đam mê học hành, tôi có nhiều trăn trở, âu lo khác. Tôi đâm ra thờ ơ
sách vở. Ba tôi đang đâu đó nơi trại cải tạo. Nhà sách của Mạ tôi đã “cống nộp”.
Giờ chỉ còn quán cà phê là phương tiện sinh sống của cả gia đình. Nhà không còn
người giúp việc, tôi phải đảm trách việc “chạy bàn”. Quán cà phê của nhà tôi rất
đông khách, rất nhiều nam sinh Trần Quốc Tuấn. Lúc đó, tôi chỉ là con bé 15, 16
tuổi, cái tuổi với những tự ái vặt, kỳ quái. Tôi không ngại cực thân, nhưng tôi
tủi phận. Vì mình phải bưng bê phục vụ cho đám bạn, mà lúc gặp trên trường,
mình nghinh nghinh, làm mặt lạ. Nguyên thỉnh thoảng đến quán cà phê cùng các bạn
khác. Tôi tảng lờ, như chưa gặp những trang công tử này bao giờ. Mặt mày tôi
nhăn nhó, khó thương. Có lần, một tên trong đám “cá độ”:
-Đứa nào chọc
cho cô hàng cà phê cười, tao đãi một chầu.
Tôi mặc kệ,
lạnh lùng dằn mấy tách cà phê xuống bàn. Tên khác lên giọng:
-Thi hổng
nói, hổng cười. Ờ, mà sao hông cười một nụ để bán cho được hàng.
Tôi nín cười
không được, vội tuôn ra sau nhà, bật cười rích rích. Rồi lại khoác bộ mặt lựu đạn
ra đối đầu với khách hàng.
Hết năm lớp
10, nhà tôi bị tịch thu. Lý lịch đen ngòm. Mấy chị em tôi phải “di dân” vô Sài
Gòn để có cơ hội cắp sách đến trường. Từ đó, hình ảnh Nguyên bị dồn chung với
những kỷ niệm thời học luyện thi, mờ nhạt, dần trôi vào quên lãng.
Cách đây
nhiều năm, trong lần về Việt Nam cùng đại gia đình, tôi có vài “sự kiện lịch sử”
đáng nhớ. Ngày nọ, tôi “ế độ”, bạn bè tôi lặn đâu mất tiêu. Nói theo giọng nam
của đứa em họ:
-Ủa, bữa
nay chị hỏng có “mục”, có “nhọt” gì hết trơn dzẩy?
Chị tôi gạ,
theo chị đến nhóm họp bạn của chị:
-Nghi học lớp
chị nói, em hắn là bạn của mi!
Tôi lơ đễnh:
-Em ảnh tên gì vậy?
-Ô, chị
quên hỏi. Để chị gọi Nghi, rủ em hắn đến chơi luôn.
Khi đến họp
bạn, chị tôi dẫn tôi đến gặp anh Nghi. Tôi không hề nhớ chút gì về anh Nghi.
Anh Nghi thân thiện:
-Ngồi chơi
đi em. Để anh gọi Nguyên, hối nó mau mau tới đây.
Ồ, ồ, có phải
Nguyên hồi tiểu học không hè, tôi nghĩ thầm. Anh Nghi điện thoại, nói nói, cười
cười một hồi, rồi đưa điện thoại cho tôi:
-Nguyên muốn
gặp em nè.
Tôi bỗng rụt
rè:
-Dạ, Thi
đây.
Một tràng
cười khanh khách:
-Trời đất,
sao dạ thưa lễ phép quá vậy! Biết ai đây không?
Nếu anh
Nghi không nói là Nguyên, đành chịu, chớ biết sao nổi. Tôi làm ngon:
-Biết chớ,
biết chớ!
Nguyên vội
vàng:
-Nguyên
đang trên đường đến đó. Sẽ mang cho Thi một món quà đặc biệt. Chút nữa gặp nói
chuyện nhiều nghe.
Bạn bè chị
tôi nói cười rân ran. Tôi ngồi hóng chuyện, ngọ nguậy nhìn ra cửa chờ Nguyên.
Lát sau, thấy một “bác” với mái tóc muối tiêu, muối nhiều, tiêu ít, đang đi về
phía bàn của tôi, tôi nhìn thoáng “bác”, rồi lại lóng ngóng dõi mắt tìm Nguyên.
Chợt nghe tiếng chào rất gần bên tai:
-Thi hả? Về
Việt Nam thấy vui không?
Tôi ráng giấu
nỗi ngạc nhiên, “ông bác” này là Nguyên đó sao. Tại Nguyên già sớm, hay tại tôi
trẻ lâu. Ký ức tôi đang loay hoay tìm gạch nối giữa cậu bé láu lỉnh thuở xưa và
ông bác tóc bạc bây giờ. Nguyên kéo ghế ngồi bên cạnh. Tôi đằng hắng, rồi hỏi một
câu... lãng nhách:
-Nguyên khỏe
không?
-Ừ, Thi thấy
đó. Khỏe re như con bò kéo xe. Thi chắc vui triền miên. Thấy Thi cũng vậy, y
như hồi xưa.
Nếu bây giờ
tôi khách sáo rằng, Nguyên cũng vậy, nghe chẳng thuận tai chút nào. Tôi giơn giỡn:
-Mấy chục
năm qua rồi, mà Nguyên nói Thi giống như hồi xưa! Bộ, hồi đó Thi đã già sẵn rồi,
nên giờ không già thêm sao?
-Đó, đó, giống
cái kiểu hỏi cắc cớ đó mà.
Nguyên rút
trong túi áo một bao thư đưa tôi:
-Món quà
cho Thi đây. Nguyên giữ món quà này hơn 30 năm rồi đó nghen.
Tôi hồi hộp
quá chừng, cám ơn và xin phép khui quà. Trời ơi! Tấm hình chụp lớp học luyện
thi vào trung học. Sau khi thi đậu, thầy Khiêm tổ chức cho các thí sinh đi du
ngoạn ở Cấm Ông Nghè. Nguyên láu táu:
-Bao nhiêu
năm bôn ba, có khi đầu đường xó chợ, Nguyên gởi tấm hình nhờ bà già cất chung với
giấy tờ quan trọng. Cho nên tấm hình không bị thất lạc. Bao nhiêu năm, Nguyên cứ
nghĩ, sẽ gặp lại Thi, để tặng Thi món quà này đó.
Tấm hình
này tôi đã mất ngay lần bị tịch thu nhà. Tôi mân mê tấm hình đen trắng, hơi có
sắc vàng vì lâu năm. Dù hình cũ, nhưng sắc nét. Tôi có thể nhận ra các bạn bè
trong hình. Đám học trò tiểu học mặc đồng phục đầm trắng, đứng ngay ngắn. Con
gái hàng trước, con trai hàng sau. Thầy Khiêm và một thầy giáo khác đứng hai
bên. Dễ thương quá trời. Tôi mừng rỡ:
-Vui lắm đó
Nguyên. Món quà rất, rất đặc biệt Nguyên à. Thi xin mượn đem ra tiệm chụp, rồi
gởi lại Nguyên nghe.
Nguyên cười
nhẹ:
-Không, đã
nói là quà cho Thi mà.
Tôi cảm động:
-Vậy không
biết nói chi hơn là cám ơn nhiều.
Sau đó, tôi
còn ở Việt Nam hai tuần lễ. Nguyên chẳng liên lạc với tôi. Chỉ nghe chị tôi kể:
-À tình cờ
hôm qua đi uống cà phê với Nghi, Nguyên có đi theo. Nó rù rì kể chuyện xưa cho
chị nghe. Mà tụi bây học sau xa, chị có nhớ đứa nào là đứa nào đâu.
Chúng tôi về
lại Đức, Nguyên thỉnh thoảng gọi điện thoại tán gẫu với chị tôi. Qua những mẩu
chuyện đó đây, tôi biết thêm chút chút về Nguyên. Nguyên lưu lạc vào Sài Gòn.
Hòn ngọc viễn đông của cuối thập niên 70, rơi vào tận cùng của nghèo khổ, nhọc
nhằn. Nguyên có bao nhiêu nghề không tên. Hùn vốn với ông anh họ bán giày dép,
mũ nón, công an đuổi chạy mấy lần, không những mất mớ hàng, mà cả đôi dép mang
trong chân cũng vuột luôn. Nguyên có thời kỳ xin được chân bỏ nước đá cho mấy
quán cóc cà phê trước trường Cao Đẳng Sư Phạm. Lúc đó, Nguyên biết tôi đang học
ở Đại Học Sư Phạm, nhưng không có ý tìm. Nguyên kể đùa với chị tôi, tại hồi đó
em lam lũ quá, nghèo quá, nên ngại, không dám tìm con Thi. Chớ khá khá một
chút, cũng đứng chờ nó đi học về, để cua nó. Đó là những điều Nguyên kể cho chị
tôi nghe chuyện của những năm khốn khó. Chứ khi tôi gặp lại Nguyên, Nguyên
trông đà có dáng dấp của “đại gia”. Đi đâu, tiền hô hậu ủng, đường đường chủ
nhân ông, oai vệ lắm. Lần khác, chị tôi nghe Nguyên kể, có lần vượt biên, ghe
con của Nguyên bị lọt lại, Nguyên phải nằm “khám” hết mấy tháng. Một trong những
người đi chuyến đó, được nước Đức tiếp nhận trong chương trình nhân đạo. Nguyên
nói đùa với chị tôi:
-Phải chi
em đi lọt, qua Đức, em gặp con Thi, em o nó được rồi.
Chị tôi cười
cười:
-Em định
tán cô nào, nhớ bỏ bớt chữ con trước tên, và đừng gọi là nó, mà gọi là cô ấy, gọi
nàng... nghe cho êm tai. Với lại, con em chị, nhỏ đó “khíu chọ” ba vụ xưng hô lắm.
Nguyên cười
khịt khịt:
-Dạ, em biết chứ
chị. Nhưng nghĩ tới con
Thi, em chỉ nhớ tới con bé tóc bum bê nhỏ xíu hồi học luyện thi à. Em nhớ tới đợt
truyện của Duyên Anh, có con Thúy, thằng Vũ, thằng Khoa... Cho nên, chữ con dính như keo vô tên nó rồi. Lỡ con
Thi kêu em là thằng Nguyên, em vẫn cứ thấy… tình tứ hà.
Chị tôi đổi
giọng:
-Ừa, tùy ý
chú mầy. Chị nói vậy cho vui, chớ chị hổng bàn ra, tán vô gì đâu nghen.
Phải chi,
ngày xưa, thay vì giấu sách vở của tôi, Nguyên ép vài lá trứng cá trong tập tặng
tôi. Phải chi, thay vì bắt con sâu dứ dứ cho tôi sợ điếng, Nguyên lấy lá dừa thắt
cho tôi con châu chấu. Biết đâu, khi gặp lại, Nguyên không những tặng tôi tấm
hình mấy chục học trò đứng lố nhố. Mà còn tặng thêm tấm hình, chỉ mỗi một cô bé
mặc áo dài trắng, tóc ngang vai, ôm cặp đứng trước cổng trường Nữ Trung Học. Biết
đâu, mặt sau tấm hình nghiêng nghiêng nét chữ nắn nót của tôi:
Trưa vàng, cỏ biếc, trời xanh,
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.
Hoàng
Quân
Lời nhạc từ
những nhạc phẩm:
* Phượng Hồng của nhạc sĩ Vũ Hoàng, Thơ Đỗ
Trung Quân
*Mùa Thi của nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng
* Nụ Cười Sơn Cước của nhạc sĩ Tô Hải
* Tiếc Một Người của nhạc sĩ Thanh Bình